You are on page 1of 22

I.

Bối cảnh lịch sử

Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, các ngân sách cũ được tiếp tục thi
hành trong thời gian đầu, để tránh sự xáo trộn không cần thiết. Tháng 7 năm 1946 một hệ thống
ngân sách mới đã được hình thành bao gồm: ngân sách Nhà nước, ngân sách quốc phòng, ngân
sách hoả xa, ngân sách của ba kỳ: Bắc, Trung, Nam và ngân sách của hai thành phố Hà nội - Hải
phòng.

Năm 1947 do chiến sự lan rộng, không có điều kiện lập ngân sách nên Bộ Tài chính chỉ lập một
quỹ chi tiêu cho cả nước và phân cấp công quỹ cho mỗi tỉnh để tránh việc địch chia cắt, phong
tỏa.

Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, tình hình đã sáng sủa và tương đối ổn định hơn, nên
cần phải lập ngân sách để Chính phủ có phương tiện quản lý thu chi của Nhà nước, tránh chi tiêu
tùy tiện, lãng phí.

Hệ thống ngân sách thời chiến được đơn giản, chỉ gồm hai cấp: ngân sách Nhà nước và ngân
sách xã.

Ngân sách Nhà nước chia làm hai phần: phần chi thu thường do các nguồn thu thường xuyên bảo
đảm (thuế, công trái, các quỹ) và phần chi tiêu quốc phòng, phần lớn dựa vào phát hành giấy bạc.

Ngân sách xã đảm bảo những chi tiêu của xã, thăng bằng do những nguồn thu riêng của xã và
nếu thiếu thì quỹ hỗ trợ xã hoặc ngân sách Nhà nước trợ cấp.

Trong phần chi thu thường của ngân sách Nhà nước có ba loại chi quan trọng nhất là: chi hành
chính (nội chính; ngoại giao, tư pháp, quốc hội, bộ máy chính quyền các cấp...), chi kinh tế (canh
nông, giao thông, thủy lợi) và chi văn hóa xã hội (giáo dục, y tế, thương binh, cứu tế...).

Để giảm bớt chi tiêu về bộ máy Nhà nước, năm 1950 Chính phủ đã thực hiện việc tinh giảm biên
chế, chuyển bớt nhân viên hành chính sang các ngành quân sự và sản xuất. Nhưng để đảm bảo
đời sống cho cán bộ, bộ đội, công nhân viên chức, chế độ lương bổng được tính theo gạo (mức
tối thiểu là 35kg, tối đa là 72kg).

Gia đình công nhân viên chức cũng được trợ giúp một phần (vợ 11 kg, con dưới 16 tuổi 5kg rưỡi
một tháng). Vì vậy quỹ lương chiếm một vị trí rất quan trọng trong ngân sách Nhà nước, nhất là
khi tiền tệ ngày một sụt giá, giá gạo không ngừng lên cao.

Nhìn chung số thu của ngân sách Nhà nước chỉ đảm bảo được một phần nhỏ số chi nên hướng
phấn đấu đề ra lúc ấy là cố gắng thăng bằng phần thu chi thường và tranh thủ thu nhiều hơn chi
để giành một phần kinh phí bảo đảm chi tiêu quốc phòng, giảm bớt dần việc phát hành giấy bạc.
Để ổn định kế hoạch ngân sách, tránh những biến động do tiền tệ bấp bênh gây nên, ngân sách
Nhà nước ghi thu và ghi chi bằng thóc. Việc cấp phát được thực hiện một phần bằng hiện vật để
bớt phải dùng đồng tiền.
Theo thể lệ chi thu và kế toán đại cương ban hành năm 1948 thì tài chính Nhà nước được quản lý
theo nguyên tắc tập trung, thống nhất: mọi quyền hạn về thu, chi đều tập trung ở Trung ương
nhưng có ủy quyền trong phạm vi nhất định cho các địa phương. Thời kỳ đầu việc ủy quyền còn
hẹp, các địa phương có ít quyền hạn thực tế nên ít quan tâm đến công tác tài chính, việc kiểm
soát bị buông lỏng, tham ô, lãng phí khá phổ biến.

Từ cuối năm 1949 cấp khu được ủy quyền sử dụng phần ngân sách thuộc địa phương mình và
xét duyệt các khoản chi tiêu của các cơ quan trong địa phương. Việc thanh tra, kiểm tra tài chính
được tăng cường bước đầu do việc thành lập Nha tổng thanh tra tài chính.

Việc thành lập ngân sách xã nhằm đáp ứng yêu cầu củng cố chính quyền nhân dân ở cấp cơ sở
đồng thời chấn chỉnh công tác tài chính ở xã, tránh việc huy động tùy tiện và sử dụng lãng phí tài
sản của nhân dân.

Việc thi hành các biện pháp nói trên để góp phần tích cực vào việc đảm bảo nhu cầu ngày càng
lớn của kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu của chiến tranh nhân dân là “toàn dân tham gia, toàn
dân đóng góp”.

Tuy nhiên việc thi hành chính sách tài chính có nhiều thiếu sót: huy động còn bình quân, chính
sách thuế còn dè dặt, thu không đủ chi, dựa nhiều vào phát hành giấy bạc để chi tiêu cho quân sự
và cho hành chính.

Kết quả là lạm phát quá mức, đồng tiền mất giá, giá hàng thường xuyên đột biến: mức thuế động
viên vừa thấp, vừa chưa đánh mạnh vào tầng lớp có nhiều thóc, nhiều tiền. Thuế lại thu bằng tiền
nên chỉ bảo đảm được một phần nhỏ yêu cầu chi của Nhà nước. Thuế điền thổ và quỹ công
lương từ năm 1950 đã chuyển sang thu bằng hiện vật, theo lũy tiến nhưng mức huy động còn
chưa sát.

Cách xây dựng ngân sách không phản ánh được hoạt động của các ngành kinh tế và sự đóng góp
của các tầng lớp nhân dân.

Ngân sách cũng không làm cho các địa phương thấy rõ nhiệm vụ của mình đối với Nhà nước,
nặng về trông chờ, ỷ lại vào trung ương. Quá trình xây dựng và xét duyệt ngân sách lại quá giản
đơn. Việc quản lý ngân sách thiếu chặt chẽ. Nhiều khoản quyên góp và khoản thu của địa
phương nằm ngoài ngân sách Nhà nước, làm cho tài chính bị phân tán, nhân dân kêu ca đóng góp
nhiều nhưng tiền không vào trong ngân khố quốc gia.

Thời kỳ 1950 - 1951 là thời kỳ kinh tế tài chính gặp nhiều khó khăn to lớn do hoàn cảnh khách
quan của cuộc kháng chiến và do nguyên nhân chủ quan của ta, trong đó có khuyết điểm về công
tác quản lý kinh tế tài chính còn nhiều lúng túng, bị động và việc tổ chức thực hiện cũng có
nhiều thiếu sót.

Thống nhất quản lý tài chính Nhà nước 1951-1954

Trước năm 1951, tài chính rất phân tán, “các địa phương, các ngành còn phải lo liệu tự túc, phải
tự xoay xở lấy một phần kinh phí. Các món thu cho quỹ địa phương chồng lên các món thu cho
ngân sách toàn quốc. Như thế đã phiền cho dân mà lại thiệt cho ngân sách toàn quốc vì phần lớn
các khoản chi tiêu do ngân sách toàn quốc đài thọ. Vì thế việc phát hành giấy bạc ngày càng tăng
làm cho tiền tệ, vật giá bấp bênh, nền kinh tế quốc dân ngày càng khó khăn, ảnh hưởng đến cuộc
kháng chiến lâu dài. Nay yêu cầu kháng chiến ngày càng nhiều và cần phải được đảm bảo cung
cấp đều đặn, sự đóng góp của nhân dân vào công cuộc kháng chiến phải được huy động đúng
mức: Khô ng quá khả năng để làm cạn nguồn đóng góp của nhân dân nhưng cũng không quá nhẹ
để đến nỗi không đảm bảo được cung cấp. Vì vậy việc thống nhất quản lý thu chi tài chính phải
được thực hiện một cách gấp rút”.

Nội dung của chính sách thống nhất quản lý, thu chi tài chính là: các khoản thu đều do Chính
phủ quy định và tập trung, thống nhất quản lý để việc đóng góp của nhân dân được công bằng,
hợp lý hơn, khả năng của công quỹ được dồi dào thêm. Mặt khác lại chấm dứt được việc địa
phương đặt ra nhiều khoản đóng góp lặt vặt chồng chất lên thuế của Trung ương, có khi huy
động quá khả nâng của nhân dân.

Về chi thì Chính phủ thống nhất quản lý các khoản chi tiêu của Nhà nước cho đến cấp huyện,
làm cho tiền của do nhân dân đóng góp được sử dụng một cách tiết kiệm, có trọng điểm, tập
trung vào việc cung cấp cho tiền tuyến.

Có thống nhất quản lý thu chi ngân sách Nhà nước thì mới lãnh đạo tập trung được về chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức, mới quản lý được số người trong biên chế của Nhà nước,
tránh được tình trạng thu chi không cân đối. Mặt khác mới phát huy được tác dụng phân phối và
phân phối lại bằng đỏng tiền của ngàn sách.

Tăng thu theo chính sách thuế mới

Để tăng thu Nhà nước ban hành chính sách thuế mới, công bằng hợp lý, thích hợp với hoàn cảnh
kinh tế xã hội và điều kiện chiến tranh.

Công bằng là mỗi người dân đều có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước, nhưng không phải là đóng
góp ngang nhau một cách bình quân. Trái lại người thu nhập nhiều thì đóng góp nhiều, thu nhập
ít thì đóng góp ít, không có thu nhập thì được miễn.

Hợp lý là tùy theo nguồn thu nhập của mỗi người mà định số thuế phải đóng góp. Không huy
động quá mức để mức thuế gây trở ngại cho công việc làm ăn hoặc đời sống của nhân dân nhưng
cũng không huy động dưới mức để ảnh hưởng đến việc cung cấp cho tiền tuyến và đến công
bằng xã hội.

Chính sách thuế mới nhằm khuyến khích mọi người ra sức tăng gia sản xuất, làm ra nhiều của
cải, nâng cao đời sống, có lợi cho bản thân, cho kháng chiến, cho nền kinh tế chung. Chính sách
thuế thống nhất gồm 7 thứ thuế là:

Thuế nông nghiệp.

Thuế công thương nghiệp.


Thuế hàng hóa.

Thuế xuất nhập khẩu.

Thuế sát sinh.

Thuế trước bạ.

Thuế tem.

Ngoài bẩy thứ thuế nói trên, không địa phương nào được bắt nhân dân đóng góp một thứ thuế
nào khác. Việc mua thóc định giá cũng được bãi bỏ. Mọi hình thức quyên góp, bổ bán ở nông
thôn đều bị cấm chỉ, trừ trường hợp nhân dân tự nguyện đóng góp để úy lạo bộ đội, góp quỹ
nghĩa thương và cứu tế tai nạn.

Việc tăng, giảm mức thu, loại thuế, suất thuế... đều do chính phủ Trung ương quy định. Trong
chính sách tài chính mới, thuế nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Sắc lệnh đặt ra thuế
nông nghiệp quy định rõ: “Để đảm bảo cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, phát triển sản xuất
nông nghiệp thống nhất và đơn giản chế độ đảm phụ cho dân, thực hiện đóng góp công bằng, kể
từ vụ thuế 1951.

1. Bãi bỏ các thứ đóng góp về nông nghiệp cho ngân sách toàn quốc và quỹ địa phương như
thuế điền thổ, thuế công lương, quỹ sương túc, thóc bình dân học vụ, thóc nuôi bộ đội địa
phương, thóc nộp cho quỹ xã, thóc đắp đường v.v...

2. Bãi bỏ việc mua thóc định giá.

3. Đặt ra thuế nông nghiệp, thu bằng thóc, tính theo hoa lợi thu hoạch bình thường hằng năm
của ruộng đất. Thuế nông nghiệp do người thu hoa lợi nộp.

Thêm vào chính tang thuế nông nghiệp sẽ thu một số phần trăm phụ thu cho ngân sách đia
phương. Ngoài hai khoản thu này, số thu hoạch của ruộng đất không phải chịu một thứ đảm phụ
nào khác nữa. Thuế nông nghiệp khi mới ban hành nhằm động viên mỗi năm khoảng 20% hoa
lợi thường niên chịu thuế. Biểu thuế nông nghiệp là biểu thuế luỹ tiền toàn phần, mức thấp nhất
là 5%, mức cao nhất là 45%. Tỷ lệ lũy tiến cao hay thấp là tuỳ theo số thu hoạch bình quân của
một nhân khẩu nông nghiệp trong nông hộ. Giữa hai nông hộ thu họchbằng nhau, thì nhà nào có
nhiều nhân khẩu nông nghiệp hơn được đóng góp nhẹ hơn. Để phù hợp với hoàn cảnh kháng
chiến, thuế nông nghiệp ở vùng du kích nhẹ hơn vùng căn cứ, thuế vùng căn cứ lại nhẹ hơn vùng
tự do. Để thể hiện chính sách dân tộc, thuế nông nghiệp ở miền núi nhẹ hơn thuế ở miền xuôi.
Ngay ở miền núi thuế nương rẫy lại nhẹ hơn thuế đánh vào ruộng nước. Chính sách thuế nông
nghiệp khuyến khích việc tăng gia sản xuất căn cứ vào thu hoạch bình thường hàng năm để chiếu
cố người chăm làm, đánh nặng vào người lười biếng. Để thúc đẩy việc trong hoa mầu vavf cây
công nghiệp,có cách định sản lượng riêng, nhẹ hơn. Thuế còn phục vụ chính sách ruộng đất của
Đảng và Nhà nước là: đối với địa chủ ngồi không thu tô thuế đánh nặng ơn nông dân trực tiếp
canh tác (thu hoạch 100 tính thành 125 để chịu thuế). Tá điền bị bóc lột tô nên được đóng thuế
nhẹ hơn người có ruộng (thu hoạch 100 chỉ tính 75 để chịu thuê). Sản xuất nông nghiệp còn lệ
thuộc nhiều vào thiên nhiên. Mùa màng luôn bị thiên tai, hạn hán, lụt bão, sâu bọ đe dọa nên thuế
nông nghiệp có chính sách miễn giảm thích hợp, khuyến khích người bỏ nhiều công sức ra chống
thiên tai. Thuế còn có biện pháp để ưu đãi nhũng giai đình có công với kháng chiến: Thương
binh, liệt sĩ, những người đi bộ đội... đều được tính là nhân khẩu nông nghiệp để giảm nhẹ thuế
cho gia đình. Phù hợp với tình hình sản xuất, thuế nông nghiệp mùa năm tính một rân, thu bằng
thóc, vào hai vụ gặt chính là vụ chiêm và vụ mùa thuế điền thổ cũ thì thuế nông nghiệp là một
bước tiến lớn, có tính chất cách mạng trong chế độ đóng góp của ta. Chính sách thuế công
thương nghiệp là thuế đánh vào các ngành kinh doanh công nghiệp, tiểu công nghệ và thương
nghiệp, có múc đích kiếm lợi, bao gồm các doanh nghiệp hoạt động thường xuyên, có cơ sơ
tương đối khá, các quán hàng và các hoạt động buôn chuyến. Tỷ lệ động viên bằng thuế công
thương nghiệp trung bình là 15% doanh số, nhẹ hơn mức động viên về thuế nông nghiệp, lúc đó
thương nghiệp còn rất nhỏ bé, phân tán chưa được ổn định. Thuế công thương nghiệp gồm nhiều
hình thức. Đối với các doanh nghiệp có hai thứ thuế là thuế doanh thu tính 1%, 2% hoặc 3% trên
tổng số tiền thu về bán hàng, tùy theo loại hàng; và thuế thực lãi tính lũy tiền từ 5% đến 27% trên
số lãi kinh doanh đã trừ chi phí hợp lệ Thuế quán hàng tính luỹ tiến căn cứ vào số thu nhập ước
lượng hàng tháng. Thuế buôn chuyến tính tỷ lệ trên trị giá hàng bán ra Chính sách thuế công
thương nghiệp, ngoài tác dụng động viên các tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản công thương
đóng góp theo khả năng cho kháng chiến, còn đảm bảo thu hồi một phần tiền mặt ở thị trường để
góp phần bình định vật giá và bảo vệ tiền tệ. Thuế xuất nhập khẩu là công cụ để quản lý việc
xuất, nhập hàng hoá giữa vùng tự do và vùng tạm bị chiếm, bảo vệ và phát triển kinh tế của vùng
tự do. Thuế tính theo giá hàng và thuế suất cao hay thấp là tuỳ theo yêu cầu hạn chế hay khuyến
khích xuất hoặc nhập nhiều hay ít, yêu cầu đấu tranh kinh tế có lợi cho ta. Hàng xuất nói chung
được miễn thuế. Hàng nhập hạn chế vào những thứ tối cần thiết cho cuộc kháng chiến, gồm 116
thứ, thuế suất từ 30% trở lên. Thuế hàng hóa là thuế đánh vào một số mặt hàng nhất định nhằm
khuyến khích sản xuất, bảo hộ công thương nghiệp điều tiết tiêu thụ, bảo vệ chính sách giá cả
đồng thời điều tiết thụ nhập, bảo vệ chính sách giá cả đồng thời điều tiết thu nhập của các của
các tầng lớp nhân dân, tích luỹ vốn cho ngân sách Nhà nước. Thuế suất cao hay hạ tùy theo loại
hàng, tư liệu sản xuất hay hàng tiêu dùng, hàng cần thiết hay hàng xa xỉ... Thuế hàng hoá còn bổ
sung cho thuế xuất nhập khẩu để bảo vệ hàng hoá nội hóa, chống việc hàng ngoại vào xâm chiếm
thị trường ta. Ngoài các thứ thuế chính kể trên, còn thuế sát sinh và thuế trước bạ mà mục đích
chủ yếu là tăng thu cho ngân sách mỗi khi giết gia súc hoặc chuyển dịch tài sản. Thuế tem chưa
thi hành trong thời kỳ còn kháng chiến. Đi đôi với việc cải tổ chính sách thuế Nhà nước còn ra
chế độ quản lý chặt chẽ các khoản thu khác như chiến lợi phẩm, vật tư, tài sản ở những đô thị
mới giải phóng để tập trung vào ngân sách Nhà nước, tránh sử dụng lãng phí hoặc tham ô. Chế
độ quản lý và thu đối với các xí nghiệp quốc doanh đầu tiên: ngân hàng, mậu dịch và một số cơ
quan sự nghiệp như bưu điện, thủy lâm có nguồn thu phải nộp vào ngân sách cũng được hình
thành từ năm 1951. Song song với chính sách tăng thu, Nhà nước kiên quyết thi hành chính sách
giảm chi, chính sách tiết kiệm, tích cực, triệt để. Khoản chi lớn nhất lúc ấy là chi để trả lương
cho công nhân, viên chức, bộ đội nên muốn giảm chi, muốn tiết kiệm phải đi sâu nghiên cứu vấn
đề tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, vấn đề biên chế. Bộ máy Nhà nước lúc
đó chưa hợp lý, người nhiều, việc ít, tổ chức cồng kềnh, hiệu suất thấp, lãng phí sức người, sức
của không tập trung được cho nhu cầu tiền tuyến. Có thành phố bị tạm chiếm vẫn giữ nguyên bộ
máy hành chính đầy đủ khi chuyên ra vùng tự do. Có tỉnh chỉ còn vài xã tự do nhưng cũng tổ
chức đủ các cơ quan chuyên môn. Trong từng cơ quan, dù nhỏ nhất, cũng có đủ các bộ phận:
hành chính, quản trị, tài vụ, kế toán, nghiệp vụ... Trong bộ máy nghiệp vụ lại phân công máy
móc, có người chuyên làm công tác nghiên cứu, người chuyên điều hành công việc hàng ngày.
Như vậy bộ máy Nhà nước trở thành quan liêu, nhiều tầng, nhiều nấc, gây chậm trễ phiền hà, cản
trở công tác, ảnh hưởng đến kháng chiến. Mấu chốt để giảm chi đồng thời để kiện toàn tổ chức
sắp xếp lại bộ máy Nhà nước cho hợp lý và có hiệu suất là soát xét lại chức năng, nhiệm vụ, lề
lối làm việc của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị trên cơ sở đó bố trí lại cơ cấu tổ chức và quy
trình công tác sắp xếp lại số người trong từng cơ quan căn cứ vào nhu cầu công tác thiết thực,
của từng vị trí công tác; đồng thời phải chú ý đến khả năng tài chính của Nhà nước và sức đóng
góp của nhân dân. Đó là công tác chỉnh đốn biên chế được tiến hành vào giữa năm 1951, nhằm
kiên quyết giảm bớt số người không cần thiết trong các cơ quan ở hậu phương để tăng quân số
cho bộ đội, tăng cường, lực lượng chiến đấu trực tiếp, thực hiện đúng khẩu hiệu: tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng. Mặt khác muốn giảm chi lại cần triệt để thực hiện chính sách tiết
kiệm để làm cho mỗi đồng tiền, mỗi hạt thóc mà nhân dân đóng góp đều được dùng vào những
việc quan trọng, thiết thực, cần thiết cho kháng chiến: Nguyên tắc chỉ đạo việc chi tiêu của Nhà
nước lúc bấy giờ là kháng chiến trên hết, tiền tuyến trên hết. Việc gì không trực tiếp và thiết thực
ích lợi cho kháng chiến thì kiên quyết bỏ, giảm hoặc hoãn. Việc giáo dục chính trị, tư tưởng đã
được hết sức coi trọng để thường xuyên nhắc nhở cán bộ, bộ đội cũng như toàn thể nhân dân
thực hiện khẩu hiệu tăng gia sản xuất gắn liền với tiết kiệm. Kế hoạch Nhà nước năm 1952 cũng
mang tên là kế hoạch sản xuất và tiết kiệm. Chính sách tài chính mới trên đây đã được toàn Đảng
toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng và tích cực thực hiện. Quá trình thực hiện chính sách kinh tế tài
chính này là một quá trình phấn đấu gay go, phức tạp nhưng kết quả thu được rất to lớn. Công
tác thuế nông .nghiệp được đặt thành công tác trung tâm của cả nước trong năm 1951. Đây là
một công tác hoàn toàn mới mẻ, có tính chất chính trị, kinh tế, xã hội, phức tạp. Muốn thực hiện
được chính sách ấy phải làm thế nào biến chính sách của Đảng và Nhà nước thành chính sách
của nhân dân để toàn thể nhân dân hưởng ứng và tích cực tham gia thực hiện. Một mặt phải tập
trung lực lượng của tất cả mọi tổ chức Đảng, chính, dân... làm cho cán bộ thông suốt tư tưởng và
nắm vững chính sách để xuống nông thôn vận động quần chúng, dựa vào quần chúng mà thi
hành chính sách. Mặt khác phải tìm ra một phương pháp thực hiện đơn giản dễ hiểu, dễ làm, để
nắm được trong một thời gian ngắn những cơ sở cần thiết cho việc đánh thuế: diện tích, sản
lượng, nhân khẩu... Phương pháp này là”dân chủ bình nghị” được áp dụng cả trong công tác thuế
công thương nghiệp. Dân chủ bình nghị là dựa vào. quần chúng để nắm tình hình, kết hợp chặt
chẽ sự điều tra nghiên cứu của cán bộ với ý kiến đóng góp và sự kiểm tra của nhân dân. Vì cần
phải chuẩn bị chu đáo nên thuế nông nghiệp không thể thực hiện ngay từ vụ chiêm năm 1951 mà
phải làm công tác tạm vay ở các địa phương từ Liên khu 4 trở ra. Trong công tác tạm vay, do
thiếu kinh nghiệm và thiếu kiên quyết ở một số địa phương nên chưa thực hiện được đúng mức
kế hoạch nhưng đã có tác dụng rõ rệt và quan trọng. Nhờ có thóc tạm vay mà vấn đề cung cấp
trong hai mùa chiến dịch thu và đông năm 1951 đã được giải quyết. Đời sống nông dân vẫn được
bảo đảm. Giá cả bước đầu được ổn định. Tài chính giảm được một phần nhịp độ phát hành tiền.
Rút kinh nghiệm công tác tạm vay, các địa phương chuẩn bị tốt hơn công tác thuế nông nghiệp
vụ mùa năm 1951 nên thuế đã thu được kết quả tốt, vượt xa mức thuế điền thổ năm 1950. Nhờ số
thóc và số tiền quan trọng mà thuế nông nghiệp mang lại Nhà nước đã giải quyết dễ dàng hơn
vấn đề cung cấp cho tiền tuyến. Chiến thắng Hòa Bình và đồng bằng Bắc Bộ thời kỳ 1951 - 1952
đã chứng tỏ ảnh hưởng trực tiếp của thuế nông nghiệp với công cuộc kháng chiến. Về kinh tế,
thuế nông nghiệp góp phần thúc đẩy tăng gia sản xuất, gây thêm đà phấn khởi làm vụ mùa thắng
lợi năm 1951 và vụ chiêm năm 1952. Về chính trị xã hội thì quá trình thực hiện thuế nông nghiệp
là một quá trình đấu tranh giai cấp gay gắt ở nông thôn. Một mặt phải đấu tranh chống bọn địa
chủ, cường hào và tay sai của địch phản tuyên truyền, chống đối chính sách, khai man, lậu thuế
chây ỳ không nộp thuế... Mặt khác trong nội bộ nhân dân phải đấu tranh chống tư tưởng bảo thủ,
tự tư, tự lợi, làm sai chính sách, hoặc bản vị cục bộ địa phương chủ nghĩa, không chấp hành
nghiêm chỉnh chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nhờ đi đúng đường lối quần
chúng, vận dụng sáng tạo sách lược của Đảng ở nông thôn, dựa vào những phần tử trung kiên,
tích cực là bần cố nông, lão nông, tri điền... nên công tác thuế nông nghiệp đã được thực hiện
đúng chính sách và nhiệm vụ, làm cơ sở đẩy mạnh các công tác kinh tế tài chính khác, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác giảm tô và cải cách ruộng đất về sau. Đi đôi với công tác thuế nông
nghiệp, năm 1951 công tác thuế công thương nghiệp cũng được triển khai và thu được những kết
quả đáng khích lệ. Cũng như thuế nông nghiệp, công tác thu công thương nghiệp là một công tác
chính trị, kinh tế xã hội có tính chất quần chúng. Ngoài lực lượng cán bộ thuế chuyên trách được
kiện toàn mạnh còn phải dựa vào nhân dân để thực hiện hàng rào kiểm soát của nhân dân, củng
cố các lực lượng ở xã, kiện toàn các tổ công thương, giải thích cho người kinh doanh, buôn bán,
hướng dẫn họ tự khai và kiểm tra lẫn nhau, phát động phong trào đấu tranh chống đầu cơ tích
trữ, buôn lậu trốn thuế v.v... Mặt khác phải thi hành đúng chính sách, áp dụng đúng thuế suất,
nắm vững phương pháp dân chủ bình nghị kết hợp với điều tra chu đáo cụ thể từng trường hợp.
Cán bộ thuế phải đề cao đạo đức chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, kiên trì và dũng cảm đấu
tranh chống mọi thủ đoạn đe dọa, mua chuộc của giai cấp tư sản và những người làm ăn bất
chính. Chấn chỉnh chi tiêu, thống nhất quản lý thu chi: Đi đôi với tăng thu cần phải chấn chỉnh
công việc chi tiêu, thực hiện chế độ thống nhất quản lý thu chi tài chính Nhà nước. Công tác mấu
chốt, có hiệu quả thiết thực là chỉnh đốn biên chế, đặt ra điều lệ biên chế thống nhất để các ngành
và các địa phương có căn cứ sắp xếp lại bộ máy, bố trí lại cán bộ, nhân viên. Sau một thời gian
thực hiện, khoảng 40% công nhân viên chức được chuyn sang sản xuất hoặc vào quân đội. Làm
cho bộ máy Nhà nước được gọn, nhẹ, có hiệu suất cao hơn. Việc quy định tiêu chuẩn cung cấp
cũng được xúc tiến nhằm bảo đảm sinh hoạt hợp lý cho quân đội và cán bộ công nhân viên chức
Nhà nước. Các loại chi tiêu có tính chất thường xuyên cũng có tiêu chuẩn, định mức thống nhất
làm cơ sở cho việc lập và chấp hành ngân sách Nhà nước, đưa việc quản lý tài chính Nhà nước
dần dần vào chế độ và kỷ luật. Để quản lý hai loại tài sản rất quan trọng trong thời kỳ kháng
chiến là tiền bạc và thóc gạo. Nhà nước ban hành chế độ thống nhất quản lý kho bạc và chế độ
thống nhất quản lý kho thóc, chấm dứt tình trạng công quỹ phân tán, sử dụng tùy tiện, tạo sơ hở
cho tham ô, lãng phí. Thống nhất quản lý kho bạc và kho thóc là một việc rất phức tạp, khó khăn:
vừa phải đấu tranh chống những tư tưởng và hành vi địa phương chủ nghĩa, cục bộ, bản bộ,
muốn tự do, thoải mái, vừa phải chống tập trung quan liêu, khắc phục những thiếu sót chậm trễ,
lề lối làm việc máy móc, cứng đờ làm lỡ công việc. Chế độ dự toán, quyết toán mới cũng được
ban hành trong năm 1951 nhằm thiết lập một phương thức quản lý tài chính mới, bảo đảm cho
các cấp, các ngành lãnh đạo toàn diện, trên cơ sở một k lut tài chính chặt chẽ nhưng linh hoạt,
thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ tài chính xã cũng được chỉnh đốn. Biên chế xã
không có cán bộ thoát ly sản xuất để làm cho cán bộ ở cơ sở không xa rời quần chúng, tách rời
sản xuất. Để thực hiện chính sách thống nhất quản lý thu chi tài chính, bộ máy ngành tài chính từ
Trung ương đến địa phương đã được kiện toàn mạnh theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hàng
loạt cán bộ ưu tú của Đảng và các ngành được chuyển sang làm công tác tài chính sau một thời
gian bồi dưỡng và thử thách qua thực tế. ở Bộ Tài chính đặt thêm một số tổ chức mới là Vụ Thuế
nông nghiệp, Vụ Ngân sách, Vụ Kế hoạch, Vụ Thanh tra. ở địa phương chấn chỉnh lại các khu
tài chính và Ty Tài chính, với những bộ phận: tương tự như ở Trung ương. Ngoài ra, thành lập
hai ngành dọc là Sở thuế và Sở kho thóc, đặt dưới sự lãnh đạo hai chiều của Bộ Tài chính và của
ủy ban kháng chiến hành chính địa phương. Sở thuế có nhiệm vụ thực hiện chính sách thuế công
thương nghiệp và thuế xuất nhập khẩu, bảo đảm chế độ thu thuế thống nhất trong cả nước. Sở
kho thóc có trách nhiệm chấp hành chính sách bảo quản và phân phối lương thực theo kế hoạch,
tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước. Chính sách ti chính mới tăng thu, giảm chi, thống nhất quản
lý thu chi đã mang lại kết quả tốt ngay trong năm đầu thực hiện: thu có tăng, chi có giảm, thu
đảm bảo được khoảng 30% số chi (năm 1950 thu chỉ đảm bảo trên 20%). Tuy nhiên do việc chấp
hành chính sách mới chưa được toàn diện, đồng bộ, triệt để nên kết quả còn hạn chế. Tăng thu
chưa đúng mức, giảm chi chưa triệt để nên thu chi vẫn chưa thăng bằng, còn phải tiếp tục phát
hành để chi tiêu cho tài chính. Năm 1952, tình hình kháng chiến lại có những thuận lợi mới, tình
hình kinh tế xã hội cũng có những biến chuyển tích cực: sản xuất được khôi phục, lưu thông
hàng hóa trên thị thường nội địa trở lại gần bình thường, việc trao đổi hàng hóa với vùng tạm
chiếm và sự xuất hiện của một số cửa hàng mậu dịch quốc doanh cung cấp một số mặt hàng thiết
yếu cho đời sống nhân dân làm cho giá cả bớt biến động nhanh, có tăng nhưng chậm hơn thời kỳ
trước. Nhiệm vụ chung về kinh tế tài chính năm 1952 vẫn lấy việc bảo đảm cung cấp, chi viện
tiền tuyến làm nhiệm vụ chính. Do đó phải vận động toàn dân thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết
kiệm, nhằm “phát triển kinh tế quốc dân, bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến, tăng nguồn thu vào
ngân sách Nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân và tăng sức đấu tranh kinh tế với địch” Muốn
thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm điều chủ yếu là phải bình ổn vật giá. Vật giá có bình ổn
thì nhân dân mới an tâm sản xuất, buôn bán mới tránh được nạn đầu cơ tích trữ. Mà muốn bình
ổn vật giá thì điều chủ yếu là phải đình chỉ việc phát hành để chi tiêu cho ngân sách Nhà nước.
Vì vậy Chính phủ quyết định phải thực hiện cho bằng được. Việc thăng bằng thu chi ngân sách
Nhà nước. . . Đây là một yêu cầu mới, cao hơn và khó thực hiện hơn cả việc thống nhất quản lý
thu chi đề ra năm 1951. Thực hiện thăng bằng thu chi trong hoàn cảnh chiến tranh còn đang tiếp
diễn ác liệt là việc hầu như chưa từng thấy, nhưng do nó có tác dụng quyết định đến toàn bộ nền
kinh tế tài chính của ta nên toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm phấn đấu hoàn thành cho bằng được.
Để thực hiện thăng bằng thu chi ngân sách, cần quán triệt nguyên tắc là: có thu mới có chi,và
phải thu để mà chi nhưng trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc đó gặp rất nhiều khó khăn, trở
ngại như: - Thu thì nhiều thóc, ít tiền nhưng chi thì nhiều tiền, ít thóc (năm 1951 số tiền thu được
chỉ bảo đảm một phần mười (1/lO) số phải chi bằng tiền, số thóc phát ra chỉ bằng một phần ba
(l/3) số thóc thu được). . - Có địa phương thu ít mà chi nhiều, có địa phương thu nhiều mà chi ít.
- Thu thì theo thời vụ mà chi thì thường xuyên: có lúc phải chi nhiều nhưng không đúng vào lúc
thu nhiều. - Thu thì phân tán mà chi lại tập trung; - Giá cả chênh lệch nhiều giữa nơi này với nơi
khác, giữa lúc này với lúc khác. Để giải quyết khó khăn thu chi thóc và thu chi tiền không cân
đối ta đã đề ra nhiều biện pháp: - Tranh thủ chi bằng thóc: trả lương, phụ cấp gia đình của nhân
công làm kho, chuyển vận, đường xá, cầu công, nhân viên các xí nghiệp quốc doanh một phần
bằng thóc, một phần bằng tiền. - Tranh thủ thu bằng tiền: đẩy mạnh việc thu thuế công thương
nghiệp và thuế xuất nhập khẩu, phát động phong trào quần chúng bao vây kinh tế địch và kiểm
soát thuế. Đối với thuế nông nghiệp cũng vận động nhân dân nộp một phần thuế bằng tiền, cụ thể
là động viên và tổ chức nhân dân thu nhặt lâm thổ sản đẩy mạnh chăn nuôi, trồng trọt rau quả để
bán lấy tiền nộp thuế nông nghiệp. - Đối với khó khăn nơi thu ít lại chi nhiều, nơi thu nhiều lại
chi ít, Nhà nước điều hòa khối lượng tiền tệ nơi này sang nơi khác, kết hợp công tác nghiệp vụ
ngân hàng với công tác quản lý kho bạc để tránh việc vận chuyển vòng quanh. - Để tránh tình
trạng thu có thời vụ, chi thì thường xuyên, tài chính đặt kế hoạch phân phối các khoản chi cho
khớp với kế hoạch thu, cụ thể là lập kế hoạch thu chi ba tháng và từng tháng - nếu không cân đối
thì tạm vay Ngân hàng từng thời hạn ngắn, khi thu được thì trả lại ngay. Về vấn đề chi tập trung
và thu phân tán thì cách giải quyết là triệt để chấp hành chế độ thống nhất quản lý thu chi. Thu
bao nhiêu phải nộp ngay, nộp hết vào ngân khố để sử dụng kịp thời. Mặt khác ở những khu vực
quá đắt đỏ mà có nhiều cơ quan tập trung thì phân tán các cơ quan không cần thiết ở nơi đó về
các địa phương khác. - Để giảm bớt ảnh hưởng của giá cả quá chênh lệch giữa các địa phương,
cách chủ yếu là cố gắng bình ổn vật giá, quản lý tiền tệ giảm bớt việc chi bằng tiền mặt. Những
biện pháp trên đây khi thực hiện lại vấp phải không ít trở ngại. Có tư tưởng cho là trong thời
chiến không thể thực hiện được thăng bằng thu chi, nên thiếu quyết tâm áp dụng các biện pháp
cần thiết, muốn trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của bên ngoài. Lại có tâm lý sợ phiền, ngại khó,
muốn chi tiêu một cách tự do, thoải mái, hoặc tư tưởng địa phương, cục bộ không muốn trung
ương thống nhất quản lý thu chi, quan điểm thương dân một chiều, ngại thu thuế, cho là thuế
nặng; tác phong quan liêu đại khái không dựa vào số liệu, tài liệu cụ thể, lãnh đạo chung chung...
Chúng ta đã phải vươn lên vượt qua những khó khăn, trở ngại đó phấn đấu để tạo cho được sự
chuyển biến căn bản trong nhận thức của cán bộ và nhân dân, tích cực rèn luyện và bồi dưỡng
cán bộ, bước đầu học tập quản lý kinh tế, quản lý tài chính theo kế hoạch, theo pháp luật nên đã
giành được kết quả tốt đẹp: Năm 1952 số thu đảm bảo được 78% số chi. Năm 1953 lần đầu tiên
sau cách mạng tháng Tám số thu chẳng những hoàn toàn đảm bảo số chi mà thu còn vượt chi
được 16%. Công tác Ngân hàng và mậu dịch: Được triển khai đồng bộ với công tác tài chính
cũng đã thu lại kết quả, ảnh hưởng tích cực đến việc ổn định tài chính và tiền tệ. Về mặt công tác
ngân hàng: Ra đời theo sắc lệnh số 25 ngày 6 tháng 5 năm 1951 Ngân hàng quốc gia Việt nam
được giao nhiệm vụ: - Quản lý ngân quỹ quốc gia và phụ trách việc phát hành công trái quốc gia;
- Cho vay vốn, góp vốn và huy động vốn của nhân dân để phát triển sản xuất; - Quản lý tiền
ngoại quốc và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài; - Quản lý kim cương (các thứ
vàng và giấy phiếu ngân hàng dùng để định giá tr tài sản) bằng thể lệ hành chính. - Đấu tranh
tiền tệ với địch. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có hệ thống tổ chức đến các khu các tỉnh và đặt
chi nhánh ở các cửa khẩu và những nơi có luồng trao đổi hàng hoá với vùng tạm bị chiếm. Riêng
ở Nam Bộ, do tình hình đặc biệt nên tổ chức ngân hàng nhân dân Nam Bộ chịu sự chỉ đạo của
Ngân hàng Quốc gia Việt nam nhưng được rộng quyền tiến hành các nghiệp vụ cụ thể cho sát
với hoàn cảnh địa phương. Ngân hàng mở đầu hoạt động của mình bằng việc phát hành giấy bạc
ngân hàng để thay thế cho tiền tài chính. Đồng bạc do ngân hàng phát hành được định giá bằng
10 đồng bạc tài chính cũ vừa có tác dụng củng cố nền tài chính, tiền tệ, vừa hợp với nguyện vọng
của nhân dân và tình hình kinh tế xã hội lúc ấy. Đi đôi với việc phát hành tiền mới, thu đổi tiền
cũ, việc quản lý lưu thông tiền tệ dần dần được thực hiện. Công tác tín dụng được chấn chỉnh lại,
làm có kế hoạch, có trọng tâm, có đối tượng rõ ràng. Việc phát hành tiền được tiếp tục, có mức
độ, chủ yếu để phục vụ sản xuất, hạn chế dần việc phát hành để chi tiêu cho tài chính: Đến cuối
năm 1953 tỷ trọng tiền phát hành cho chi tiêu ngân sách Nhà nước từ 99,4% tụt xuống chỉ còn
01,8% trong tổng số tiền phát hành, ngược lại tỷ trọng phát hành cho tín dụng từ 0,6% năm 1951
tăng lên 30,6% năm 1952 và cuối 1953 là 89,2% (năm 1954 phát hành cho chi tiêu tài chính lại
tăng lên là do nhu cầu đặc biệt, cấp bách của thời điểm giành thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng
chiến). Rõ ràng đây là một trong những biện pháp tích cực nhất để củng cố đồng tiền, ổn định vật
giá và thăng bằng ngân sách Nhà nước. Hoạt động mậu dịch mũi nhọn thứ ba trong chính sách
kinh tế tài chính mới của Đảng và Nhà nước cũng đã góp phần đáng kể vào việc ổn định tài
chính và tiền tệ. Hoạt động mậu dịch nhằm ba mục tiêu: - Thúc đẩy sản xuất: phát triển thủ công
nghệ và khuyến khích tư nhân kinh doanh tiểu công nghệ bằng cách cung cấp nguyên liệu,
hướng dẫn kỹ thuật, phát triển giao lưu hằng hóa và mở rộng kinh doanh công nghệ phẩm của
mậu dịch. Mặt khác, đẩy mạnh khai thác và tiêu thụ lâm thổ sản, kết hợp với việc mậu dịch thu
mua lâm thổ sản để xuất khẩu và cung cấp cho thị trường - Bình ổn vật giá các nhu yếu phẩm
(gạo, muối, vải, dầu hỏa, giấy) theo giá hợp lý để đẩy mạnh giao lưu hàng hóa, điều hòa thị
trường, phát triển sản xuất. - Đấu tranh kinh tế với địch: Đẩy mạnh xuất khẩu theo nguyên tắc:
lượng xuất để nhập, lượng nhập để xuất, nhằm tranh thủ, chủ động trong việc giao dịch với vùng
địch kiểm soát và giành phần lợi cho ta. Trong tình hình mới thành lập, lực lượng còn yếu,
phương châm hoạt động của mậu dịch là nắm các mặt hàng chính, tập trung hoạt động ở các thị
trường chính, đầu mối kinh tế và nơi đông dân cư, lấy bán buôn làm chính để vừa đoàn kết, vừa
đấu tranh với tư thương. Đến tháng 7 năm 1951 hệ thống mậu dịch quốc doanh đã hình thành
suốt vùng tự do trên miền Bắc và hoạt động kinh doanh đã được mở ra ở các thị trường chính
như thị xã Thái Nguyên, Thanh Cù (Phú Thọ) Nho Quan (Ninh Bình), Cầu Bố (Thanh Hóa) đã
tích cực thu mua nắm nguồn hàng, do đó, năm 1953 số lâm thổ sản thu mua được trị giá bằng
88.785 tấn thóc tăng 59.% so với 1952, số hàng xuất khẩu vào vùng địch kiểm soát trong 9 tháng
đầu năm 1953 tăng 44% so với cuối năm 1952. Do sự phối hợp chặt chẽ giữa mậu dịch, ngân
hàng và tài chính nên tuy lượng tiền phát hành năm 1951 tăng 7 lần so với năm 1950, nhưng tiền
phát ra lại được thu về qua thuế và qua mậu dịch. Đồng thời thuế nông nghiệp thu bằng thóc nên
Nhà nước không phải mua ở thị trường như trước đây. Vì vậy, từ những tháng cuối năm 1951 trở
đi mức độ tăng giá hàng đã có phần chậm lại. Tính chung, nếu năm 1951 vật giá tăng 4 lần so
với năm 1950 thì đến 1953 chỉ tăng 1,15 lần so với năm 1952, “đã giữ được mức giá không lên
quá cao so với số giấy bạc đã phát hành” (Báo cáo trình bày trước Hội nghi lần thứ tư của Trung
ương Đảng khóa II). Như vậy là ngay trong thời kỳ đầu, số cửa hàng mậu dịch quốc doanh còn
ít, hàng hóa chưa nhiều, mặt hàng chưa phong phú, song đã có tác dụng nhất định trong việc đấu
tranh với tư thương, hạn chế đầu cơ nâng giá, làm cho vật giá đi dân vào thế ổn định, góp phần
vào việc giữ giá đồng tiền, đồng thời tạo một nguồn thu ngày càng lớn cho ngân sách Nhà nước.
Tóm lại, từ khi thi hành chính sách kinh tế tài chính mới, tuy không thêm một loại thuế nào, thuế
suất cung không tăng (mà thuế nông nghiệp năm 1952 còn hạ thấp tỷ lệ động viên) nhưng do sản
xuất phát triển (có phần do tác dụng khuyến khích sản xuất của thuế) và do công tác quản lý thu
có tiến bộ nên số thu cho ngân sách Nhà nước ngày càng tăng, thuế nông nghiệp lấy năm 1951 là
100, thì 1952: 277, 1953: 430; 1954: 326; thuế công thương năm 1952: 700; 1953: 1720; 1954:
2797. Thu chi ngân sách Nhà nước được thăng bằng là cơ sở vững chắc để quản lý tiền tệ, bình
ổn vật giá. phạm vi lưu hành đồng tiền của ta được mở rộng thêm, việc quản lý phát hành tiền
ngày càng có kế hoạch. Mậu dịch quốc doanh đẩy mạnh thu mua và bán hàng, tiền tệ thâm nhập
sâu hơn vào thôn quê và miền núi. Chính sách tín dụng cũng góp phần thúc đẩy sản xuất và làm
vốn luân chuyển nhanh hơn. Nhờ có các kết quả đó, ta đã từng bước ngăn chặn được vật giá leo
thang và lạm phát. Tiền tệ vật giá ổn định lại tạo điều kiện thăng bằng thu chi ngân sách và thúc
đẩy sản xuất phát triển. Kết quả phấn đấu thực hiện chính sách kinh tế tài chính mới đã đảm bảo
cung cấp cho hai nhiệm vụ đánh giặc và cải cách ruộng đất, bảo đảm cung cấp cho các chiến
dịch lớn cuối năm 1953, đầu năm 1954, nhất là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, đánh bại âm
mưu và hành động xâm lược của Đế quốc Pháp được Mỹ giúp đỡ, buộc chúng phải ký kết Hiệp
nghị Giơnevơ năm 1954. Xây dựng và thực hiện Ngân sách Nhà nước phù hợp với đặc điểm tình
hình và yêu cầu của nhiệm vụ giai đoạn khôi phục kinh tế Ba năm khôi phục kinh tế, thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế xã hội cũng là ba năm phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ tài chính đã được
Đảng và Nhà nước đề ra. Kết quả thực hiện các chính sách, chế độ, biện pháp tài chính đã được
ban hành thể hiện tổng hợp ở ngân sách Nhà nước và ở tác động của ngân sách đến việc triển
khai các nhiệm vụ kinh tế xã hội. Nhìn vào cơ cấu ngân sách và kết quả thu chi ngân sách, thấy
rõ việc thực hiện ngân sách đã có sự thay đổi đáng kể so với trước, phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ giai đoạn khôi phục kinh tế. Về thu thì số thu trong nước tăng nhanh, năm 1957 gần
gấp đôi năm 1955 trong đó thu từ xí nghiệp quốc doanh tăng nhanh nhất, chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số thu Ngân sách, chứng tỏ Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc phát triển
kinh tế quốc doanh ngay trong thời gian khôi phục kinh tế, đó là sự đảm bảo chắc chắn cho việc
cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng như cho sự ổn định và phát
triển của tài chính và ngân sách Nhà nước trong những chặng đường tiếp theo. Thu về thuế vẫn
là nguồn thu rất quan trọng chiếm vị trí lớn nhất. Chiều hướng có phần giảm về tỷ trọng trong
ngân sách do tốc độ tăng thu từ xí nghiệp quốc doanh nhanh hơn và do Đảng và Nhà nước quan
tâm giảm nhẹ đóng góp của nông dân. Nhưng cần thấy rằng mức giảm sút đó còn có nguyên
nhân thất thu khá lớn, trong khi tỷ lệ động viên chung vào ngân sách Nhà nước đạt trên 20% thu
nhập quốc dân sản xuất (1956:23,1%, 1957: 22,7%) thì tỷ lệ động viên về thuế công thương
nghiệp đạt mức rất thấp, chỉ chiếm 7,5% thu nhập quốc dân ở khu vực này do tình trạng trốn
thuế, lậu thuế còn khá phổ biến; tỷ lệ động viên về thuế nông nghiệp giảm từ 17,5% năm 1955
xuống còn 6% năm 1957 so với thu nhập của nông dân một phần quan trọng do kê khai sụt diện
tích và sản lượng sau cải cách ruộng đất. Tình hình trên nói lên khả năng to lớn của thuế trong
điều kiện kinh tế sản xuất nhỏ, cá thể còn rộng lớn, vừa nói lên tích chất phức tạp, khó khăn
trong việc đấu tranh thực hiện chính sách. Cả hai nguồn thu trong nước và ngoài nước đều tăng,
nhưng tỷ trọng nguồn thu ngoài nước giảm xuống, tỷ trọng nguồn thu trong nước tăng đã thể
hiện sự phát triển tích cực, lành mạnh của tình hình kinh tế và tài chính trong giai đoạn khôi phục
kinh tế. Cả hai nguồn thu trong nước và ngoài nước đều tăng, nhưng tỷ trọng nguồn thu ngoài
nước giảm xuống, tỷ trọng nguồn thu trong nước tăng đã thể hiện sự phát triển tích cực, lành
mạnh của tình hình kinh tế và tài chính trong giai đoạn khôi phục kinh tế. Về chi thì quy mô,
phương hướng và kết cấu thay đổi rõ rệt so với thời kỳ kháng chiến, phản ánh đúng và đáp ứng
tốt đòi hỏi của nhiệm vụ mới. Tốc độ chi tăng hàng năm: năm 1956 so với năm 1955 tăng 58%,
năm 1957 so với năm 1956 tăng 12,7%. Nét nổi bật là nếu trong chiến tranh, ngân sách chủ yếu
phục vụ cho chiến đấu, phần dành cho xây dựng kinh tế rất ít, thì nay khoản chi cho xây dựng
kinh tế và phát triển văn hoá chiếm tỷ trọng tuyệt đối lớn, năm sau cao hơn năm trước, tính bình
quân trong ba năm (1955-1957) chiếm khoảng 60% tổng số chi ngân sách, còn chi quốc phòng
giảm nhiều so với trước, đặc biệt là chi cho quản lý hành chính được Nhà nước tăng cường quản
lý, quy định tiêu chuẩn, định mức chặt chẽ nên tỷ trọng giảm nhanh qua từng năm. Ngân sách đã
dành trên 45% tổng số chi cho kiến thiết cơ bản, trong đó chi kiến thiết cho khu vực sản xuất
chiếm gần 80%, với tốc độ tăng chi bình quân hàng năm là 56%. Từ số vốn này, ngành công
nghiệp đã được đầu tư khoảng 30% trong ba năm, tăng từ 6,9% năm 1955 lên 30,6% năm 1956
và 41,8% năm 1957, để khôi phục các xí nghiệp cũ, xây dựng một số cơ sở mới chú trọng trước
hết công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đồng thời quan tâm đúng mức đến các ngành công
nghiệp nặng quan hệ trực tiếp đến công nghiệp nhẹ và nông nghiệp: ngành nông nghiệp nhận
được 13,3% để phục hồi và xây dựng thuỷ lợi và xây dựng một số nông trường, chưa kể nông
dân còn nhận được một khoản vốn bằng khoảng 1/3 mức đầu tư ấy từ nguồn tín dụng ngân hàng
để mua sắm nông cụ, trâu bò và phân bón. Công cuộc khôi phục kinh tế được bảo đảm kịp thời
về mặt tài chính đã đạt thành tựu to lớn. Đến hết năm 1957, nông nghiệp không những hàn gắn
xong vết thương chiến tranh mà còn phát triển một bước, vượt mức của năm 1939, năm cao nhất
trong thời kỳ Pháp thuộc: năm 1939 diện tích trồng lúa của miền Bắc là 1.811.000 ha, năng suất
13,04 tạ/ha, sản lượng 2.407 tấn, thóc bình quân đầu người là 211,2 kg thì các con số tương ứng
của năm 1957 là 2.191.800 ha, 18,01 tạ/ha, 3.948 tấn và 286,7 kg. Lĩnh vực chăn nuôi cũng vậy,
năm 1957 so với năm 1939, đàn trâu tăng 51,1%, đàn bò tăng 60,1%, đàn lợn tăng 30,8%. Về
công nghiệp số xí nghiệp được khôi phục năm 1955 là 21 cơ sở, năm 1956 là 110 và năm 1957 là
150, trong đó có 93 xí nghiệp do TW quản lý mà 50 là xí nghiệp là cơ sở mới xây dựng bao gồm
cả nhà máy cơ khí Hà Nội, con đầu lòng của công nghiệp chế tạo máy Việt Nam ra đời ngay
trong thời gian này. Đến cuối năm 1957 sản xuất công nghiệp đã đạt mức năm 1939 trong đó sản
lượng công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng (1955: 41,7%; 1956:
60,3%; 1957: 66,6%). Mặt khác, thủ công nghiệp cũng được khuyến khích hỗ trợ nên phục hồi
và phát triển khá đến năm 1955 chỉ có 111.300 cơ sở với 298.400 lao động thì cuối năm 1957 đã
có 156.329 cơ sở với 440.000 lao động. Do vậy sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng
lên rõ rệt, cuối năm 1957 bằng 299,8% năm 1939, trong đó nhóm A bằng 134,4% và nhóm B
bằng 483,1% mức năm 1939, đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân những sản phẩm thiết yếu,
góp phần có hiệu quả vào việc khôi phục nông nghiệp, giao thông vận tải... và đã đáp ứng được
những nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân, có cả một số mặt hàng trước đây ta chưa
sản xuất được, phải hoàn toàn dựa vào nhập khẩu. Tóm lại, nhiệm vụ cải cách ruộng đất, khôi
phục kinh tế đã hoàn thành tốt đẹp. Sản xuất công, nông nghiệp không những đạt mà còn nhiều
mặt vượt mức của năm cao nhất trước chiến tranh, giao thông vận tải không còn bị ách tắc, lưu
thông hàng hoá được mở rộng trên toàn miền Bắc, thị trường giá cả, tiền tệ đi vào thế ổn định,
đời sống nhân dân bớt khó khăn có mặt được cải thiện, nhất là nông dân. Tài chính đã quán triệt
chủ trương quan điểm của Đảng, vươn lên cân bằng được thu chi ngân sách một cách tích cực,
đáp ứng tốt nhu cầu về vốn to lớn hơn trước và sử dụng vốn đúng hướng, có hiệu quả góp phần
xứng đáng vào thắng lợi của những nhiệm vụ kinh tế xã hội trong giai đoạn này, đạt được bước
phát triển rõ rệt về lượng cũng như về chất và từ những thành tựu của công cuộc khôi phục kinh
tế tài chính đã có cơ sở vững chắc hơn để tiếp tục phát huy vai trò và tác dụng của mình trên con
đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xa hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc. Ba năm cải tạo Xã hội Chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá (1958-
1960) Ngân sách Nhà nước được tiếp tục củng cố và phát triển Phục vụ nhiệm vụ cải tạo xã hội
chủ nghĩa và phát triển một bước kinh tế và văn hoá miền Bắc, đồng thời dựa vào kết quả thực
hiện nhiệm vụ đó, ngân sách Nhà nước đã được tiếp tục củng cố và phát triển Trong ba năm
1958 - 1960, nhờ những cố gắng về mọi mặt thực hiện thắng lợi kế hoạch cải tạo xã hội chủ
nghĩa và phát triển kinh tế văn hoá nền sản xuất xã hội của miền Bắc với tốc độ nhanh. Bình
quân hàng năm sản phẩm xã hội tăng 14,1% thu nhập quốc dân càng tăng với nhịp độ cao. Trên
cơ sở thu nhập quốc dân tăng và với các chính sách tài chính được hoàn thiện, bổ sung thêm, đã
cố gắng tổ chức công tác động viên nguồn vốn trong nước, tranh thủ nguồn vốn ngoài nước nên
thu ngân sách Nhà nước tăng nhanh qua từng năm với tốc độ cao, đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn mở đầu công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mặc dầu nguồn
viện trợ của các nước anh em ngày càng nhiều, tỷ trọng số thu trong nước tong tổng số thu ngân
sách vẫn tăng lên năm sau cao hơn năm trước, nhất là thu từ kinh tế quốc doanh . Nhịp độ tăng
thu từ kinh tế quốc doanh, nhanh hơn nhiều so với nhịp độ tăng thu ngân sách nói chung, so với
nhịp độ tăng nguồn thu trong nước nói riêng, đánh dấu bước chuyển biến rất cơ bản của nền tài
chính. Ngân sách Nhà nước, kế hoạch cơ bản của tài chính Nhà nước, đã tạo được chỗ dựa vững
chắc là nền kinh tế quốc dân phát triển, lại có cơ sở đảm bảo tính ổn định là khu vực kinh tế quốc
doanh ngày càng lớn mạnh đóng góp tới trên 60% tổng số thu ngân sách hàng năm. Tình hình đó
đã thể hiện tính đúng đắn của quan điểm tự lực, tự cường kết hợp tranh thủ và sử dụng có hiệu
quả sự viện trợ của các nước anh em, của quan điểm gắn chặt cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát
triển kinh tế trong giai đoạn 1958-1960 Về chi ngân sách, cũng có sự tăng lên tương ứng với tốc
độ tăng thu. Tốc độ tăng chi năm sau cao hơn năm trước một cách liên tục: năm 1958 tăng 11,7%
so với năm 1957, năm 1959 tăng 26,4% so với năm 1960 tăng 27,9% so với năm 1959. Việc bố
trí ngân sách đã đi theo hướng giảm dần chi cho khu vực không sản xuất, tập trung nhiều hơn
trước cho phát triển kinh tế, văn hoá. Mặc dầu Nhà nước đã thực hiện việc cải tiến chế độ tiền
lương và tăng lương cho công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, nhưng nhờ biện pháp tăng
cường quản lý và tiết kiệm đã tiếp tục giảm chi cho quốc phòng từ 21,2% tổng số chi ngân sách
năm 1957 xuống 16,6% năm 1960, giảm chi hành chính và các loại chi khác từ 17% năm 1957
xuống 14,8% năn 1960. Khoản chi cho phát triển kinh tế văn hoá chiếm xấp xỉ 70% tổng số chi
ngân sách, về mặt tỷ trọng tăng 10% hơn giai đoạn1955 - 1957, đã đáp ứng đúng yêu cầu của kế
hoạch ba năm 1958 - 1960. Riêng chi cho phát triển kinh tế chiếm trung bình 55% tổng số chi
ngân sách hàng năm trong đó số chi về xây dựng cơ bản chiếm vị trí cao nhất. Năm 1958 chi xây
dựng cơ bản chiếm 35,3% tổng số chi ngân sách, năm 1959 là 43,8% và năm 1960 lên tới 50,6%,
bảo đảm đạt khối lượng thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước cho các ngành kinh
tế quốc dân bình quân năm trong giai đoạn 1958-1960 bằng 223% của giai đoạn 1955 - 1957,
một sự đóng góp tích cực và có hiệu quả vào thắng lợi của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và
bước đầu phát triển kinh tế ở miền Bắc nước ta. Điểm đáng chú ý khác là chi cho văn hoá xã hội
cũng tăng lên, bảo đảm cho lĩnh vực văn hoá, y tế phát triển hài hoà với sự tăng trưởng về kinh
tế. Đến cuối năm 1959, về giáo dục, số học sinh phổ thông tăng lên bằng 1,5 lần năm 1957, gấp
11 lần hồi Pháp thuộc, sinh viên đại học bằng 2,1 lần năm 1957, gấp 14 lần thời Pháp thuộc; về
văn hoá nghệ thuật, các loại hình đều phát triển, tiêu biểu là số sách xuất bản gấp 11 lần hồi Pháp
thuộc và số thư viện tăng, đặc biệt là các tủ sách phát triển khá phổ biến đến tất cả các cơ quan xí
nghiệp, khu phố và nông thôn; về y tế, số giường bệnh tăng gần 60% so với năm 1957, tất cả các
xã đều có ban phòng bệnh và nhiều cán bộ y tế cũng như nữ hộ sinh xã. Bám sát và phục vụ đắc
lực nhiệm vụ chính trị, ngân sách Nhà nước trong những năm 1958-1960 đã được tổ chức và
quản lý với tinh thần cân đối thu chi một cách tích cực, chẳng những đáp ứng nhu cầu vốn tăng
lên mà còn có một số kết dư, thực sự thể hiện tính chất là ngân sách của nền kinh tế quốc dân
phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ ba của Đảng với vấn đề công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa và nhiệm vụ Tài chính Thắng lợi to lớn của giai đoạn khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội
chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa từ 1954 đến 1960 đã tạo điều kiện tiền đề cho
miền Bắc khởi đầu sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng sơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Tháng 9 năm 1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng đã đề ra
đường lối và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, như Hồ Chủ Tịch đã chỉ rõ trong lời khai
mạc là “Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình
thống nhất nước nhà”. Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định rằng cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, tiến hành đồng thời
ở hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, trong đó, “Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt nam, đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà”. Đại hội đã chỉ rõ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. ở miền Bắc, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Căn cứ vào đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Đại hội cũng đã thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961 - 1965) nhằm mục tiêu “phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, và hoàn thành công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội. Như vậy, sau Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng, miền Bắc nước ta chuyển sang thời
kỳ lấy xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội làm nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời
tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Để chỉ
đạo việc thực hiện đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp nhiều hội nghị chuyên đề và ra các nghị quyết cụ thể hoá đường lối phát triển kinh
tế trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Tháng 7 năm 1961, Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa 3) đã họp chuyên đề về vấn đề phát triển nông nghiệp. Nghị quyết của
hội nghị đã vạch ra nhiệm vụ và phương hướng đưa nông nghiệp tiến mạnh, làm cho nông
nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp với các phương hướng cụ thể là:
Tích cực củng cố và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh để phát
triển nông nghiệp mt cách vững chắc. Kết hợp việc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới với việc
phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp; kết hợp chặt chẽ việc
phát triển hợp tác hóa với thuỷ lợi hóa dần dần một bước cơ giới hóa, nhằm hướng mở rộng diện
tích bằng tăng vụ và khai hoang, đồng thời ra sức thực hiện thâm canh tăng năng suất theo
phương châm toàn diện mạnh mẽ và vững chắc, giải quyết tốt vấn đề lương thực là trọng tâm;
hết sức coi trọng cây nông nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, mở mang thêm nghề rừng, nghề cá, sử
dụng tốt sức lao động tập thể là chính đồng thời tận dụng sức lao động gia đình của xã viên.
Đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cụ thể
hóa trong Hội nghị lần thứ VII tháng 6 năm 1962. Nghị quyết đã chỉ rõ thực chất công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cách mạng kỹ thuật, từng bước cải tạo kỹ thuật và trang bị
kỹ thuật mới cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, là qúa trình phát triển công nghiệp nặng để
trang bị kỹ thuật cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Trong quá trình đó “... phải đặc biệt coi
trọng công nghiệp phục vụ nông nghiệp” và “... cuộc cách mạng kỹ thuật ở nước ta một mặt phải
tận dụng mọi khả năng kỹ thuật hiện có trong nước để từng bước nâng cao trình độ sản xuất của
nước ta từ thủ công lên nửa cơ khí và cơ khí. Mặt khác phải dựa vào sự tương trợ hợp tác giữa
nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa mà đưa nền sản xuất nước ta tiến thẳng ngay lên trình độ
cơ khí hóa và tự động hóa”.

Nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhằm giải quyết
các yêu cầu cụ thể về phục vụ phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, cung cấp thêm hàng tiêu
dùng thông thường cho nhân dân, vật tư xuất khẩu và tạo điều kiện cần thiết cho thực hiện công
nghiệp hóa trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai, phải thực hiện một bước ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. Chỉ tiêu được đề ra là trong 5 năm phấn đấu tăng tổng giá trị sản lượng công nghiệp
và thủ công nghiệp khoảng l,5 lần so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 20%.

Sau nông nghiệp và công nghiệp, Đảng đã chú ý đến lĩnh vực lưu thông phân phối. Vì thế tháng
12 năm 1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ X chuyên bàn về công tác
thương nghiệp và giá cả, đã đề ra những nhiệm vụ công tác trong các lĩnh vực này là:

+ Tăng cường lực lượng của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, tiếp tục
hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong thương nghiệp, tổ chức quản lý tốt cho nông
thôn, củng cố và mở rộng thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất để phục vụ và thúc đẩy
sản xuất phát triển, phục vụ tốt đời sống nhân dân.

+ Hướng ngoại thương vào phục vụ nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, phấn đấu tăng nhanh xuất khẩu để đảm bảo yêu cầu nhập khẩu ngày càng tăng, ra
sức khai thác những khả năng to lớn về nông nghiệp nhiệt đới, tài nguyên thiên nhiên
phong phú và sức lao động dồi dào để tăng nhanh khối lượng và nâng cao chất lượng
hàng xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu kỹ thuật tiên tiến, thích hợp với hoàn cảnh nước ta,
bảo đảm nhập khẩu thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ cần cho việc trang bị kỹ thuật mới và đổi
mới kỹ thuật sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

+ Xây dựng hệ thống giá hoàn chỉnh, kiên quyết, ổn định giá cả một cách vững chắc, điều
chỉnh những giá chưa hợp lý, ra sức phấn đấu để giảm giá hàng, kết hợp biện pháp giá cả
với các biện pháp khác nhằm phục vụ tốt cuộc cách mạng kỹ thuật, sử dụng giá cả tham
gia phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý nhất để tăng nhanh tích
lũy xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống nhân dân, lãnh đạo
tiêu dùng hợp lý và tiết kiệm. Căn cứ vào đường lối của Đại hội toàn quốc lần thứ II, tiếp
theo các hội nghị lần thứ V bàn về nông nghiệp và lần thứ VII bàn về công nghiệp, kết
hợp với kinh nghiệm thực tiễn phát triển kinh tế và văn hóa trong một số năm trước. Hội
nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ
cụ thể những chỉ tiêu về biện pháp chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -
1965).

Trong thời kỳ kế hoạch này phải “tập trung sức giải quyết yêu cầu cơ bản nhất là xây dựng cơ sở
vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông
nghiệp” ở miền Bắc, phấn đấu tăng bình quân hàng năm giá trị tổng sản lượng công nghiệp lên
khoảng 17% và giá trị sản lượng nông nghiệp lên 6,5% để đến năm 1965 đạt 7 triệu tấn lương
thực quy thóc. ..

Để đáp ứng yêu cầu bước đầu công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội và thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế như đã nêu trên. Đại hội lần thứ III của Đảng đã
đặt ra nhiều vấn đề Tài Chính phải giải quyết cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.

Trước hết là vấn đề cải tiến chế độ thu tài chính sao cho phù hợp với tình hình kinh tế quốc
doanh đã lớn mạnh, nền kinh tế tập thể đã hình thành và phát triển sau cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã quyết định: “Về phía Nhà nước, cần nghiên cứu sớm các chính sách thu đối với kinh
tế quốc doanh, đối với kinh tế hợp tác xã, chính sách thuế nông nghiệp cho phù hợp với tình hình
quan hệ sản xuất mới, thi hành những cải cách cần thiết về các chế độ thu tài chính để nâng cao
thích đáng nguồn tích lũy qua ngân sách Nhà nước, tập trung tiền vốn nhanh chóng và thúc đẩy
các ngành, các đơn vị ra sức cải tiến kinh doanh, tăng cường quản lý sản xuất và tài vụ.

Thứ hai là vấn đề bố trí chi tiêu hợp lý và tăng cường quản lý tài chính. Các khoản chi tài chính
giờ đây rất lớn, nhất là khoản chi về kinh tế. Đại hội đã chỉ rõ “Yêu cầu chi tiêu của chúng ta rất
nhiều, nhưng do khả năng của chúng ta hiện nay có hạn, cho nên trong việc phân phối và sử
dụng vốn vừa phải đảm bảo toàn diện, lại vừa phải có trọng tâm, trọng điểm, giữ tỷ lệ thích đáng
giữa các ngành, cần tăng cường công tác quản lý tài chính, đưa công tác quản lý tài chính dần
dần đi vào chế độ và kỷ luật chặt chẽ, nghiêm khắc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô
trong mọi ngành công tác.

Những nhiệm vụ tài chính do Đại hội Đảng đặt ra đã được nhấn mạnh, cụ thể hóa thêm tại hội
nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị đã đặt vấn đề tích luỹ vốn, tăng thu cho
ngân sách Nhà nước là một nhiệm vụ cực kỳ trọng yếu, tài chính phải dựa trên nhịp độ phát triển
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác phấn đấu tăng số thu của ngân sách
Nhà nước từ nội bộ nền kinh tế quốc dân trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất bình quân mỗi năm
khoảng hơn 60%, phải phát huy mọi khả năng tiềm tàng, tập trung đầy đủ và kịp thời nguồn, thu
trong khu vực kinh tế quốc doanh, trong khu vực kinh tế tập thể và trong những người sản xuất
riêng lẻ, động viên nhân dân làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, phải phân phối ngân sách
một cách hợp lý và tiết kiệm nhất, bảo đảm tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng
thời cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, Nghị quyết hội nghị Trung ương còn ghi rõ
“Trong việc phân phối ngân sách hàng năm, cần dành khoảng 40% số thu trong nước cho xây
dựng cơ bản về kinh tế và văn hóa. Trong số đó cần dành cho khu vực sản xuất khoảng 86%,
riêng cho nông nghiệp khoảng 21%, công nghiệp khoảng trên 48%, giao thông và bưu điện
khoảng 12% (10).

Những nhiệm vụ tài chính trên đây đã được triển khai thực hiện trong sự gắn bó với quá trình
phát triển kinh tế và văn hóa, với các cuộc vận động cải tiến quản lý trong các xí nghiệp quốc
doanh, trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, với cuộc vận động “ba xây, ba chống” trong
các cơ sở sản xuất kinh doanh, các địa phương và các ngành kinh tế, các cơ quan tổng hợp Nhà
nước.

Ba năm khôi phục kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội cũng là ba năm phấn đấu hoàn
thành các nhiệm vụ tài chính đã được Đảng và Nhà nước đề ra.

II. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng

Trên cơ sở đánh giá tình hình quốc tế và trong nước, ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”, vạch rõ chiến lược và nhiệm vụ cần kíp của cách
mạng nước ta. Chỉ thị xác định “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng”, khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”. Kẻ thù
chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp xâm lược.

Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của cách mạng nước ta là củng cố chính quyền dân chủ nhân dân,
chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Nhiệm vụ bao
trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng.

Chỉ thị này cũng đã đề ra những biện pháp cụ thể thực hiện các nhiệm vụ nêu trên.

- Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập hiến pháp, đấu
tranh chống bọn phản động.

- Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến.

- Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù, làm cho cách
mạng không phải trực tiếp đối đầu với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc. Đối với quân Tưởng thì
thực hiện khẩu hiệu “Hoa Việt thân thiện”.

Trung ương Đảng chỉ đạo: khó khăn đối nội là chủ yếu bức thiết trước mắt cần giải quyết
ngay. Khó khăn đối ngoại là cơ bản phải giải quyết lâu dài.

2.1. Củng cố và tăng cường chính quyền cách mạng

Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 hoàn toàn thắng lợi. Chính phủ chính thức được thành
lập, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt tại kỳ họp thứ 2 (tháng 11/1946), Quốc hội đã
thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách
mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ
thống nhất, một bản hiến pháp tiến bộ, một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa
về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại.

Đồng thời với việc khai thác sức mạnh của dân phục vụ cho nhiệm vụ “kháng chiến, kiến
quốc”, Đảng và chính quyền cách mạng rất quan tâm chăm lo bồi dưỡng sức dân, chú trọng phát
triển kinh tế, tăng cường năng lực nội sinh cách mạng của quần chúng.

Chính sách kinh tế - tài chính lúc đó được xác định như sau: “Kiến thiết nền kinh tế quốc dân
làm cho dân giầu, nước mạnh theo những nguyên tắc: tự do kinh doanh, tăng gia sản xuất, bảo vệ
quyền lợi quốc gia, điều hòa quyền lợi giữa tư sản và lao động, giữa địa chủ và nông dân, giữ
vững chủ quyền về quan thuế và ngoại thương; khuyến khích và giúp đỡ công nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp, củng cố tài chính quốc gia”.

2.2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Diệt giặc đói, ổn định
đời sống nhân dân

Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được Hồ Chủ tịch đặt lên hàng đầu, là
nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số 1. Người nói: “Nhân dân đang đói..., những người thoát chết đói
nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống!”.

Để giải quyết nạn đói, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, biện pháp thực hiện sát sao:

2.2.1. Tổ chức lạc quyên, cứu tế

Để tiêu diệt tận gốc “giặc đói”, biện pháp cơ bản lâu dài là phát triển sản xuất, tiết kiệm tiêu
dùng lương thực. Nhưng trong khi chờ đợi kết quả của sản xuất, để khẩn cấp cứu đói cho dân,
trên cơ sở phát huy truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá gương” của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kêu gọi nhân dân với tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” tự nguyện
thực hành tiết kiệm, xây dựng các “hũ gạo cứu đói” giúp đỡ các gia đình thiếu ăn trầm trọng.
Người đã phát động phong trào “10 ngày nhịn 1 bữa ăn, mỗi tháng 3 bữa, mỗi bữa 1 bơ, đem gạo
đó để cứu dân nghèo” và Người đã tiên phong thực hiện trước.

2.2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “tăng gia sản xuất”

Nghị định số 41 BKT ngày 15/11/1945 của Bộ Kinh tế Quốc dân quy định một số biện pháp
để khuyến khích tận dụng đất đai trồng màu cứu đói:

- Tất cả những người có ruộng đất phải khai báo với chính quyền địa phương về diện tích canh
tác. Ngoài số diện tích đó, phần nào chưa canh tác thì buộc phải cho người thiếu ruộng mượn
tạm trong một vụ để trồng màu.

- Người mướn ruộng phải đảm bảo canh tác hết diện tích đó trước tết âm lịch, tức ngày 2 tháng 2
năm 1946 và đến tháng 4/1946, thu hoạch xong thì phải trả lại ngay cho chủ cũ.
- Vì trâu bò bị chết nhiều qua nạn đói và nạn lụt (chỉ riêng trong nạn đói đầu năm 1945, 30 vạn
con trâu bò đã bị chết, bằng 2/3 tổng số trâu bò cày kéo thời gian đó) nên sức kéo khan hiếm
nghiêm trọng. Để khắc phục khó khăn này, các địa phương phải tổ chức sản xuất các loại nông
cụ nhỏ và nhẹ để có thể sử dụng sức người thay cho sức trâu bò.

Bộ Kinh tế cũng trực tiếp động viên các nhà kỹ nghệ cấp tốc sản xuất thêm nông cụ và bán
ủng hộ cho nông dân (bán không lấy lãi, có trường hợp không tính công sản xuất, chỉ tính chi phí
nguyên liệu).

Hủy bỏ những quy định cũ của Pháp, Nhật cấm buôn bán trâu, bò trong nội địa. Cho tự do
buôn bán, vận chuyển trâu, bò trong cả nước.

- Chính phủ tập trung củng cố hệ thống đê điều, hàn khẩu lại các quãng đê đã bị vỡ. Đây là một
thành tích có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng gia sản xuất cứu đói

- Chính phủ còn ban hành các chính sách khuyến nông; tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và
Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý
hơn; quy định giảm tô, giảm tức.

Giặc đói đã bị đánh lui. Đây thực sự là một kỳ công của chính quyền cách mạng.

Để giải quyết khó khăn về tài chính, Đảng, Chính phủ cũng đã dựa vào dân, phát huy lòng yêu
Tổ quốc, yêu Độc lập - Tự do, trên tinh thần tự nguyện và theo khả năng của mình đóng góp theo
nhiều hình thức như “quĩ Độc lập”, “quĩ Kháng chiến”, “đảm phụ quốc phòng”...

2.2.3. Đồng thời với việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Chính phủ đã khẩn trương phục hồi
hoạt động của các ngành kinh tế khác

Tình hình kinh tế nói chung lúc này đứng trước những khó khăn rất lớn:

- Năm 1945, tình hình công thương nghiệp cũng bị sa sút, ngưng trệ tương tự tình hình nông
nghiệp. Công nghiệp khai thác mỏ chỉ còn hoạt động bằng khoảng 1 phần 10 so với trước; còn
công nghiệp chế biến hầu như tê liệt hoàn toàn. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp cũng bị đình đốn,
giảm sút mạnh. Nên nguồn hàng hóa cung ứng cho thị trường rất khan hiếm. Về thương nghiệp:
cả nội, ngoại thương đều bị tê liệt, xuất nhập khẩu sa sút.

- Tiếp theo là khó khăn về giao thông vận tải. Tuy các tuyến đường sắt, đường biển, đường sông
còn tiếp tục hoạt động nhưng các phương tiện vận tải phần lớn vẫn nằm trong tay chủ người
Pháp, nên cũng gặp trở ngại; vận tải đường bộ thì rất khó khăn vì thiếu xăng dầu (nhiều ô tô
khách và ô tô tải phải chạy bằng khí than củi (gazogene), thiếu săm lốp và phụ tùng thay thế, cầu
đường ở nhiều nơi bị đánh phá trong chiến tranh thế giới thứ hai chưa được khôi phục xong, một
số đoạn còn phải tăng - bo. Việc giao lưu buôn bán giữa 2 miền Nam, Bắc cũng bị ách tắc. Than
ở miền Bắc không chuyên chở vào Nam được, gạo trong Nam cũng không ra Bắc được. Giá cả
hàng hóa tăng vùn vụt.

Chính phủ chủ trương, một mặt phát huy lòng yêu nước của giới công thương, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho họ đem tài lực, vật lực ra làm những công việc ích nước lợi nhà. Mặt khác,
vẫn để cho các công ty tư bản Pháp và tư bản nước ngoài tiếp tục công việc kinh doanh như cũ,
cố tránh những xáo trộn không cần thiết.

a. Đối với sản xuất công nghiệp

a.1. Bước đầu hình thành khu vực quốc doanh

Nhà nước Việt Nam đã ban hành sắc lệnh hủy bỏ những đạo luật và nghị định của Toàn quyền
Pháp giữ độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ ở các khu vực trên đất Việt Nam; và sắc lệnh
giành lại quyền tìm mỏ cho Chính phủ Việt nam (Sắc lệnh số 89 ngày 30/5/1946). Sắc lệnh số 90
ngày 30/5/1946 quy định những khu vực kể trên được thành lập khu mỏ của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa.

Chính phủ cũng chủ trương mở lại các mỏ than ở Hòn Gai, Tân Trào (Tuyên Quang), Làng
Cẩm, Phấn Mễ (Thái Nguyên), Quyết Thắng (Ninh Bình), tiếp tục khai thác mỏ thiếc Tĩnh Túc
(Cao Bằng) bị Nhật chiếm đóng từ tháng 3/1945 và bị phá hoại trước khi chúng rút.

Gấp rút hồi phục Nhà máy Cơ khí Trường Thi. Nhà máy Giấy Đáp Cầu.

Ngày 15/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 5, lấy lại đường xe lửa Hải Phòng -
Vân Nam và giao cho Bộ Giao thông công chính quản lý.

Như vậy là thời gian này đã bắt đầu hình thành khu vực quốc doanh.

a.2. Về công nghiệp tư doanh

Trong thời gian này, đã ra đời một số doanh nghiệp công nghiệp quy mô vừa của người Việt
sản xuất một số loại hàng trước đây chỉ do các nhà máy của người Pháp sản xuất hoặc phải nhập
khẩu, như xà phòng giặt, sơn Gecko ở Hà Nội, sơn Resistanco ở Hải Phòng...

Nhà nước cũng chủ trương cho phép tư nhân được tham gia kinh doanh khai thác mỏ.

Ngày 30 tháng 5 năm 1946, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh cho phép ông Đỗ Long Giang, chủ mỏ
ở Hà Nội được phép tìm mỏ và khai thác than trong khu đất Giáp Khẩu, Hòn Gai, diện tích 900
ha.

a.3. Về tiểu, thủ công nghiệp

Nhà nước hết sức khuyến khích và giúp đỡ cả về vốn và việc mua bán nguyên vật liệu phát
triển sản xuất.

Do hàng hóa được lưu thông tự do nên nguyên, nhiên liệu cần thiết cho sản xuất dồi dào, thị
trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng, đã tạo điều kiện cho sản xuất tiểu, thủ công nghiệp phục
hồi và phát triển, cung ứng được nhiều hàng hóa cho thị trường và tăng thu nhập cho người sản
xuất.
a.4. Đối với tư bản Pháp và nước ngoài

Trừ một số xí nghiệp của tư bản Pháp có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, quốc
phòng, đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã trưng thu một số
cơ sở, như các nhà máy điện, nước ở Hà Nội, nhà máy luyện kim Hà Nội, cơ sở và vô tuyến điện
của hãng Air France v.v... số còn lại vẫn để cho tiếp tục kinh doanh như cũ, nhưng có sự kiểm
soát của Nhà nước.

Sắc lệnh ngày 09/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã nêu rõ 2 điều:

- Các hãng kỹ nghệ hoặc thương mại ngoại quốc hiện có ở Việt Nam vẫn được phép tiếp tục
công việc kinh doanh như cũ.
- Vì nền trật tự công cộng, Chính phủ Việt Nam có quyền kiểm soát và nếu cần, có quyền đặt
những ban chuyên môn để giữ nhiệm vụ đó.

Nhờ chủ trương đó, nhiều xí nghiệp của Pháp khác vẫn hoạt động bình thường như các xí
nghiệp thuộc ngành điện, nước ở một số thành phố (ngoài Hà Nội), vải sợi (Nam Định), dệt len,
xi măng (Hải Phòng), gạch ngói (Đáp Cầu), đã cung ứng cho thị trường được một số hàng hóa
cần thiết như than mỏ, xi măng, gạch ngói, vải, giấy... đảm bảo duy trì được công ăn việc làm
cho công nhân, lao động, góp phần đảm bảo sinh hoạt bình thường trong nhân dân.

b. Đối với thương nghiệp

b.1. Về nội thương

Trên nguyên tắc tự do nội thương, Chính phủ khuyến khích mở rộng việc buôn bán, làm cho
hàng hóa được lưu thông tự do trong toàn quốc. Nghị định của Chính phủ ngày 02/10/1945, bãi
bỏ các luật lệ hạn chế kinh doanh dưới thời Pháp, Nhật; sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày
22/9/1945 xóa bỏ các tổ chức độc quyền kinh doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19/9/1945
của Bộ Quốc dân Kinh tế xóa bỏ tất cả mọi hạn chế về lưu thông các hàng hóa thông thường cho
kinh tế và đời sống, như gỗ, giấy, lương thực, thực phẩm (công báo 1945, tr.21).

Ngày 05/9/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 7 - SL đảm bảo sự buôn bán và chuyên chở thóc
gạo được tự do trong toàn hạt Bắc bộ, sau đó thì áp dụng cho cả Trung bộ (công báo 1945-tr.6).
Nghiêm cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo.

Liền sau đó là một loạt nghị định về việc sản xuất, vận chuyển và buôn bán hoàn toàn tự do vỏ
gió và các nguyên liệu làm giấy; nhựa thông, các hạt có dầu, da trâu bò và nguyên liệu nhuộm da
v.v... (Nghị định ngày 26/09/1945).

Những biện pháp này đã đem lại kết quả tốt đẹp. Thóc gạo và các loại hàng hóa thông thường
khác được điều hòa dễ dàng từ nơi thừa đến nơi thiếu, kích thích sản xuất phát triển.

Cùng thời gian này, Hội thương gia Việt Nam được thành lập. Phòng Thương mại Việt Nam
ra đời.
Ngày 07/02/1946, thành lập Tiểu ban nghiên cứu về luật thương mại áp dụng ở Việt nam do
Đinh Gia Trinh, đổng lý văn phòng Bộ Tư pháp đứng đầu.

Tháng 8/1946, Chính phủ đề ra chủ trương mở Ngân hàng Thương mại có chi nhánh ở các
tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động thương nghiệp.

b.2. Về ngoại thương

Chính phủ hủy bỏ sắc lệnh ngày 13/8/1941 của Tổng thống Pháp ban hành dành đặc quyền
cho hàng hóa Pháp và các công ty ngoại thương của Pháp.

Sắc lệnh ngày 10/10/1945 duy trì luật hải quan và biểu thuế quan cũ có một ít điều chỉnh để
kịp thời thu thuế xuất nhập khẩu.

Nghị định 48/CT ngày 09/11/1945 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ấn định thể lệ mới về xuất
cảng và nhập cảng các hàng hóa, quy đinh mọi nhà kinh doanh Việt Nam đều có quyền kinh
doanh xuất, nhập khẩu theo luật pháp của Nhà nước.

Tiếp đó, ngày 15/11/1945, Chính phủ ra sắc lệnh quy định thuế xuất, nhập cảng mới của một
số mặt hàng.

Đối với xuất khẩu, Nhà nước khuyến khích các mặt hàng ta có khả năng, nhất là than đá. Cấm
xuất cảng thóc, gạo, ngô, đỗ và các chế phẩm từ ngũ cốc, máy móc và đồ vật bằng kim khí.

Đối với nhập khẩu, Nhà nước khuyến khích nhập những mặt hàng nguyên, nhiên liệu, những
thứ thuộc nhu cầu thiết yếu trong nước, ta chưa sản xuất được.

b.3. Phục hồi giao thông - liên lạc

Việc cấp bách là phải sửa chữa cầu đường bị bom đạn phá hoại trong chiến tranh. Trong điều
kiện vô cùng khó khăn về tài chính và trình độ kỹ thuật, chưa đầy một tháng sau Cách mạng,
đường xe lửa đã được tổ chức lại. Xe đã đi lại được nối hai miền Bắc, Nam (tuy còn một số đoạn
phải tăng - bo).

Về bưu điện: Phần lớn đường dây trước đây do quân Nhật quản lý. Khi Nhật đầu hàng, rất
nhiều đoạn đã bị phá hủy, nhiều cơ sở ngừng hoạt động. Nhưng chỉ 1 tuần sau cách mạng, hệ
thống điện tín, điện thoại giữa Hà Nội - Huế - Sài Gòn đã được phục hồi và hoạt động bình
thường. Đến cuối tháng 8/1945, phần lớn các tỉnh đã liên hệ được với Hà Nội và với nhau bằng
điện tín và điện thoại. Và người Việt Nam đã thay thế hoàn toàn nhân viên người Pháp trong
toàn ngành đảm đương mọi công việc.

Những kết quả trong giao thông liên lạc trên đã phục vụ tốt cho quân sự - quốc phòng, cho
công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và tác động tích cực đến sản xuất, lưu thông
hàng hóa, phục vụ dân sinh.
c. Xóa bỏ các công cụ bóc lột: Các độc quyền nhà nước

Ngay sau Cách mạng Tháng 8, chính quyền cách mạng đã ban hành lệnh cấm buôn bán thuốc
phiện, xóa bỏ công ty độc quyền rượu đi đôi với vận động nhân dân giảm uống rượu và cai thuốc
phiện.

Đối với muối: Xóa bỏ chế độ độc quyền nhà nước về muối, diêm dân được tự do bán muối ra
thị trường sau khi nộp thuế theo quy định. Nhờ đó, giá bán muối của diêm dân tăng nhanh, thu
nhập và đời sống của diêm dân được cải thiện rõ rệt, không những đủ ăn, đủ mặc mà còn mua
sắm được nhiều đồ dùng gia đình có giá trị. Mặt khác, do được lưu thông tự do trên thị trường,
nên giá bán muối ở các vùng giảm so với trước, việc mua bán thuận tiện, đặc biệt là ở các tỉnh
miền núi, nhà nào cũng có đủ muối ăn và muối dự trữ.

Có thể nói, việc chính quyền Cách mạng xóa bỏ các độc quyền nhà nước của chế độ thực dân
Pháp đã gây được ảnh hưởng rất tốt cả về kinh tế, chính trị, xã hội.

Có thể nói, mười sáu tháng kháng chiến kiến quốc, trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, “ngàn
cân treo sợi tóc”, đạt được những thành tựu trên đây là do chính quyền cách mạng đã quán triệt
quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đó là biết dựa vào nhân dân, phát động đông đảo nhân dân cùng chung tay ra sức khắc phục
khó khăn diệt giặc đói, giải quyết khó khăn về tài chính, tiền tệ trong công cuộc chống giặc Pháp
xâm lược, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng.

Đó là nhanh chóng xóa bỏ các công cụ bóc lột của thực dân Pháp, đem lại lợi ích cho quần
chúng nhân dân lao động.

Đó là chính sách đại đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội: nông dân, công
nhân, công thương gia v.v... góp sức xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân, độc lập tự chủ, duy
trì hoạt động kinh tế bình thường, đảm bảo an sinh xã hội.

Những thành tựu trên mặt trận kinh tế nói trên đã có tác dụng to lớn tăng cường năng lực nội
sinh cách mạng của quần chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng chế
độ dân chủ cộng hòa, bảo vệ nền độc lập, giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ, đã góp phần
tích cực vào việc tăng cường thực lực, đảm bảo đủ sức tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống
thực dân Pháp xâm lược.

You might also like