You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

-----------

TIỂU LUẬN

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT


VÀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT

Đề tài: 3

Phân tích chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát
nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân
2014. Từ đó phân tích để chứng minh “Viện Kiểm sát nhân dân là một
thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước”

Họ và tên: Phạm Thanh Sơn


MSSV: 193801010262
SBD: TKS000204

Hà Nội - 2021
MỤC LỤC

MỤC LỤC ............................................................................................................ 2

ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 3

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 4

1. CHỨC NĂNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN .............................................................................................. 4

1.1. Khái niệm ................................................................................................ 4

1.2. Nội dung .................................................................................................. 4

1.3. Đặc điểm.................................................................................................. 7

1.4. Mục đích.................................................................................................. 8

2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN LÀ THIẾT CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC ............................................................................................. 9

2.1 Thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước là gì? .................................... 9

2.2. Ý nghĩa của kiểm soát quyền lực nhà nước ....................................... 10

2.3. Chứng minh: Viện Kiểm sát nhân dân là thiết chế kiểm soát quyền
lực nhà nước ................................................................................................ 11

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP ............................................................ 15

3.1. Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp ở Việt Nam hiện nay .......................................................................... 15

3.2. Kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trong thời
gian tới .......................................................................................................... 17

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 18

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 19

2
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”, nhà triết học người Pháp
Montesquieu đã nhận định rằng: “Bất kỳ ai nắm giữ quyền lực đều có xu hướng tất yếu
là lạm dụng quyền lực và người đó sẽ luôn tiếp tục xu hướng này cho đến khi bị giới
hạn”. Để từ đó ông đi tới một kết luận bất hủ: “Để cho người ta không lạm quyền thì lẽ
tất yếu của vạn vật là quyền lực phải bị kiềm chế bởi quyền lực”. Như vậy, kiểm soát
quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền: “Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền
lực tự có của Nhà nước mà quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân
giao quyền. Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại
giao cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự
nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền
lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với
chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển sang số ít của một nhóm
người hoặc của một người) mà C. Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực
nhà nước. Xuất phát từ các lý do đó, mà mỗi nhà nước lại có những cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước khác nhau. Đối với các quốc gia theo hệ thống xã hội chủ nghĩa, thì
Viện Kiểm sát (VKS) là một cơ quan kiểm soát quyền lực nhà nước đối với nhánh quyền
lực tư pháp. Ở Việt Nam, trong hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành đã ghi nhận
cơ chế giám sát của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) đối với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp 2013: “VKS thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Vậy ngành Kiểm sát nhân dân kiểm soát
quyền lực nhà nước bằng cách nào? Và có đặc thù gì để được lựa chọn trở thành cơ quan
kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp? Xuất phát từ những lý do đó, em
đã lựa chọn đề tài số 3: Phân tích chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
Kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2014.
Từ đó phân tích để chứng minh “Viện Kiểm sát nhân dân là một thiết chế kiểm soát
quyền lực nhà nước” làm bài tiểu luận. Mặc dù đã cố gắng, song vì sự hiểu biết còn
hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô để
bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Em xin cảm ơn!

3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. CHỨC NĂNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm

Chức năng của VKSND là phương diện hoạt động chính, chủ yếu, đặc thù của
VKSND, được quy định trong Hiến pháp, có nội dung thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp. Đối với lĩnh vực tư pháp thì hoạt động tư pháp chính là hoạt động
của Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án và Cơ quan Thi hành án trong việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án và giải quyết các quan hệ pháp luật khác,
bao gồm: Hoạt động điều tra; Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp; Hoạt động xét xử; Hoạt động thi hành án và các hoạt động của các cơ quan nhà
nước được giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo trình tự
thủ tục tố tụng. Như vậy, dựa trên các quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức
VKSND 2014 và các văn bản khác có liên quan có thể rút ra khái niệm: Kiểm sát hoạt
động tư pháp là một trong các hình thức thực hiện quyền lực của nhà nước được giao
cho VKSND thực hiện để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm các hoạt động tư pháp
được thực hiện đúng quy định của pháp luật; quyền con người, các quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức cá nhân không bị luật hạn chế đều được tôn trọng và bảo vệ; bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; mọi
vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm
minh theo đúng quy định của pháp luật [1].

Như vậy, đối tượng của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp chính là các quyết
định và hành vi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tố
tụng tư pháp. Còn phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp được xác định tại khoản 1
Điều 4 Luật Tổ chức VKSND 2014.

1.2. Nội dung

Nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Theo quy định tại

4
khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 và khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức VKSND 2014, chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát bao gồm:

(1) Kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Đây là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, Cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; đồng thời kiểm sát điều tra vụ án hình sự, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra, thu thập, xác minh chứng cứ có đúng với trình
tự quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự hay không? Nếu có bất kỳ vi phạm nào làm
xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật khách quan thì sẽ thuộc vào trường hợp vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc thực hiện chức năng
này được quy định cụ thể tại Điều 13 và Điều 15 Luật Tổ chức VKSND 2014. Mục đích
nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được điều tra, khởi tố, xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm. Đồng thời đảm bảo rằng, không làm oan người vô tội, không để
người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị
xâm phạm tính mạng, tài sản và nhân phẩm một cách trái pháp luật, đảm bảo việc điều
tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật. Đối với hoạt động xét
xử, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án, đảm
bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. VKSND có quyền kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án khi
có căn cứ theo quy định của pháp luật.

(2) Trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động.

Tham gia các phiên họp, phiên tòa; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự bằng các hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, kiểm sát hoạt động
tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Trong trường hợp, có căn
cứ vi phạm thủ tục tố tụng, VKS có thẩm quyền kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết
định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá
5
nhân thực hiện hoạt động tố tụng. Ngoài ra, còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.

(3) Việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

Kiểm sát hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án hình sự, dân sự, hành
chính, bằng các hoạt động kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án,
quyết định của Tòa án. Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án cùng
cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cán bộ quản giáo, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên
quan. Kiểm sát hồ sơ về thi hành án. Đồng thời tham gia phiên họp, phát biểu quan điểm
của Viện kiểm sát nhân dân về việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản
thu nộp ngân sách nhà nước. Ngoài ra, VKS còn kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án; Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án
dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, Cán bộ quản giáo cơ quan, tổ chức và cá
nhân liên quan đến việc thi hành án thực hiện các việc sau đây: Ra quyết định thi hành
án đúng quy định của pháp luật; Thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp
luật; Tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
Cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án.

Đối với giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. VKS trực tiếp kiểm
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tại cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật. Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết
khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
động tư pháp của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ
sơ, tài liệu có liên quan cho VKS. Đồng thời có thẩm quyền ban hành kết luận kiểm sát,
thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

(4) Các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, VKSND kiểm sát hoạt động tư pháp thông các hoạt động bằng hành vi,
quyết định tố tụng sau: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp
theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc
thẩm quyền và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu để VKSND kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; Trực tiếp kiểm

6
sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp; Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư
pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm
pháp luật và tội phạm; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật;
kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi,
quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động
tư pháp; Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát
hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.

Từ các nội dung trên, có thể hình dung được, để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp, VKSND có thể trực tiếp tiến hành cuộc kiểm sát tại một số cơ quan, tổ
chức theo luật định; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan
đến hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền. Hoạt động kiểm sát của VKSND có thể tác
động đến hoạt động tư pháp của các cơ quan có liên quan dưới hình thức yêu cầu, kiến
nghị như: kiến nghị khắc phục; xử lý vi phạm,... hoặc bằng hình thức kháng nghị như:
kháng nghị bản án, kháng nghị quyết định của Tòa án hoặc kháng nghị hành vi, quyết
định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư
pháp [1]. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp chính là một trong các hình thức kiểm
soát quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, được Nhà nước giao cho VKSND thực
hiện.

1.3. Đặc điểm

Theo pháp luật hiện hành thì kiểm tra và giám sát việc tuân theo pháp luật nhằm
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất là nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội.
Trong đó cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện chức năng giám sát; Cơ quan thanh tra
Nhà nước, thanh tra ngành thực hiện chức năng thanh - kiểm tra; Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên thì giám sát, phản biện xã hội. Nhưng với chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp của mình, VKSND mang những đặc điểm riêng biệt, được
thể hiện qua các yếu tố sau: Một là, khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
7
pháp luật đối với các hoạt động tư pháp, VKSND chỉ chịu trách nhiệm trước cơ quan
quyền lực nhà nước – Quốc hội; Độc lập trong khuôn khổ pháp luật khi thực hiện chức
năng đó. Hai là, VKSND chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp,
trong khi đó, phạm vi đối tượng kiểm tra và giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội rộng hơn nhiều. Ví dụ, cơ quan quyền lực nhà nước có chức năng giám
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của tất cả cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
(kể cả bao gồm với cơ quan kiểm sát). Ba là, khi thực hiện chức năng kiểm sát, VKSND
chủ yếu chỉ xem xét khi có dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật, đã xác định nguyên
nhân và hậu của của hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, VKSND không có thẩm
quyền giải quyết trực tiếp xử lý về hành chính mà chỉ dừng lại ở quyền yêu cầu, kháng
nghị, kiến nghị để các cơ quan quản lý xử lý về hành chính theo thẩm quyền. Chỉ khi
phát hiện có yếu tố cấu thành tội phạm thì VKSND có quyền khởi tố, truy tố và luận tội
bằng bản cáo trạng trước Tòa án. Bốn là, VKSND là cơ quan nhà nước duy nhất có
quyền truy tố kẻ phạm pháp ra trước Tòa án và giữ ghế ủy viên công tố nhà nước tại
phiên tòa [3].

1.4. Mục đích

Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Thể chế hóa quy định này,
tại khoản 2 Điều 4 Luật Tổ chức VKSND 2014 đã nêu rõ 04 mục đích quan trọng trong
kiểm soát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân: (1) Bảo đảm việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình
sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các
hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; (2) Bảo đảm việc
bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án
phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; (3) Bảo đảm bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; (4) Bảo đảm

8
mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời,
nghiêm minh.

2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN LÀ THIẾT CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC

Trước khi đi vào chứng minh nhận định trên, hướng phân tích của cá nhân sẽ tập
trung theo các ý sau.

2.1 Thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước là gì?

Để làm rõ nhận định trên, trước tiên ta cần hiểu thế nào là “thiết chế kiểm soát
quyền lực nhà nước”. Dựa trên các bài viết của tác giả Trần Ngọc Đường về “Kiểm soát
quyền lực nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”;
tác giả Phạm Hồng Phong về “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam” có thể hiểu một cách
khái quát: thiết chế là “hệ thống tổ chức bộ máy” được thiết lập trên cơ sở thể chế quy
định của Hiến pháp, pháp luật để thực hiện một hoạt động nào đó của xã hội; là hệ
thống các cơ quan quyền lực, các đại diện cho cộng đồng, đảm bảo những hoạt động
đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cộng đồng và cá nhân.

Kiểm soát mang nghĩa là quá trình vận dụng các cơ chế và phương pháp nhằm bảo
đảm cho một tổ chức hay cá nhân hoạt động đúng với mục đích, yêu cầu đã đặt ra [4].

Quyền lực nhà nước chính là quyền lực chính trị được thực hiện bằng bộ máy nhà
nước là cơ quan, là công cụ của quyền lực chính trị. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà
nước theo nghĩa rộng chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước sao
cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa
hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định
mà dựa vào đó, Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái
của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền
lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt
được hiệu quả cao nhất [6].

Như vậy, có thể khái quát lại: Thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước là hệ thống
tổ chức bộ máy được thiết lập trên cơ sở thể chế quy định của Hiến pháp và pháp luật,

9
gồm các hoạt động có tính chất xem xét, đánh giá, bắt buộc hay yêu cầu thực hiện các
quyết định, quy định với mục đích ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi,
những quyết định của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước trong tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực thi
đúng mục đích, có hiệu lực, hiệu quả theo Hiến pháp và pháp luật, kiểm soát mối quan
hệ tương tác giữa các chủ thể liên quan, bảo đảm quyền lực luôn trong vòng trật tự.

2.2. Ý nghĩa của kiểm soát quyền lực nhà nước

Vì một quy luật chung là quyền lực luôn có xu hướng bị tha hóa, do đó kiểm soát
quyền lực nhà nước là điều tất yếu của mỗi quốc gia. Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần
pháp luật” nổi tiếng của mình, tác giả Montesquieu đã nhận định rằng: Bất kỳ ai nắm
giữ quyền lực đều có xu hướng tất yếu là lạm dụng quyền lực và người đó sẽ luôn tiếp
tục xu hướng này cho đến khi bị giới hạn. Từ đó ông đi tới một kết luận bất hủ: “Để cho
người ta không lạm quyền thì lẽ tất yếu của vạn vật là quyền lực phải bị kiềm chế bởi
quyền lực” [5]. Do đó, tầm quan trọng của kiểm soát quyền lực nhà nước thể hiện ở
những mặt cơ bản sau:

Một là, kiểm soát tốt giúp hạn chế sự lạm quyền của các chủ thể mang quyền lực
nhà nước, bảo đảm cho bộ máy chính quyền thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được
giao và các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Hai là, việc kiểm soát đối với hành vi, quyết định của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong bộ máy nhà nước nhằm phòng ngừa, phát hiện các vi phạm pháp luật và xác
định các biện pháp xử lý khi có vi phạm. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước là một
phương pháp để bảo đảm pháp chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền.

Ba là, bảo đảm kỷ luật trong quản lý hệ thống các cơ quan nhà nước. Chính vì
không bảo đảm kỷ luật sẽ dẫn tới tình trạng vô tổ chức, tùy tiện trong hoạt động, dẫn tới
làm giảm hiệu lực, hiệu quả. Với bộ máy nhà nước, việc bảo đảm kỷ cương, kỷ luật còn
là tiền để để bảo đảm pháp chế.

Bốn là, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Hoạt động của Nhà nước được định
hướng trực tiếp bởi mục tiêu chính trị. Bộ máy nhà nước thực hiện nghiệm vụ duy trì
trật tự xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển và là công cụ quan trọng để thực hiện hóa các
định hướng chính trị. Chính vì vậy, kiểm soát được tiến hành để bảo đảm đường lối, chủ
10
trương và quan điểm chính trị của Đảng được triển khai thực hiện đầy đủ, cũng như bảo
đảm sự phát triển của xã hội theo đúng định hướng [4].

Năm là, bảo đảm hiệu quả trong hoạt động cơ quan nhà nước, bởi hoạt động kiểm
soát không chỉ nhằm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước và các cán bộ,
công chức được trao quyền tiến hành đúng pháp luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân và tổ chức trong xã hội, mà còn hướng tới việc nâng cao hiệu quả
hoạt động hành chính nhà nước bằng việc sử dụng các nguồn lực công kinh tế nhất, tiết
kiệm nhất để tránh lãng phí.

2.3. Chứng minh: Viện Kiểm sát nhân dân là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà
nước

Trong khoa học pháp lý Việt Nam đương đại, khi bàn về các cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước, thì quan điểm được thừa nhận chung là để có thể kiểm soát được
thực sự (chứ không phải chỉ hình thức), thì cơ chế đó phải đạt được ít nhất hai đòi hỏi
(tiêu chí) bắt buộc là:

(1) Bản thân cơ chế đấy phải có đủ quyền năng để kiểm soát được các cơ cấu quyền
lực khác, chứ không thể nằm chung trong cùng một cơ cấu quyền lực mà nó cần phải
kiểm soát cả về mặt pháp lý và trên thực tế, vì nếu nằm chung trong cùng một cơ cấu
quyền lực (là bộ phận hợp thành của cơ cấu quyền lực nào đấy) thì hoạt động kiểm soát
đối với cơ cấu quyền lực đó hoàn toàn là vô nghĩa vì chẳng khác nào “vừa đá bóng, vừa
thổi còi”;

(2) Ở mức độ nào đó, cơ chế kiểm soát đấy phải có sự độc lập nhất định (không bị
phụ thuộc hoặc bị chỉ đạo) đối với cơ cấu mà nó cần kiểm soát [7]. Như vậy, cùng với
việc phân tích về thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại Tiểu mục 2.1, hướng chứng
minh nhận định: VKSND là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, sẽ đi phân tích và
làm rõ các tiêu chí trên, bằng các luận điểm sau:

Thứ nhất, Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp là một trong hai chức năng của VKSND, điều này đã được cụ thể hóa trong Luật
Tổ chức VKSND 2014 với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
mà Quốc hội giao cho VKSND để giám sát nhánh quyền lực tư pháp. Như vậy, có thể
thấy, ngay tại tên gọi quy định về chức năng của VKSND cũng đã thể hiện đầy đủ và
11
trọn vẹn mục đích là kiểm soát quyền lực nhà nước đối với lĩnh vực tư pháp. Khoản 3
Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”. Theo đó, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt
động của nhà nước, tuy nhiên có sự phân công, phân cấp trong tổ chức, thực hiện quyền
lực nhà nước. Thông qua quy định của Hiến pháp và các văn bản luật, Quốc hội giao
cho nhiều cơ quan nhà nước giám sát việc thực hiện quyền lực bằng hoạt động theo dõi,
kiểm tra và yêu cầu các cơ quan đó báo cáo tình hình giám sát trước Quốc hội. Để giám
sát, kiểm soát quyền lực một cách cụ thể, Quốc hội giao cho cơ quan nhà nước có chức
năng, nhiệm vụ mang tính chuyên môn cao, như các Ủy ban chuyên trách của Quốc hội,
Kiểm toán nhà nước, hay chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, đây là
dạng hoạt động giám sát mang tính chuyên môn [8].

Như vậy, về mặt lý luận, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND bắt
nguồn từ chức năng giám sát của Quốc hội, là cánh tay nối dài của Quốc hội để giám sát
hoạt động trong nhánh quyền tư pháp.

Thứ hai, như đã phân tích ở trên, cơ chế kiểm soát quyền lực đấy phải có đủ quyền
năng để kiểm soát được các cơ cấu quyền lực khác, chứ không thể nằm chung trong
cùng một cơ cấu quyền lực mà nó cần phải kiểm soát cả về mặt pháp lý và trên thực tế.
Cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp của VKSND hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu trên. Bởi
lẽ, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có sự độc lập về tổ chức so
với các cơ quan bị kiểm sát - đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp (Cơ quan điều
tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án, Cơ quan
thi hành án). Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức VKSND 2014, VKS
là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức theo ngành dọc, không
nằm trong hay không bao trùm các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp
(Tòa án) và các cơ quan tham gia trong hoạt động tư pháp như: Cơ quan điều tra, Cơ
quan thi hành án,... Chính vì không bị phụ thuộc hoặc bị chỉ đạo đối với cơ cấu mà nó
cần kiểm soát nên VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp độc lập, bảo
đảm cho hoạt động giám sát được khách quan, trung thực, hiệu lực và hiệu quả.

Ngoài ra, trong hoạt động tư pháp, VKSND là cơ quan duy nhất tham gia toàn bộ
các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành, do đó, VKSND có đầy đủ
12
thẩm quyền tham gia vào tất cả các lĩnh vực (tố tụng tư pháp hình sự, dân sự, hành chính,
thi hành án...) trong hoạt động tư pháp. Đây là tiền đề và giá trị quan trọng để đảm bảo
cho VKSND có khả năng giám sát hiệu quả nhất toàn bộ quá trình tố tụng và các lĩnh
vực khác trong hoạt động tư pháp, cũng là để giám sát toàn bộ quá trình thực hiện quyền
tư pháp. Bên cạnh đó, với bộ máy tổ chức và hoạt động của VKSND tương đối hoàn
thiện để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; hoạt động kiểm sát hoạt động
tư pháp sẽ mang tính chuyên môn sâu, hoạt động thường xuyên, liên tục, có nhiều chức
danh tư pháp theo ngạch. Qua đó, VKSND có đủ cơ sở để phát hiện vi phạm trong hoạt
động tư pháp và là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho hoạt động giám sát có tính chuyên
nghiệp và hiệu quả cao [8].

Như vậy, với vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước, không thuộc hệ thống cơ quan
tư pháp – Tòa án, đã tạo tiền đề cho VKSND thực hiện sứ mệnh kiểm soát quyền lực
nhà nước trong lĩnh vực này.

Thứ ba, với quyền năng được Hiến pháp ghi nhận và được cụ thể hóa bởi Luật,
hoạt động của VKSND mang quyền lực nhà nước có tính chất xem xét, đánh giá, theo
dõi với mục đích ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, quyết định của cơ
quan, cá nhân trong lĩnh vực tư pháp là: Điều tra viên, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư
ký Tòa án,... và các cá nhân tham gia tố tụng. Theo khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức
VKSND 2014, nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm 09 công tác cụ thể:
(1) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
(2) Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; (3) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố; (4) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình
sự; (5) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; (6) Kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; (7) Kiểm sát việc thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính; (8) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền; (9) Kiểm sát
hoạt động tương trợ tư pháp. Việc kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của các cơ quan, cá nhân, tổ chức trong hoạt động tư pháp như kiểm sát các bản án,
quyết định của Tòa án; tham gia phiên tòa, phiên họp; kiểm sát việc thi hành án của cơ

13
quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới; kiểm sát hồ sơ thi hành án; kiểm sát hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thi hành án; kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,
thi hành án hình sự, dân sự, hành chính, tạm giữ, tạm giam...

Ngoài ra, theo quy tại khoản 3 Điều 163 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Cơ quan
điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra VKS quân sự trung ương còn có thẩm quyền
điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy
định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, VKS, cơ
quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Qua công tác kiểm
sát này, nếu phát hiện vi phạm pháp luật, VKSND phải kịp thời kiến nghị, kháng nghị,
yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục vi phạm để đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và cá
nhân. Đây là một phương thức kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan tham gia thực
hiện quyền tư pháp, mà VKSND là chủ thể kiểm soát nhằm đảm bảo cho hoạt động của
các cơ quan tư pháp được thực hiện một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh, hạn chế việc lạm
quyền từ phía các cơ quan này [8].

Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một phương thức kiểm soát, giám sát hiệu
quả, có vai trò quan trọng trong phòng ngừa vi phạm pháp luật, khả năng lạm quyền
trong hoạt động tư pháp, điều này cho thấy chẳng có lý do gì có thể phủ định chức năng
kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp của VKSND.

Thứ tư, nhìn vào thực tế qua hơn 60 năm thành lập, từ khi Hiến pháp 1959 được
thông qua ngày 31/12/1959 và lần đầu tiên chế định VKS được ghi nhận trong Hiến
pháp tại Điều 105: “...kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng
Chính phủ, cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước ở địa
phương”. Và Lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 20/LCT công bố
Luật tổ chức VKSND vào ngày 26 tháng 7 năm 1960 đã đánh dấu một mốc son trong
quá trình hình thành và phát triển của VKSND – ngày thành lập ngành Kiểm sát nhân
dân. Trải qua 61 năm xây dựng và trưởng thành, ngành KSND đã không ngừng phấn
đấu, vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Ðảng, Nhà nước
và Nhân dân giao phó. Đặc biệt trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, qua
14
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án tham nhũng, chức vụ đặc biệt lớn với
hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng; đối tượng bị khởi tố từng giữ những chức vụ
cao trong Ðảng và trong bộ máy Nhà nước; được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng đánh giá cao, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng. Công tác
điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đối với các hành vi xâm phạm hoạt động
tư pháp và tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp được tăng cường theo hướng hoạt động
chuyên nghiệp, hiệu quả. Thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác kiểm sát hoạt động tư pháp, nhất là công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành
chính, dân sự, kinh doanh thương mại. Những đóng góp to lớn đó, đã được Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tại Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm của
ngành Kiểm sát: “... Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, ngành KSND nước ta
đã có nhiều đóng góp quan trọng vào công tác đấu tranh bảo vệ tính nghiêm minh của
pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần cùng toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta làm
nên những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước...” [9].

Như vậy có thể thấy, ý nghĩa về thực tiễn của chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKSND là đáng ghi nhận, có vai trò quan trọng, là chỗ dựa đáng tin cậy của
Quốc hội trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp vừa là cơ chế
kiểm soát từ bên ngoài, độc lập với đối tượng giám sát, nhưng lại có khả năng bao quát
và giám sát được toàn bộ, từng hoạt động cụ thể trong quá trình thực hiện hoạt động tư
pháp, nhằm đảm bảo Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh, hạn chế sai
phạm, vi phạm của các cơ quan tham gia thực hiện hoạt động tư pháp.

Qua việc phân tích 04 luận điểm trên, có đầy đủ cơ sở khẳng định: VKSND là một
thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là một chức năng hiến định của VKSND,
cũng là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

3.1. Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp ở Việt
Nam hiện nay

15
Các hoạt động trong lĩnh vực tư pháp có tính nhạy cảm cao, vì vậy được pháp luật
quy định rất chặt chẽ nhằm bảo đảm chủ thể khó có thể thực hiện hành vi trái luật, xâm
hại các đối tượng được bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp lộng
quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền hạn được giao trong thực thi công vụ. Lộng quyền
trong lĩnh vực tư pháp được biểu hiện dưới các hành vi, như: cơ quan điều tra cấp dưới,
điều tra viên lấn át quyền của cấp trên; thẩm phán, hội thẩm nhân dân lấn át quyền của
nhau; thư ký tòa án lấn át quyền của thẩm phán (trong khi hòa giải, xét xử);… Lạm
quyền trong lĩnh vực tư pháp không nhằm “lấn át” mà là thực thi “lạm” quyền của cán
bộ, công chức, đơn vị, cơ quan khác. Biểu hiện lạm quyền có thể thực hiện công khai
hoặc ngấm ngầm dưới các hành vi, như: cơ quan điều tra cấp dưới, điều tra viên lạm thi
quyền của cấp trên hoặc lạm thi nhiệm vụ được phân công cho điều tra viên khác; cơ
quan kiểm sát cấp dưới, kiểm sát viên lạm thi quyền của cấp trên hoặc của kiểm sát viên
khác; … để phục vụ ý đồ riêng hay trục lợi. Lợi dụng quyền lực trong lĩnh vực tư
pháp thường được thực hiện dưới các hành vi như: lợi dụng chức trách của điều tra viên,
cán bộ điều tra để thực hiện một số nhiệm vụ điều tra trái pháp luật nhằm đạt được lợi
ích riêng; lợi dụng chức trách của kiểm sát viên để thực hiện các hành vi trái pháp luật
trong công tác thuộc lĩnh vực kiểm sát, như xử lý tin tố giác tội phạm, phê chuẩn việc
khởi tố, bắt giam, điều tra, tha, truy tố trước pháp luật bị can, bị cáo;… [10].

Biểu hiện của các hành vi trên được thể hiện qua số liệu thống kê báo cáo của Viện
trưởng Lê Minh Trí thể hiện trong nhiệm kỳ 05 năm (2016-2021), Cơ quan điều tra
VKSND Tối cao đã thụ lý gần 776 nguồn tin về tội phạm (tăng hơn 53%) và giải quyết
được gần 95% trong số này. Cơ quan này cũng đã khởi tố mới nhiều vụ án dư luận xã
hội đặc biệt quan tâm, như các vụ nhận hối lộ xảy ra tại Công an TP Thanh Hóa (Thanh
Hóa), Công an huyện Giồng Trôm (Bến Tre), Công an TP Dĩ An (Bình Dương) và Tòa
án huyện Đan Phượng (Hà Nội). Ngoài ra, cơ quan này đã khởi tố các vụ án dùng nhục
hình xảy ra tại nhà tạm giữ Công an TP Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận), tại Trại
giam Long Hòa và Trại giam Thanh Xuân (Bộ Công an); các vụ tham ô tài sản xảy ra
tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình (Hà Nội), Chi cục Thi hành án dân sự quận
Phong Điền (Cần Thơ)... Cơ quan này cũng thụ lý điều tra 192 vụ/198 bị can (tăng 28%
số vụ, 42% số bị can) và giải quyết được gần 94%. Trong số này có 121 vụ/142 bị can
về tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp; 49 vụ/52 bị can xâm phạm hoạt động
tư pháp; 22 vụ/bị can về tội phạm khác. Cũng theo báo cáo, Công an và Thi hành án dân
16
sự là hai ngành có số vụ án và số bị can nhiều nhất: 69 vụ/76 bị can; kế đó là tòa án 30
vụ/26 bị can; ngành khác 11 vụ/7 bị can. Riêng ngành kiểm sát đã xử lý kỷ luật 196 công
chức vi phạm, trong đó khiển trách 104 người, cảnh cáo 36 người, buộc thôi việc 9
người... Đồng thời có sáu công chức trong ngành đã bị khởi tố, xử lý hình sự [11]. Điều
này đã làm ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thực thi đường lối,
chính sách, pháp luật, tạo cơ hội, điều kiện vi phạm pháp luật, tham nhũng, “lợi ích
nhóm”. Đồng thời, gây mất đoàn kết trong nội bộ cơ quan, đơn vị, địa phương, bộ,
ngành, tổ chức, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị
của đất nước.

3.2. Kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trong thời gian tới

Với sứ mệnh là cơ quan kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, do
đó trong thời gian tới ngành Kiểm sát cần:

Thứ nhất, định hướng hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Bằng
việc tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đồng thời đẩy mạnh yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong hoạt động tư pháp. Bởi lẽ việc tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước nói chung và quyền lực tư pháp nói riêng là một nhu cầu tất
yếu khách quan. Đây cũng là cơ sở lý luận và pháp luật quan trọng để VKSND thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKSND phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, hiệu quả,
thống nhất với hoạt động của VKSND và các cơ quan khác trong hoạt động tư pháp.

Thứ hai, hoàn thiện về phương thức kiểm sát hoạt động tư pháp: Công tác kiểm
sát trong từng khâu công tác, từng lĩnh vực cần phải được xác định rõ các phương thức,
cách thức thực hiện. Theo đó, cần đảm bảo hoạt động kiểm sát phải được tiến hành hết
sức chặt chẽ, đúng quy trình; cần bổ sung quy định áp dụng các phương pháp trực tiếp
kiểm sát, tham gia phiên tòa, phiên họp, trực tiếp tham gia vào hoạt động tư pháp khác
trong các công tác kiểm sát, để tăng cường phát hiện vi phạm trong các hoạt động. Cùng
với đó, cần quy định cụ thể về căn cứ, điều kiện áp dụng phương thức kiểm sát trực tiếp
hoặc kiểm sát qua bản án, quyết định.

17
Thứ ba, điều quan trọng là mỗi cán bộ Kiểm sát viên phải ý thức được sứ mệnh
của mình để không ngừng phấn đấu học tập, nghiên cứu nắm vững quan điểm chủ trương
đường lối của đảng, có bản lĩnh vững vàng, kiên quyết dám đấu tranh bảo vệ công lý,
bảo vệ lẽ phải; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công
tác, nắm vững kiến thức pháp luật, lấy pháp luật làm căn cứ để thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết
công việc, có kỹ năng xử lý tình huống, có khả năng giao tiếp, ứng xử, tranh tụng tại
phiên tòa; phải khách quan, công tâm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Trên đây là một số ý kiến của cá nhân dựa trên sự tìm hiểu từ các nguồn tài liệu
để góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trong thời gian tới, cũng như để khẳng
định vị thế, vai trò của VKSND – cơ quan kiểm soát quyền lực nhà nước.

KẾT LUẬN

Qua việc tìm hiểu và phân tích về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành
Kiểm sát nhân dân, ta đã thấy được những hoạt động cũng như vai trò của VKSND trong
kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây chính là sứ mệnh cao cả mà Đảng và nhân dân giao
phó cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện chức trách kiểm soát quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực tư pháp, để góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền là lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Để kiểm soát quyền lực nhà nước của VKSND đạt hiệu quả, bên cạnh việc
hoàn thiện về phương thức kiểm sát hoạt động tư pháp, thì điều quan trọng là mỗi cán
bộ kiểm sát viên phải ý thức được sứ mệnh của mình, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên quyết dám đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải; không ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác, nắm vững kiến thức pháp luật như lời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ ngành Kiểm sát: Công minh – Chính trực – Khách
quan – Thận Trọng – Khiêm tốn.

18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách, giáo trình, văn bản pháp luật


1. Quốc hội (2018) Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội;
2. Thủ tướng Chính phủ (1959), Nghị định số 256-TTg Quy định nhiệm vụ và tổ chức
của Viện Công tố;
3. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân;
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020;
5. Trần Ngọc Đường, Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trang thông tin Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội,
https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/669, truy cập ngày 29/11/2021;
6. Lê Ngọc Duy (2021), Hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Báo điện tử Kiểm sát Online,
https://kiemsat.vn/hoan-thien-chuc-nang-kiem-sat-hoat-dong-tu-phap-cua-vksnd-theo-
tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang-62011.html, truy cập ngày 30/11/2021;
7. Bùi Mạnh Cường (2020), Vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân trong cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước hiện nay, Tạp chí điện tử Cộng sản,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-
/2018/817034/vai-tro-cua-vien-kiem-sat-nhan-dan-trong--co-che-kiem-soat-quyen-luc-
nha-nuoc-hien-nay.aspx, truy cập ngày 30/11/2021;
8. Phạm Minh Anh, Đỗ Văn Quân (2021), Thiết chế chính trị - pháp luật về kiểm soát
quyền lực trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam, Tạp chí điện tử
Cộng sản, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-
/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/thiet-che-chinh-tri-phap-luat-ve-kiem-soat-
quyen-luc-trong-dieu-kien-mot-dang-duy-nhat-cam-quyen-o-viet-nam, truy cập ngày
30/11/2021;
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

Trích dẫn

[1] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trình Lý luận chung về Viện Kiểm
sát và công tác kiểm sát, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội;

19
[2] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội;
[4] Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên), (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà
nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội;
[5] Đặng Minh Tuấn, Vũ Công Giao, Đoàn Đức Lương, Lê Thị Nga (Đồng chủ biên),
(2020), Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội;
[6] Trần Ngọc Đường, Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trang thông tin điện tử Trường Đại học Kiểm sát
Hà Nội, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/669, truy cập ngày
29/11/2021;
[7] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng hệ thống
Viện kiểm sát ở Việt Nam trong bối cảnh sửa đổi Hiến pháp hiện nay, Trang thông tin
điện tử Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-
tiet/119/535, truy cập ngày 29/11/2021;
[8] Lê Ngọc Duy (2021), Một số vấn đề lý luận về chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân, Báo điện tử Kiểm sát Online,
https://kiemsat.vn/mot-so-van-de-ly-luan-ve-chuc-nang-kiem-sat-hoat-dong-tu-phap-
cua-vien-kiem-sat-nhan-dan-62705.html, truy cập ngày 29/11/2021;
[9] Trương Văn Nhẫn (2020), Ngành kiểm sát nhân dân với những đóng góp to lớn
vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Trang thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Đắc Nông, http://vksdaknong.gov.vn/Vien-Kiem-Sat-Nhan-Dan-Tinh-Dak-
Nong/78/1122/18626/120350/Thong-tin-tuyen-truyen/Nganh-kiem-sat-nhan-dan-voi-
nhung-dong-gop-to-lon-vao-su-nghiep-xay-dung-Chu-nghia-xa-hoi.html, truy cập
ngày 30/11/2021;
[10] Vũ Văn Phúc, Hà Hữu Đức (2020), Kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến
pháp Việt Nam, Tạp chí điện tử Tổ chức nhà nước,
https://tcnn.vn/news/detail/48116/Kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-theo-Hienphap-Viet-
Nam.html, truy cập ngày 30/11/2021;
[11] Đức Minh (2021), 5 năm, xử lý 170 vụ án trong lĩnh vực tư pháp, Báo điện tử
Pháp luật, https://plo.vn/phap-luat/5-nam-xu-ly-170-vu-an-trong-linh-vuc-tu-phap-
969245.html, truy cập ngày 30/11/2021.

20

You might also like