Professional Documents
Culture Documents
Bài Tập Nhóm 2 - lớp Kinh Tế Đầu Tư 07
Bài Tập Nhóm 2 - lớp Kinh Tế Đầu Tư 07
CHỦ ĐỀ: TẠI SAO ĐẦU TƯ VỪA TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC, VỪA TÁC
ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN NỀN KINH TẾ. LẤY VÍ DỤ CHỨNG MINH.
Hà Nội, 2024.
MỤC LỤC
I. Tác động tích cực của đầu tư đến nền kinh tế .............................................. 3
1. Tác động đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ........................... 3
2. Tác động của FDI đến thị trường lao động và vấn đề việc làm .................. 3
3. Tác động của FDI trong cải tiến khoa học - công nghệ............................... 4
II. Tác động tiêu cực của đầu tư đến nền kinh tế ............................................. 5
III. Ví dụ ............................................................................................................. 12
~2~
I. Tác động tích cực của đầu tư đến nền kinh tế
2. Tác động của FDI đến thị trường lao động và vấn đề việc làm
Đầu tư vào các ngành công nghiệp và dịch vụ mới tạo ra nhiều cơ hội việc
làm cho người lao động. Việc có nhiều việc làm hơn giúp cải thiện mức sống và
Khu vực FDI góp phần không nhỏ trong việc tạo việc làm cho người lao
động. Theo Tổng cục Thống kê (2019), kết quả Điều tra Lao động - Việc làm quý
1/2019, khu vực doanh nghiệp FDI đã và đang tạo công ăn việc làm cho 3,8 triệu
người lao động, chiếm trên 7% trong tổng lực lượng lao động (trên 54 triệu lao
động), chiếm trên 15% trong tổng lao động làm công ăn lương (25,3 triệu người)
ở Việt Nam. Bên cạnh tạo việc làm trực tiếp, khu vực FDI cũng gián tiếp tạo việc
làm cho rất nhiều lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ hay các doanh
nghiệp khác nằm trong chuỗi cung ứng hàng hoá cho các doanh nghiệp FDI.
Mức lương bình quân của lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp
có vốn FDI cao hơn so với trong khu vực nhà nước hoặc khu vực ngoài nhà nước.
Cụ thể, mức lương trung bình của lao động trong khu vực có vốn FDI là 8,2 triệu
đồng/tháng, trong đó đối với lao động nam là 9,2 triệu đồng/tháng và lao động nữ
là 7,6 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, lao động trong khu vực nhà nước có mức
lương trung bình là 7,7 triệu đồng/tháng và đối với khu vực ngoài nhà nước là 6,4
triệu đồng/tháng (Tổng cục Thống kê, 2019).
Bên cạnh mức lương cao, khu vực FDI cũng góp phần quan trọng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam thông qua hệ thống đào tạo nội bộ trong
doanh nghiệp hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp.
~3~
Số liệu điều tra của Bộ Lao động, Thương binh và Xãhội năm 2017 cho
thấy, trên 57% doanh nghiệp FDI thực hiện các chương trình đào tạo cho người
lao động. Trong đó, tự đào tạo chiếm 40%, liên kết với các cơ sở đào tạo chiếm
17%. Điều này góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động
trong doanh nghiệp FDI, tạo hiệu ứng tích cực, thúc đẩy nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nói chung ở Việt Nam thông qua việc dịch chuyển lao động từ
3. Tác động của FDI trong cải tiến khoa học - công nghệ
Không thể phủ nhận rằng, khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ công
nghệ, là kênh quan trọng giúp Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn cả về
kinh tế - xã hội với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. FDI được kỳ
vọng là kênh quan trọng để tiếp thu công nghệ tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là
trong một số ngành như: Điện tử, công nghiệp phần mềm, công nghệ sinh học...
~4~
Khu vực FDI đã tích cực tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ
xanh, thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội, xây dựng và nâng cao nhận thức về
nền kinh tế xanh cho người lao động và người tiêu dùng. Có thể kể đến lợi thế của
FDI đối với việc phát triển bảo vệ môi trường tại Việt Nam như Dự án hệ thống
xử lý nước thải y tế tại Bệnh viện Chợ Rẫy; Công ty Điện lực Phú Mỹ 3 với việc
cài đặt hệ thống phát hiện rò rỉ tự động và trồng 4.000 cây xanh xung quanh công
ty…
II. Tác động tiêu cực của đầu tư đến nền kinh tế
Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 đến 28% trong
cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi,
gia tăng đầu tư làm cho tổng cầu tăng (nếu các yếu tố khác không đổi). Điều này
dẫn đến cầu các yếu tố đầu vào tăng, giá các yếu tố đầu vào cũng vì thế mà tăng
theo. Chi phí sản xuất tăng khiến các doanh nghiệp phải đẩy giá bán của hàng hóa
lên cao. Giá hàng hóa tăng liên tục trong một khoảng thời gian gây ra lạm phát.
Có thể kể đến cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Yếu tố được coi là chủ
chốt gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 là do sự phát triển quá “nóng” của thị
trường bất động sản tại Mỹ. Khi lãi suất giảm, các nhà đầu tư hay những người
dân bình thường đều có thể vay nợ dễ dàng từ các NHTM với mục đích đầu tư
vào BĐS. Tuy nhiên, đầu tư quá mức vào thị trường BĐS đã làm tăng nhu cầu
Ở Việt Nam, từ năm 2021 đến nay, giá nhà chung cư tại Hà Nội tăng liên
tục. Tính đến đầu năm 2024, theo nghiên cứu mới nhất của Net Credit, Hà Nội
tiếp tục lọt nhóm các thủ đô khó mua nhà ở nhất thế giới. Giá một căn nhà chung
~5~
cư tại nội thành Hà Nội đã tăng 77% trong năm qua, tương đương 45 năm thu
nhập bình quân của người lao động và đang đạt ngưỡng 70 triệu đồng/m2. Vấn đề
giá nhà tăng cao bên cạnh lý do lãi suất thấp, lạm phát cao kỷ lục thì cốt lõi vấn
đề nằm ở tình trạng cầu tăng cao trong khi nguồn cung lại sụt giảm. Nhu cầu đầu
tư vào nhà ở của người dân không ngừng tăng lên, thúc đẩy giá BĐS liên tục thiết
lập mặt bằng mới. Dưới đây là biểu đồ thể hiện nhu cầu tìm chung cư vẫn rất lớn:
Nguồn: Batdongsan.com.vn
FDI - nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - đây là hình thức đầu tư dài
hạn của cá nhân hoặc tổ chức vào một quốc gia khác bằng cách thiết lập nhà xưởng
sản xuất, cơ sở kinh doanh tại nước đó. Đối với các nước đang phát triển - những
nước luôn cần huy động vốn đầu tư - thì việc thu hút hiệu quả được dòng vốn FDI
là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng mang lại
cho quốc gia nhận đầu tư nhiều tác động tiêu cực:
Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là
đầu tư trong nước và nước ngoài. Vì vậy nếu như chỉ chú trọng đến việc sử dụng
vốn đầu tư nước ngoài FDI sẽ gây ra mất cân đối trong cơ cấu đầu tư. Nền kinh tế
~6~
quốc dân sẽ phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, FDI sẽ chỉ
tập trung vào một số địa phương có tiềm năng phát triển. Điều này sẽ gây ra mất
Thực tế, do công tác quản lý ở nước sở tại còn nhiều hạn chế, một số nhà
đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI đã tiêu thụ một lượng máy móc thiết
bị lạc hậu, biến nước tiếp nhận FDI thành “bãi rác công nghệ”. Hay lợi dụng việc
nước được nhận đầu tư chưa chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường mà một
lượng lớn chất thải gây ô nhiễm ra môi trường. Điển hình như trường hợp Formosa
ở Hà Tĩnh năm 2016 gây ô nhiễm môi trường biển nặng nề.
Lợi dụng chuyển giá để trốn thuế gây ảnh hưởng đến ngân sách và người
tiêu dùng:
Để thu hút được vốn đầu tư nước ngoài FDI, quốc gia muốn được nhận đầu
tư sẽ đánh ít thuế, cùng với đó là những chính sách ưu đãi nhà đầu tư. Lợi dụng
những lợi thế đó, một số nhà đầu tư nước ngoài FDI sử dụng biện pháp chuyển
giá với mục đích vừa thu được lợi nhuận, vừa “trốn được thuế”. Các tổ chức này
sẽ cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, bộ phận, sản phẩm dở dang với
giá cao. Để mua số nguyên vật liệu đó, nước được đầu tư phải chi một khoản ngân
sách lớn. Tuy nhiên đến cuối kỳ, phái nhà đầu tư lại báo lỗ, như vậy sẽ không bị
đánh thuế. Một ví dụ cụ thể là Coca-Cola Việt Nam trốn thuế trong 10 năm (từ
năm 2007), với tổng khoản thuế phải thu từ doanh nghiệp này lên đến 821,4 tỷ
đồng.
Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực trên, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI có thể gây sức ép lên doanh nghiệp trong nước. Sự gia
~7~
tăng về số lượng các dự án FDI cũng đi kèm với những vấn đề xã hội, an ninh
quốc gia.
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn của nhà tài trợ nước
ngoài cung cấp cho một quốc gia đang phát triển khác để hỗ trợ phát triển, bảo
Thông tin về công tác huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, tính
đến giữa tháng 11/2023, Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ đã thực hiện ký kết 6
hiệp định vay nước ngoài với Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD), Hàn
Quốc và Nhật Bản với tổng trị giá ký kết khoảng 531,79 triệu USD.
Theo đó, khoản vay lớn nhất là thỏa thuận vay hỗ trợ ngân sách trị giá 50
tỷ Yên cho Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hậu
Covid-19. Đây là khoản vay thuộc chương trình ODA thế hệ mới được triển khai
trên cơ sở cam kết của Thủ tướng Chính phủ hai nước Việt Nam và Nhật Bản với
ODA là khoản vay có mức lãi suất rất thấp lại đi kèm nhiều ưu đãi nhằm
hỗ trợ các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, song hành cùng những mặt lợi đó
là những điều kiện ràng buộc kèm theo. Với các nước viện trợ vốn ODA; họ đều
có những chính sách và quy định riêng để ràng buộc với các nước tiếp nhận. Các
nước này không chỉ muốn đạt ảnh hưởng về chính trị mà còn muốn đem lại lợi
nhuận cho họ. Vậy nên những khoản cho vay luôn đi kèm với những điều kiện
ràng buộc nhất định về nhiều mặt như kinh tế, chính trị,…
~8~
Kể từ khi ra đời tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại
song song: Một là, thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang
phát triển. Hai là, tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ.
Các nước cho vay ngoài giúp đỡ các nước đang phát triển thì mục đích của
họ là sử dụng ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của
mình tại các nước và vực tiếp nhận ODA.
Nguồn vốn ODA sẽ là “miếng mồi ngon” với điều kiện nước được nhận
viện trợ sử dụng hiệu quả nguồn vốn này kết hợp cùng với các nguồn vốn khác
để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. Bởi lẽ, ODA không có
khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại
bằng ngoại tệ. Và ngược lại, nếu như không có những chính sách cũng như cách
làm đúng đắn với nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA có thể tạo được sự
tăng trưởng nhất thời nhưng sau đó sẽ rơi vào vòng nợ nần do không có khả năng
trả nợ.
Ngoài ra, nước nhận viện trợ phải mua thiết bị, công cụ sản xuất và thuê
nhân sự, dịch vụ của nước tài trợ với chi phí cao, làm giảm hiệu quả đầu tư, ảnh
hưởng xấu đến các công ty cung cấp các sản phẩm tương tự trong nước.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư tới tổng cung và
tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều
cùng một lúc là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền
~9~
Thị trường bất động sản được xem là một trong những trụ cột của nền kinh
tế, giúp tập trung các nguồn lực, tạo ra tài sản cố định cho quốc gia. Sự phát triển
của thị trường bất động sản tạo ra động lực tăng trưởng cho các ngành nghề liên
quan (thị trường tài chính, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, nội thất, lao
động...), đáp ứng nhu cầu về chỗ ở và phát triển đô thị, du lịch.
Tuy nhiên, việc đầu tư quá mức hoặc không hợp lý vào thị trường bất động
sản lại ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Đầu tư nhiều vào BĐS làm giá BĐS tăng
vọt. Khi giá tăng quá cao sẽ dẫn đến bong bóng BĐS. Điều này đồng nghĩa với
lượng vốn tồn đọng nhiều ở một lĩnh vực BĐS, khiến cho vốn của các ngành nghề
khác sụt giảm. Ngoài ra, bong bóng BĐS cũng là nguy cơ dẫn đến vỡ nợ nhiều
ngân hàng thương mại (NHTM). Tất cả những yếu tố trên gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự ổn định của nền kinh tế. Tình trạng nặng nề nhất của vấn đề BĐS
này có thể kể đến cuộc khủng hoảng tài chính của toàn thế giới năm 2008.
Đầu tư làm gia tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và
ngoài nước:
Cạnh tranh vốn là điều tất yếu để phát triển tích cực, thúc đẩy sự tăng
trưởng. Tuy nhiên, việc cạnh tranh bất bình đẳng thì ngược lại. Các doanh nghiệp
nước ngoài luôn có lợi thế cạnh tranh hơn so với doanh nghiệp Việt về thuế, vốn
và mặt bằng. Doanh nghiệp ngoại nhập khẩu sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được
miễn giảm thuế nhập khẩu. Còn ở doanh nghiệp nội, khi nhập khẩu nguyên liệu,
trang thiết bị về sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ bị đánh thuế nhập khẩu.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi tham gia đầu tư tại Việt Nam được
nhận các ưu đãi về thuế đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ giá điện… Trong
khi đó, doanh nghiệp trong nước phải đóng đầy đủ tất cả khoản thuế, phí trên,
~ 10 ~
Từ đó, các sản phẩm của doanh nghiệp trong nước cũng khó có thể cạnh
tranh về giá thành với các sản phẩm của doanh nghiệp nước ngoài. Về mặt nhân
công cũng tương tự. Các doanh nghiệp nước ngoài luôn trả mức lương cao hơn,
thu hút người lao động về phía họ. Và lẽ đương nhiên, bên nào hoạt động hiệu
quả hơn thì sẽ chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng. Kết quả là nhu cầu đối với sản
phẩm trong nước giảm, thị phần của các donah nghiệp trong nước giảm gây sức
Ngày càng nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, nếu
như không có những chính sách, luật định rõ ràng sẽ có thể gây hỗn loạn nền kinh
tế.
Bên cạnh những ý kiến cho rằng FDI là một điểm sáng trong bức tranh kinh
tế của Việt Nam cũng có những cảnh báo về nguy cơ khi nền kinh tế phụ thuộc
vào nguồn lực bên ngoài. Và nếu như các doanh nghiệp FDI gặp vấn đề, nền kinh
tế Việt Nam cũng chịu những tác động không nhỏ.
Một ví dụ cụ thể, trong năm tài chính 2020, theo thông tin được Bộ Tài
chính đưa ra trong báo cáo kết quả tổng hợp, phân tích báo cáo tài chính năm 2020
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có 14.108 doanh nghiệp
FDI, chiếm 56% tổng số doanh nghiệp FDI đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
báo lỗ. Có những doanh nghiệp FDI được cho là kinh doanh thuận lợi vẫn báo lỗ.
Công ty Airpay và Công ty Shopee là hai doanh nghiệp FDI có doanh thu
tăng mạnh trong năm 2020, mức tăng doanh thu của cả hai doanh nghiệp này là
2.964 tỉ đồng, đóng góp 58% tăng trưởng doanh thu của ngành. Tuy doanh thu
tăng cao, quy mô vốn đầu tư lớn (Công ty Shopee) và có sự mở rộng về quy mô
(Công ty Airpay), nhưng hai doanh nghiệp FDI này vẫn báo lỗ, trong đó Công ty
~ 11 ~
Shopee bị lỗ mất vốn, mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước hạn chế. Số nộp
ngân sách nhà nước của hai doanh nghiệp này lần lượt đạt khoảng 67 tỉ đồng và
48 tỉ đồng. Từ thực tế này, Bộ Tài chính đánh giá: "Việc thu hút doanh nghiệp
FDI có quy mô vốn lớn chưa hẳn là đã có đóng góp tích cực hơn vào nguồn thu
ngân sách nhà nước, cũng như tác động tích cực đối với các chỉ tiêu tài chính của
ngành".
Thực tế, không ít dự án sử dụng vốn ODA có hiệu quả kinh tế thấp, không
có khả năng thu hồi vốn, dẫn đến khó khăn trong việc bố trí nguồn vốn để trả nợ
nước ngoài, làm tăng nợ quốc gia. Tình trạng giải ngân chậm, sử dụng vốn không
đúng mục đích làm thất thoát, lãng phí nguồn vốn ODA khá phổ biến. Nhiều dự
án chậm tiến độ, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể như dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông sử dụng vốn vay ODA của
Trung Quốc với tổng mức đầu tư ban đầu 8.770 tỷ đồng (gần 553 triệu USD), sau
đó “đội vốn” lên tới 18.002 tỷ đồng (hơn 868 triệu USD) trong đó vốn vay là
13.867 tỷ đồng, vốn đối ứng từ phía Việt Nam là 4.134 tỷ đồng. Đây là dự án từng
III. Ví dụ
Đường sắt đô thị Hà Nội là hệ thống được vận hành bởi Công ty Đường
sắt Hà Nội (Hanoi Metro Company – HMC), bao gồm 8 tuyến đường sắt đô thị
với tổng chiều dài khoảng 318 km, và 3 tuyến tàu điện một ray. Đây là hệ thống
đường sắt đô thị trên cao đầu tiên tại Việt Nam.
Hai tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng là tuyến số 2A (đoạn Cát Linh
– Hà Đông), và tuyến số 3 (đoạn Nhổn – Ga Hà Nội). Tính tới tháng 11 năm 2021,
~ 12 ~
Tuyến số 2A sau 8 lần điều chỉnh tiến độ dự án, đã chính thức đi vào khai thác
thương mại vào ngày 6 tháng 11 năm 2021. Trong khi đó, Tuyến số 3 đoạn Nhổn
– Ga Hà Nội dự kiến sẽ khai thác thương mại đoạn tuyến trên cao vào cuối năm
2023 và toàn tuyến năm 2027-2029. Quá trình xây dựng hai tuyến đường sắt gặp
nhiều khó khăn về tài chính, vỡ tiến độ cũng như tai nạn xây dựng.
Hiện nay, dự án đã chính thức đi vào hoạt động từ năm 2021, tuy nhiên từ
khi quá trình xây dựng bắt đầu đã có những tác động về cả mặt tiêu cực lẫn tích
Về nguồn vốn nước ngoài, có thể thấy nhiều dự án sử dụng vốn ODA không
hiệu quả kinh tế thấp, không có khả năng thu hồi vốn, dẫn đến khó khăn trong
việc bố trí nguồn để trả nợ nước ngoài, làm tăng gánh nặng nợ quốc gia. Tình
trạng giải ngân chậm, sử dụng không đúng mục đích làm thất thoát, lãng phí nguồn
Bị phụ thuộc nhiều vào nước ngoài về cả mặt kinh tế cũng như là kỹ thuật
Việc vay vốn Trung Quốc trước mắt giải quyết được vấn đề vốn đầu tư
nhưng lại có những ràng buộc, bất lợi cho Việt Nam. Dự án được khởi công xây
dựng vào tháng 10 năm 2011 và chủ thầu là người Trung Quốc với tổng mức đầu
tư hơn 868 triệu USD (18.002 tỷ VND), trong đó phần vốn vay Trung
Quốc chiếm gần 70% (hơn 13.867 tỷ VND) và phần còn lại là vốn đối ứng từ
Thời điểm đó, Bộ Giao thông vận tải mới ban hành một số quy định về tiêu
chuẩn, quản lý khai thác, còn tiêu chuẩn thiết kế, thiết bị thì chưa có. Dù là đầu tư
dự án ở Việt Nam, nhưng Trung Quốc lại chiếm lợi thế về tiềm lực kinh tế. Bên
cạnh đó tổng thầu được phê duyệt thiết kế kỹ thuật do mình làm. Tư vấn giám sát
~ 13 ~
dự án cũng là một đơn vị Trung Quốc và đơn vị này cũng đứng ra phê duyệt bản
vẽ thi công từ 2015 – 2016. Trong quá trình thực hiện chỉ mới áp dụng các tiêu
chuẩn Việt Nam đã có như là tiêu chuẩn về bê tông, xi măng còn lại những cái
khác là vẫn áp dụng theo tiêu chuẩn của Trung Quốc. Cũng theo lãnh đạo Ban
quản lý dự án, toàn bộ lực lượng kỹ thuật từ phía Trung Quốc có nhân sự vừa
tham gia dự án, có mặt tại hiện trường với mục đích vừa tham gia đào tạo, vừa
Bên cạnh đó, năng lực quản lý điều hành của Tổng thầu còn hạn chế khi
lực lượng mỏng, thiếu kinh nghiệm dẫn đến công tác thiết kế, thi công, lập hồ sơ
nghiệm thu thanh toán, hoàn công... rất chậm trễ, thiếu khoa học.
Kết luận của Kiểm toán Nhà nước về dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông
cũng cho thấy, Bộ Giao thông vận tải (chủ đầu tư dự án) đã dự toán một số hạng
mục công việc xây lắp, mua sắm vật tư, thiết bị áp dụng chưa phù hợp quy định
của pháp luật Việt Nam về quản lý định mức, hợp đồng EPC làm tăng giá trị dự
toán các hạng mục công trình.
tháng 10/2017, tuy nhiên Tổng thầu EPC Trung Quốc là Công ty Hữu hạn Tập
đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc đã đưa ra đề xuất với chủ đầu tư (Bộ GTVT)
lùi thời gian chạy kỹ thuật dự án đến đầu tháng 9/2018 (chậm thêm 11 tháng),
vận hành khai thác thương mại vào tháng 11/2018. Đây là lần thứ 6 dự án bị lùi
tiến độ hoàn thành. Dự án bị chậm, đồng nghĩa với việc Chính phủ đang phải trả
Quá trình giải ngân gặp khó khăn, gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn
~ 14 ~
Thừa nhận về nguồn vốn giải ngân là nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng
đến tiến độ thi công của dự án, theo lãnh đạo Ban quản lý dự án đường sắt, kể từ
đầu tháng 12/2016, công tác giải ngân của khoản vay ưu đãi bên mua 250 triệu
USD (khoảng 5.650 tỷ đồng) liên tục gặp vướng mắc do kế hoạch vốn nước ngoài
trong năm 2016 cho dự án bị hết, phải chờ kế hoạch vốn của năm 2017.
Trong khi đó, Hiệp định vay bổ sung 250,6 triệu USD cho dự án mặc dù đã
được ký kết từ 11/5/2017 nhưng lại chưa thể giải ngân do các bên vẫn chưa thống
nhất được ý kiến pháp lý, là điều kiện để khoản vay có hiệu lực.
Việc thanh toán của Tổng thầu cho các nhà thầu phụ cũng rất chậm trễ dẫn đến
các nhà thầu phụ thiếu vốn thi công và nh trạng các nhà thầu phụ thiếu niềm tin
vào Tổng thầu do Tổng thầu không giải quyết một cách thấu đáo, hợp lý các vướng
mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng thầu phụ dẫn đến không chỉ đạo được các
nhà thầu phụ phối hợp thực hiện công tác thi công, lập và hoàn thiện hồ sơ hoàn
công. Kết quả là việc đưa tuyến đường sắt trên cao vào vận hành cũng bị chậm
tiến độ.
Quá trình thực hiện chậm tiến độ gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi
trường
Trong quá trình thực hiện dự án, nhiều lần nhà thầu phải chỉnh sửa lại thiết kế
so với bản vẽ ban đầu, các nguyên liệu cũng có sự tăng lên nhiều hơn so với dự
kiến ban đầu, phần là để thay thế cho những đoạn công trình phải phá đi xây lại
và phần khác là để đáp ứng cho những thiết kế bổ sung thêm. Việc này gây lãng
Bên cạnh đó, quá trình xây dựng thả ra rác chủ yếu là vôi vữa, bê tông, bao bì,
vật liệu xây dựng từ công trường đã qua sử dụng. Các xe tải chở vật liệu xây dựng,
quá trình phá dỡ, đào, san lấp, vận chuyển vật tư và tập trung nhiều thiết bị thi
~ 15 ~
công có sử dụng động cơ diezen công suất cao đã phát thải khí độc hại như SO2,
NOx, CO… ra môi trường. Phía dưới đường sắt trên cao lại trở thành bãi rác để
những người thiếu ý thức đổ phế thải vật liệu xây dựng. Trong khi quá trình này
kéo dài thời gian hơn dự kiến nhiều năm gây ra nhiều hậu quả xấu mà khó lường
trước được, không chỉ tác động xấu đến cảnh quan môi trường và chất lượng môi
trường mà còn có những biến đổi xấu gây ảnh tới sức khỏe con người.
Tổng dự án có mức đầu tư hơn 18 nghìn tỷ đồng nếu chỉ từ nguồn ngân
sách nhà nước sẽ không thể có đủ. Vì nguồn ngân sách nhà nước không chỉ chia
cho một đia phương mà là tất cả các địa phương trên cả nước.
Theo tính toán của ADB (2012), mỗi năm Việt Nam cần khoảng 10,4 tỷ
USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn 2016 – 2020, nhu cầu vốn cho các
Trong khi đó, khả năng đáp ứng nhu cầu đáp ứng của nguồn ngân sách và nguồn
vốn có nguồn gốc ngân sách (như trái phiếu chính phủ, vốn ODA) chỉ khoảng
28%, còn nếu theo hướng dẫn xây dựng kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016 –
2020 thì nguồn vốn này chỉ đáp ứng được 7% nhu cầu.
Làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước
Là dự án đường sắt đô thị đầu tiên ở Việt Nam với nhiều những quy chuẩn,
tiêu chuẩn về khoa học và công nghệ mới mà ở các phương tiện truyền thống
trước đó chưa có. Tuyến Cát Linh – Hà Đông có hạ tầng đường ray thép đi cao
trên cầu cạn, sử dụng công nghệ hàn liền đảm bảo tốc độ chạy tàu cao, chống ồn,
chống rung và lắp đạt các thiết bị chống trật bánh tàu. Tuyến sử dụng công nghệ
~ 16 ~
lấy điện từ đường ray thứ 3, theo tiêu chuẩn an toàn thế giới. Cùng với đó, tuyến
tàu còn được trang bị hệ thống thông tin liên lạc qua sử dụng công nghệ truyền
dẫn qua cáp sợi quang, hệ thống thông tin vô tuyến sử dụng ăng ten thực hiện phủ
sóng từ trường mạnh và lắp đtặ hệ thống camera giám sát hiện đại.
Trong tương lai, tiêu chuẩn công nghệ của dự án đường sắt Cát Linh – Hà
Đông sẽ đảm bảo được việc kết nối công nghệ với các mạng lưới đường sắt đô thị
khác của Hà Nội trong tương lai. Và dựa vào đó để đưa ra những quy định về quy
chuẩn, quy định về kỹ thuật cho các dự án về sau được hoàn thiện hơn.
Phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam nói chung và nâng tầm hệ thống giao
Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ mới sẽ cho thấy
thành phố đang phát triển, hiện đại, đời sống nhân dân được cải thiện và làm tăng
mĩ quan đô thị. Hơn nữa, vấn đề giao thông và kết nối là một trong những yếu tố
quan trọng nhất trong việc lựa chọn quy hoạch các khu đô thị, nhà ở và thương
mại, nhất là trong thời điểm các đô thị Hà Nội phải đối diện với bài toán về gia
tăng dân số, ách tắc giao thông và ô nhiễm không khí.
Với dự án tàu chạy trên cao sẽ giúp nâng cấp hệ thống giao thông đường
bộ mà không gây mất đi nhiều diện tích đất đô thị. Cùng với đó là làm giảm gánh
nặng cho hệ thống giao thông đường bộ, làm giảm tình trạng tắc nghẽn gia thông,
đồng thời làm điểm kết nối với nhiều với nhiều phương tiện khác, rút ngắn thời
gian và khoảng cách hơn trước khi có sự xuất hiện của loại phương tiện này.
Theo thống kê tính đến năm 2022, tàu Cát Linh – Hà Đông đã phục vụ gần
7,3 triệu lượt khách, trong đó, hơn 10.000 người dùng vé tháng sau một năm vận
~ 17 ~
hành chính thức. Từ sau khi hoạt động, đã có 66.584 lượt tàu chạy, đem về doanh
Ngoài ra, các dự án quy hoạch xung quanh khu vực lân cận khiến giá trị
của các bất động sản tăng lên, do người tiêu dùng sẵn sàng chi trả nhiều hơn
để có sự thuận tiện
Đem lại cho người dân một loại phương tiện giao thông công cộng mới
Hiện nay, thay vì chờ xe bus hay là đi xe máy trong khói bụi, tắc đường,
chưa kể còn có những nguy hiểm khác thì tàu điện đã trở thành phương tiện đi
làm chính của nhiều người dân, sự ổn định và nhanh chóng trong quá trình tàu
Thông tin về lưu lượng khách đi tàu hằng ngày, lãnh đạo Metro cho hay:
Khi mới vận hành, vào các ngày cuối tuần, tàu vẫn chuyển trên dưới 30 nghìn
hành khách. Hiện tại, con số này từ 22-24 nghìn khách hàng. Tuy nhiên vào các
ngày làm việc, lượng hành khách dao động khoảng 35000-36000. Lượng khách
đi trải nghiệm tàu chiếm phần ít, đa số là những người đi học, đi làm và có nhu
cầu thực sự.
Việc vận hành tuyến đường sắt đô thì này đã giúp thay đổi thói quen đi lại
và từng bước tạo dựng văn hóa giao thông theo hướng văn minh và hiện đại.
Dự án phương tiện giao thông công cộng góp phần bảo vệ môi trường
Đây là tuyến đường sắt thân thiện với môi trường, được vận hành bằng điện
thay vì bằng xăng dầu như các phương tiện giao thông truyền thống. Theo tính
toán, cứ 1 triệu chuyến đi chuyển từ phương tiện các nhân sang sử dụng đường
sắt đô thị thì sẽ giảm 487.000 giờ tham gia giao thông trên đường, đem lại hiệu
quả kinh tế trên 30 tỷ đồng. Hông thế, việc này cũng giảm được khoảng 100 tấn
~ 18 ~
phát thải thải độc hại như SO2, CO2, Nox,.. gây ô nhiễm không khí và giảm tình
Phương thức vận tải công cộng chủ đạo ở các đô thị lớn trên thế giới đã
chính chính thức hiện diện ngay ở Thủ đô Hà Nội. Vẻ đẹp hiện đại của các nhà ga
và toa tàu, sự liên tưởng đến bối cảnh trong các bộ phim của Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản,... cùng với những đặc tính ưu việt của tuyến đường sắt Cát Linh-
Hà Đông không chỉ thu hút những người dân trong thủ đô Hà Nội, mà còn tạo nên
sức hút đặc biệt đối với khách du lịch từ các địa phương cả trong và ngoài nước
Theo thống kê mới nhất, tàu Cát Linh - Hà Đông đã phục vụ gần 7,3 triệu
lượt khách, trong đó hơn 10.000 người dùng vé tháng sau một năm vận hành chính
thức. Từ khi đi vào hoạt động, đã có 66.584 lượt tàu chạy, đem về doanh thu
Cũng đánh giá cao những mặt tích cực mà hệ thống đường sắt trên cao
mang lại, bạn đọc Peter Tran chia sẻ: "Với số nhân công vận hành theo các
phương tiện thông tin đại chúng đưa tin là khoảng 700 người, mức lương và các
chi phí bảo hiểm, tính trung bình 8 triệu đồng một người. Như vậy, tổng chi phí
riêng cho nhân sự của tàu Cát Linh - Hà Đông đã khoảng 67 tỷ đồng một năm.
Cộng với các chi phí khác như khấu hao, tiền điện, tiền bảo trì bảo dưỡng, thay
thế... có khi lên đến cả trăm tỷ đồng. Nghĩa là xét về mặt kinh tế, dự án này không
có lợi trực tiếp, nhưng nếu xét về mặt xã hội và kinh tế chung thì chúng ta có thể
thể nhận thấy rõ hơn rằng đầu tư vừa có những tác động tích cực vừa có
~ 19 ~
những tác động tiêu cực đến nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam
nói riêng.
1. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo Điều tra Lao động - Việc làm quý I/2019,
Hà Nội;
2. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội quý IV/2020 và
3. Ngân hàng Thế giới (2020), Báo cáo Phát triển Việt Nam 2019: Việt Nam - Kết
nối vì Phát triển và Thịnh vượng chung, Washington DC;
4. Lê Trình (2013), Các kết quả, hạn chế chính của đánh giá môi trường chiến
lược, đánh giá tác động môi trường và kiến nghị tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa các
nội dung này trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, Hà Nội;
5. Vũ Thị Minh Ngọc và Lê Quang Linh (2020), Tác động của FDI đến môi trường
tại các tỉnh khu vực phía Bắc, Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, Số 119 Tháng
01/2020, Hà Nội;
Assessment of the influence of FDI on the economic growth of the host country:
evidence from Kazakhstan, In E3S Web of Conferences (Vol. 159, p. 06007),
EDP Sciences.
7. Giá nhà chung cư Hà Nội lại lập ngưỡng mới - Báo Tiền Phong (baomoi.com)
Tăng suốt thập kỷ qua, giá bất động sản còn tăng trong năm tới? | VTV.VN
Từ việc Coca-Cola bị truy thu 821 tỷ đồng thuế: Chặn các “ông lớn” FDI né thuế
| VTV.VN
~ 20 ~
8. Vốn ODA là gì? 05 điều cần biết về vốn ODA (thuvienphapluat.vn)
9. Vốn ODA là gì? Ưu và nhược điểm của loại vốn này (dnse.com.vn)
10. Việt Nam – Nhật Bản ký 03 thỏa thuận vay vốn trị giá gần 61 tỷ Yên
(dangcongsan.vn)
12. Vai trò của thị trường bất động sản trong nền kinh tế và giải pháp ổn định thị
trường tại Việt Nam - Tạp chí Tài chính (tapchitaichinh.vn)
13. Vì sao quá nửa số doanh nghiệp FDI đầu tư tại Việt Nam báo lỗ? - Tuổi Trẻ
Online (tuoitre.vn)
14. Bài học từ dự án Cát Linh - Hà Đông và kinh nghiệm sử dụng vốn ODA trong
tương lai | VOV.VN
15. Tàu Cát Linh - Hà Đông đem lại lợi ích ngoài doanh thu (vnexpress)
16. Đường sắt Cát Linh - Hà Đông là bài học lớn để thực hiện các dự án tiếp
theo (qdnd.vn)
~ 21 ~