Professional Documents
Culture Documents
C. Chính PH
C. Chính PH
b) CP phải chấp hành đường lối, chủ trương được quy định trong HP, Luật,
NQ của QH; NQ, Pháp lệnh của UBTVQH
- CP không được quyền phủ quyết các luật do QH ban hành, không được quyền đề
nghị QH xem xét lại các QĐ của QH.
- CP phải ban hành cá VB dưới luật như NĐ, Thông tư, Chỉ thị… để hướng dẫn thi
hành Luật của QH và Pháp lệnh của UBTVQH.
- CP phải họp bàn, tìm các biện pháp hữu hiệu để triển khai để triển khai thi hành
đường lối, chủ trưởng của QH trong thực tế cuộc sống.
QH chỉ họp để biến tâm tư, nguyện vọng của cử tri thành đường lối, chủ
trương, chính sách của QH và QH lập ra CP suy cho cùng là để CP thi hành đường lối,
chủ trương, chính sách trong thực tế cuộc sống.
* ĐIỂM MỚI THEO ĐIỀU 94 HP 2013 SO VỚI ĐIỀU 109 HP’92 VỀ VỊ TRÍ,
TÍNH CHẤT PHÁP LÝ CỦA CP. Có hai điểm mới quan trọng:
1/ LẦN ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ LẬP HIẾN VN, TẠI ĐIỀU 94 HP 2013
CHÍNH THỨC QUY ĐỊNH CP LÀ CQ “THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP”.
GIẢI THÍCH VÀ BÌNH LUẬN
- Với việc quy định CP là CQ “thực hiện quyền hành pháp” chứng tỏ HP 2013
tiếp tục có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng hơn các nhánh quyền lực còn lại. Nếu như
tại Điều 92 HP’92 có nêu ra 3 nhánh quyền lực là LP, HP, TP nhưng trong toàn bộ bản
HP này thì không quy định rõ CQ nào thực hiện quyền lực gì. Rút kinh nghiệm này, HP
2013 đã quy định rõ CQ nào thực hiện quyền lực gì, cụ thể là theo Điều 69 HP 2013 quy
định QH thực hiện quyền LP, Điều 94 HP 2013 quy định CP thực hiện quyền HP, Điều
102 HP 2013 quy định quyền TP.
Điều này chứng tỏ HP 2013 đã tiếp thu thêm những hạt nhân hợp lý của học
thuyết phân quyền rằng ta đang phân quyền hóa từng bước BMNN vì nếu phân công,
phân nhiệm không rõ ràng giữa các nhánh quyền lực thì sẽ dẫn đến chồng chéo về chức
năng nên dẫn đến không hiệu quả về công việc và không thể quy kết trách nhiệm nếu có
sai phạm xảy ra.
- Với quy định CP là CQ thực hiện quyền hành pháp thì CP đã là một nhánh quyền
lực thật sự, nắm trọn vẹn trong tay một loại quyền lực. CP đã có 1 vị trị độc lập và cân
bằng so với QH và TA, không còn là CQ phái sinh từ QH. Với tư cách là CQ thực hiện
quyền hành pháp, một nhánh quyền lực quan trọng (bậc nhất trong 3 nhánh quyền lực) thì
CP phải chủ động trong việc kiến tạo, hoạch định, quyết định và thực thi các chính sách
quan trọng của QG để mang lại sự phát triển, thịnh vượng cho QG, dân tộc chứ không
được ỷ lại, bị động, trông chờ vào quyết sách của QH và CP phải tự chịu trách nhiệm
trong việc thực hiện quyền hành pháp nếu có sai phạm xảy ra.
Cần phân biệt phạm trù “quyền hành pháp” và “hành chính” là hai thuật
ngữ khác nhau. Thuật ngữ “quyền hành pháp” lần đầu được để cập trong HP 1787 của
Hoa Kỳ - là bản HP thành văn đầu tiên của nhân loại – và tại Điều 2 của HP này đã
chính thức tuyên bố được cho là của CP và đứng đầu là TT Mỹ. Bản HP này không giải
nghĩa quyền hành pháp bao gồm những nội dung gì mà nó giao cho Tòa án được quyền
giải thích thuật ngữ dựa trên từng giai đoạn, hoàn cảnh khác nhau trong đời sống xã hội
– lịch sử. Làm HP Mỹ sống động theo thời gian.
Mãi đến HP’58 của CH Pháp thì Charles DeGaulle đã có định nghĩa khá đầy
đủ về quyền hành pháp. Theo ông, quyền hành pháp là 1 nhánh quyền lực thật sự và là 1
loại quyền lực trọn vẹn (1 trong 3 loại quyền lực cấu thành quyền lực NN) thì quyền
hành pháp phải có 2 nội dung cơ bản:
+ Hoạch định, kiến tạo và quy định chính sách hành pháp ở tầm vĩ mô, chiến lược.
+ Điều hành, quản lý sự vụ để thực thi cá chính sách hành pháp trong thực tế (hay
còn được gọi là công tác hành chính). Hành chính chỉ là 1 nội dung của hành pháp.
DeGaulle đã sáng tạo ra CH hỗn hợp với CP lưỡng đầu: TT là người kiến tạo,
hoạch định chính sách hành pháp ở tầm vĩ mô, chiến lược còn TTg là người điều hành,
quản lý và thực thi những đường lối, chính sách hành pháp do TT đặt ra.
- Các bản HP trước năm 2013 không có 1 quy định nào để quy định CQ nào sẽ
thực hiện quyền hành pháp hay CP thực hiện quyền HP mà chỉ quy định rằng CP là CQ
hành chính cao nhất. Nguyên do là vì năm 2013, do chịu hưởng từ tư tưởng tập quyền
XHCN, toàn bộ quyền lực NN nằm trong tay QH, theo đó, quyền hành pháp là của ND
và ND trao lại quyền này cho QH. Nhưng QH không thể trực tiếp thực hiện quyền này
nên trao lại cho CP nhưng QH lại không trao hết quyền hành pháp cho CP. Dẫn đến quan
niệm rằng cả QH và CP cùng chia nhau quyền hành pháp, theo đó QH đóng vai trò hoạch
định và quy định, kiến tạo chính sách hành pháp ở tầm vĩ mô, chiến lược còn P chỉ là
người điều hành, quản lý, thực thi những chính sách hành pháp ấy. Do đó, các bản
HP trước đây không quy định đâu là CQ hành pháp, tạo sự bị động, ỷ lại, trông chờ
vào QH của CP.
- Rút kinh nghiệm đó, tại Điều 94 HP 2013 đã tuyên bố rằng CP đã thực hiện
quyền hành pháp nghĩa là CP nắm trọn vẹn 1 loại quyền lực, là 1 nhánh quyền lực thật sự
nên CP phải thật sự chủ động trong hoạch định, kiến tạo, quy định chính sách hành pháp
ở tầm vĩ mô, chiến lược và phải là chủ thể chủ động trong thực thi những chính sách ấy
đó trong thực tế đời sống, không thể trông chờ, ỷ lại vào QH.
- Trước năm 2001, số lượng CQ trực thuộc CP là rất nhiều, có tới 26 CQ trực
thuộc CP và Thủ trưởng các CQ này về địa vị pháp lý tuy không được coi là Bộ trưởng
nhưng lại được quyền ban hành VBQPPL như Bộ trưởng. Kể từ năm 2001 đến nay,
nước ta đã tiến hành cải cách triệt để 26 CQ này theo hướng nhập các CQ trực thuộc CP
lại với nhau hoặc nhập các CQ trực thuộc CP vào các Bộ có chức năng tương ứng (Tổng
cục Địa chính nhập vào Bộ Tài nguyên và Môi trường – quản lý đất đai; Tổng cục Hải
quan được nhập vào Bộ Tài chính – thu thuế ở các cửa khẩu, sân bay…). Đến năm 2002,
nước ta có 12 CQ trực thuộc CP. Kể từ năm 2002 đến nay, Thủ trưởng các CQ trực
thuộc CP không còn được quyền ban hành VBQPPL như Bộ trưởng và nước ta tiếp tục
nhập các CQ này đến hiện giờ còn 9 CQ có chuyên môn đặc thù, chưa thể nhập vào các
Bộ, tạm thời chưa thay đổi và tách nhập.
2. Thành viên của CP
- TTCP: Người đứng đầu, lãnh đạo và điều các hoạt động của CP và TTg là chức
danh do QH bầu, miễn, bãi nhiệm trong số các ĐBQH theo sự giới thiệu của CTN.
TTg phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước QH lúc QH họp, trước UBTVQH
và CTN lúc không họp.
- Các PTTg: do TTg đề nghị, QH phê chuẩn, CTN ký QĐ bổ nhiệm (QH chỉ phê
chuẩn chức danh PTTg, còn PTTg mảng nào là do TTg phân công và số lượng PTTg do
QH quyết định theo sự đề nghị của TTg).
- Các Bộ trưởng và Thủ trưởng CQNB: Người đứng đầu một ngành/lĩnh vực, là
“Tư lệnh ngành”, được thành lập với quy trình 3 bước gồm TTg đề nghị, QH phê chuẩn,
CTN ký QĐ bổ nhiệm.
Hiện nay, CP nước ta có 26 thành viên.
- Theo quy định của HP hiện này, chỉ có TTg mới bắt buộc là ĐBQH, còn các
thành viên khác không nhất thiết là ĐBQH. TTg phải là ĐBQH vì 2 lý do:
1/ Đảm bảo tính chấp hành của CP trước QH ở chỗ, nếu là ĐBQH thì TTg sẽ
đương nhiên tham dự các kỳ họp, nghe và nắm bắt các đường lối chủ trương của QH và
triển khai cho CP thi hành.
2/ Thể hiện sự tín nhiệm nhất định của người dân đối với người đứng đầu CQ hành
chính cao nhất của đất nước, nhất là trong bối cảnh hiện nay người đứng đầu CP không
do dân trực tiếp bầu (người đứng đầu CQ hành pháp các nước trên thế giới do dân trực
tiếp bầu).
- Các thành viên khác của CP không nhất thiết là ĐBQH vì 3 lý do:
1/ Tạo ra cơ sở xã hội rộng rãi cho TTg lựa chọn các chức danh này. Nếu bắt buộc
các chức danh phải là ĐBQH thì TTg chỉ được lựa trong 500 ĐBQH, chưa chắc đã phù
hợp và có đủ khả năng để thực hiện tốt nhiệm vụ.
2/ QH giám sát CP nên để giám sát được khách quan, tránh “vừa đá bóng, vừa
thổi còi” thì ĐBQH không nên đồng thời là Bộ trưởng.
3/ Tư duy mới trong thời kỳ mới, cần phân công rành mạch hành pháp và lập
pháp, bất khả kiêm nhiệm.
III. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn của TTCP được quy định tại Điều 98 HP 2013.
1. Về mặt nhân sự
- TTCP có các quyền sau:
+ Đề nghị QH phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với các PTTg, Bộ
trưởng, Thủ trưởng CQNB.
+ Đề nghị UBTVQH phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Đại sự Đặc
mệnh toàn quyền (sau đó CTN ký QĐ).
+ Trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức Thủ trưởng các CQ trực thuộc CP,
các Thứ trưởng và các chức vụ tương đương Thứ trưởng (cấp Phó của các CQNG).
+ Phê chuẩn kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với CT và Phó UBND cấp
tỉnh (do HĐND cấp tỉnh bầu và TTg phê chuẩn KQ bầu).
+ Tạm giao Quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng CQNB trong lúc QH không họp và tạm
giao Quyền Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong lúc HĐND cấp tỉnh không họp theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
+ Điều động (chuyển công tác), đình chỉ công tác (phát hiện sai phạm), cho thôi
làm nhiệm vụ (vì lý do sức khỏe mà làm đơn xin thôi việc…) và cách chức (vì bị điều tra
bởi các CQ chức năng…) đối với CT và Phó CT UBND cấp tỉnh.
* LƯU Ý: Trong mối quan hệ giữa TTg và CT UBND cấp tỉnh thì theo quy định
hiện nay, TTg không có quyền bổ nhiệm chức danh này. Đầu nhiệm kỳ, CT UBND cấp
tỉnh do HĐND cấp tỉnh bầu và TTg ký QĐ phê chuẩn. Giữa nhiệm kỳ,
Vì vậy, nếu gặp nhận định cho rằng TTg có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức là SAI. Không có thẩm quyền bổ nhiệm.
- Về mặt văn bản, TTg được ban hành 2 loại là QĐ và Chỉ thị. Đây là văn bản do
TTg tự mình ban hành, trực tiếp ký và chịu trách nhiệm nếu xảy ra sai phạm. Cần phân
biệt với NĐ, NQ của tập thể Chính phủ. NĐ, NQ là do TTg thay mặt CP để ký, nếu sai
phạm thì tập thể CP cùng chịu trách nhiệm. Giải thích: CP ban hành NĐ để hướng dẫn
thi hành Luật, Pháp luật. NQ để hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể CP. TTg ban
hành QĐ để giải quyết nhiệm vụ quyền hạn về nhân sự và quản lý trong phạm vi của
mình. Chỉ thị để hướng dẫn thi hành những nhiệm vụ cần thiết, truyền đạt ý kiến chỉ đạo
với hệ thống hành chính:
+ TTg được quyền đình chỉ thi hành và bãi bỏ các văn bản sai trái của Bộ trưởng,
Thủ trưởng CQNB, UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
+ ĐẶC BIỆT, TTg chỉ được quyền đình chỉ thi hành văn bản sai trái của HĐND
cấp tỉnh và đề nghị UBTVQH bãi bỏ.
* LƯU Ý: TTg nếu phát hiện UBND cấp tỉnh ban hành văn bản sai trái thì được
quyền đình chỉ và bãi bỏ. Nhưng nếu phát hiện HĐND cấp tỉnh ban hành văn bản sai trái
thì chỉ được đình chỉ thi hành và đề nghị UBTVQH bãi bỏ chứ không được trực tiếp bãi
bỏ.
GIẢI THÍCH VÀ BÌNH LUẬN
- UBND cấp tỉnh là CQ hành chính, nằm trong hệ máy hành chính, được TTg
thành lập và CQ này phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước TTg. Nếu ban
hành văn bản sai thì TTg được toàn quyền xử lý.
- Trong khi đó, HĐND cấp tỉnh là CQ dân cử, nằm trong hệ thống dân cử, do ND
tỉnh đó bầu, không do TTg thành lập cũng không báo cáo công tác, chịu trách nhiệm
trước TTg. Nếu phát hiện VB sai phạm, TTg chỉ được quyền đình chỉ thi hành và
đề nghị CQ dân cử cấp trên trực tiếp của HĐND cấp tỉnh là UBTVQH để bãi bỏ.
- HP’80 gọi CQ hành chính cao nhất là - HP 2013 đã có sự kết hợp hài hòa giữa
HĐ Bộ trưởng, do chịu ảnh hưởng của HP chế độ làm việc tập thể với đề cao vai trò
Liên Xô. của người đứng đầu CP – TTCP (kể từ
HP’92 đã đổi tên HDBT thành CP, và
người đứng đầu là TTCP). Nếu Điều 96
- Phản ánh tinh thần làm chủ tập thể tràn HP 2013 đã trao cho tập thể CP những
lan. Vì quá đề cao chế độ làm việc tập thể nhiệm vụ, quyền hạn chung thì Đeeifu 98
nên tất cả nhiệm vụ quyền hạn đều giao HP 2013 đã trao cho TTg những nhiệm
cho tập thể HĐBT bàn bạc tập thể và vụ, quyền hạn riêng. Đặc biệt, TTg đã có 2
quyết định theo đa số (HĐBT theo HP’80 quyền mà người đứng đầu CQ hành chính
rất đông gồm 47 người: 1 CT, 9 Phó CT, cao nhất phải có:
28 Bộ trưởng, 9 Thủ trưởng CQNB).
+ Quyền được đề nghị QH phê chuẩn bổ
- Không quy định cho CT HĐBT những nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành
nhiệm vụ, quyền hạn riêng. Đặc biệt, viên còn lại của CP.
không giao cho CT HĐBT 2 quyền mà lẽ
+ Quyền điều động, đình chỉ công tác và
ra mà người đứng đầu CQ hành chính phải
cách chức đối với CT và Phó CT UBND
có là:
cấp tỉnh.
+ Không được quyền lựa chọn các thành
viên còn lại của HĐBT, mà tất cả thành
viên đều do QH bầu, miễn nhiệm, bãi - Đặc biệt, Luật Tổ chức CP năm 2015 đã
nhiệm trong số các ĐBQH. trao thêm cho TTg được quyền tạm quyền
Bộ trưởng, Thủ trưởng CQ ngang Bộ và
+ Không được quyền điều động, đình chỉ
CT UBND cấp tỉnh. Điều này đã biến TTg
công tác và cách chức đối với CT và PCT
thành thiết chế quyền lực theo đúng nghĩa,
UBND cấp tỉnh.
TTg trở nên có uy quyền, tiếng nói và tạo
điều kiện thuận lợi trong việc quản lý đất
nước. Trên nói dưới nghe, tạo sự
- Vai trò, vị thế và tiếng nói của CT
thông suốt trong hệ thống hành chính.
HĐBT rất mờ nhạt, không là thiết chế
Với việc đề cao vai trò người đứng đầu, dễ
quyền lực theo đúng nghĩa, không có
quy kết trách nhiệm nếu có sai phạm xảy
quyền hạn riêng, không có uy quyền, chỉ
ra. Điều này chứng tỏ các nhà LH năm ’92
được quan niệm là điều khiển họp hành,
và năm 2013 đã nhận thức lại rằng để CP
ký hợp thức hóa các QĐ đã rồi của
mạnh thì cần có ít người. CP mạnh là CP
HĐBT. Làm cho CT HĐBT không
của một người, người đứng đầu CP – TTg
quản lý được, hệ thống hành chính
là trung tâm trong bộ máy NN.
không thông suốt. Trên bảo, dưới
không nghe.