Professional Documents
Culture Documents
KHOA SƯ PHẠM
CHƯƠNG TRÌNH TÂM LÝ HỌC
TIỂU LUẬN
Đề tài
2. Phân loại.............................................................................................................1
5.3 Y học..............................................................................................................6
5.3.1 Xoa bóp.......................................................................................................6
6. Mô tả trường hợp................................................................................................8
KẾT LUẬN...............................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................12
A. MỞ ĐẦU
Trầm cảm là một bệnh thuộc tâm thần học đặc trưng bởi sự rối loạn khí sắc. Bệnh do
hoạt động của não bộ bị rối loạn gây nên bởi một yếu tố tâm lý nhất định tạo nên những
thay đổi thất thường trong ý nghĩ, hành động, tác phong, hành vi của con người. Trầm cảm
là căn nguyên của hơn 50% số vụ tự tử đặc biệt trầm cảm đang có xu hướng gia tăng ở giới
trẻ.
Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WTO) đến năm 2020, trầm cảm là căn bệnh thứ
2 làm tổn hại đến sức khoẻ con người chỉ sau tim mạch. Ở Việt Nam, con số bệnh nhân
trầm cảm đang có xu hướng gia tăng, nữ giới tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm cao hơn nam giới.
Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WTO) đến năm 2020, trầm cảm là căn bệnh thứ 2
làm tổn hại đến sức khoẻ con người chỉ sau tim mạch. Ở Việt Nam, con số bệnh nhân trầm
cảm đang có xu hướng gia tăng, nữ giới tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm cao hơn nam giới. Theo
thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), khoảng 8 - 29% trẻ em đang trong
lứa tuổi thanh thiếu niên ở Việt Nam mắc các vấn đề về sức khoẻ tâm thần. Ước tính Việt
Nam có ít nhất 3 triệu thanh, thiếu niên có các vấn đề về sức khoẻ tâm lý, tâm thần.
(Vinmec, n.d.) Tuy nhiên số người được trợ giúp y tế và điều trị kịp thời chiếm con số
không nhỏ. Một bộ phận khác lại tìm cách sử dụng các chất kích thích như: rượu, bia,
thuốc lá, đặc biệt là ma tuý để "tự chữa", che lấp các triệu chứng của rối loạn tâm thần, dẫn
đến bệnh tình ngày một trầm trọng, có thể gây nguy hại cho cộng đồng, cho xã hội
Nguyên nhân thường gặp ở giới trẻ mắc trầm cảm là do những khó khăn trong học tập
và hoàn cảnh gia đình. Sức ép của phụ huynh đối với con cái trong học hành, thi cử làm
các em rơi vào tình trạng hoang mang, sợ hãi và không kiềm chế được cảm xúc của bản
thân. Bên cạnh đó, một số trẻ bị tác động từ hoàn cảnh gia đình như: cha mẹ ly hôn, những
mâu thuẫn của cha mẹ, cuộc sống gia đình kém hoà thuận…. cũng là những lý do dẫn đến
bệnh trầm cảm ở trẻ. Ngoài ra, tốc độ đô thị hoá nhanh đến chóng mặt của xã hội cũng
khiến áp lực công việc gia tăng, công việc căng thẳng, cảm giác cô đơn, số người phụ
thuộc vào mạng xã hội, số người bị stress gia tăng khiến trầm cảm ngày càng trẻ hoá ....
Vì vậy, tôi quyết định lựa chọn "Trầm cảm ở trẻ em" làm đề tài tiểu luận để tìm hiểu
rõ hơn lý do và nguyên nhân gây ra những rối nhiễu tâm thần ở lứa tuổi trẻ trẻ em và trẻ
thanh thiếu niên.
B. NỘI DUNG
1. Định nghĩa
Hiện nay có rất nhiều tài liệu định nghĩa về Trầm cảm theo nhiều khía cạnh đề cập khác
nhau như:
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WTO) thì “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến,
đặc trưng bởi sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy tội lỗi hoặc tự hạ
thấp giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém tập trung” (Phương)
Hay:
Theo bài 20 của QĐ 2058/QĐ-BYT 2020 về tài liệu Hướng dẫn chẩn đoán điều trị rối
loạn tâm thần thường gặp thì “Trầm cảm là một trạng thái bệnh lý của cảm xúc, biểu hiện
bằng quá trình ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ
10, trầm cảm điển hình thường được biểu hiện bằng khí sắc trầm, mất mọi quan tâm hay
thích thú, giảm năng lượng dẫn tới tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động, tồn tại trong
khoảng thời gian ít nhất là 2 tuần. Ngoài ra, còn có các triệu chứng khác như giảm sự tập
trung chú ý, giảm tính tự trọng và lòng tự tin, ý tưởng bị tội và không xứng đáng, nhìn vào
tương lai ảm đạm bi quan, ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ,
ăn ít ngon miệng...” (tế, 2020)
…..
Vậy Trầm cảm ở trẻ em có thể được định nghĩa như sau: “Trầm cảm ở trẻ em là hội
chứng rối loạn tâm lý phổ biến và thường gặp, có tính chất lan toả và suy giảm chức năng
của các giai đoạn hưng cảm làm cho trẻ cảm thấy tự ti, khó hòa nhập với xã hội kèm theo
đó là các rối loạn ăn uống, giấc ngủ…, tự hạ thấp giá trị của bản thân. Ở mức độ nghiêm
trọng, trầm cảm có thể khiến trẻ có xu hướng suy nghĩ về cái chết, tự tử”
2. Phân loại
2.1 Trầm cảm ẩn (Trầm cảm che giấu - Marked Depression)
Những triệu chứng của trầm cảm che giấu (trầm cảm ẩn) biểu hiện bệnh bằng các triệu
chứng cơ thể nhưng không phát hiện ra tổn thương.
2.2 Trầm cảm có loạn thần (trầm cảm Paranoid)
Đây là một thể trầm cảm nặng. Cùng với những triệu chứng của trầm cảm đã mô tả ở
trên bệnh nhân còn có hoang tưởng và ảo giác kèm theo. Bệnh nhân thường có hoang
tưởng nghi bệnh và hoang tưởng tự buộc tội.
2.3 Trầm cảm ở người cao tuổi
Ở người cao tuổi trầm cảm có thể kèm theo rối loạn nhận thức như rối loạn chú ý, rối
loạn trí nhớ. Bệnh nhân thường quên nhiều, đặc biệt là quên những sự việc mới xảy ra
(giảm trí nhớ gần) còn gọi là mất trí giả. Khi bệnh nhân được điều trị thì trí nhớ hồi phục
hoàn toàn. Bệnh nhân có thể có hoang tưởng nghi bệnh, họ cho rằng mình bị bệnh nặng,
bệnh nan y như ung thư, xơ gan, bệnh tim mạch nặng…
2.4 Trầm cảm ở trẻ vị thành niên
Theo tổ chức Y tế thế giới (WTO) lứa tuổi vị thành niên là từ 10 - 19 tuổi (Phương) các
triệu chứng trầm cảm ở người vị thành niên cũng giống như người lớn nhưng có một vài
điểm khác biệt sau:
Cảm xúc thường bị kích thích, vẻ mặt cáu giận. Khả năng kiềm chế cảm xúc rất thấp
vì vậy rất dễ nổi nóng trước một kích thích không vừa ý dù là rất nhỏ.
Mất ngủ nhiều, có thể thức trắng đêm nên bệnh nhân dễ lạm dụng game, internet.
Người bệnh thường lang thang trên mạng suốt đêm.
Mệt mỏi thường xuyên.
Khó tập trung chú ý, trí nhớ kém vì vậy học hành thường giảm sút.
Hay có ý định và hành vi tự sát.
2.5 Trầm cảm sau sinh
Xảy ra ở phụ nữ sau khi sinh trong vòng khoảng 6 tuần. Theo DSM-IV cũng như ICD-
10, rối loạn tâm thần sau sinh không được ghi thành một chương riêng biệt và không có
tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng. Hiện nay người ta vẫn chưa thống nhất được có nên xếp trầm
cảm sau sinh là một rối loạn riêng biệt hay không. Trong khi một số tác giả cho rằng rối
loạn tâm thần sau sinh là một nhóm các rối loạn có liên quan đặc biệt đến việc mang thai
và sinh đẻ nên cần tồn tại một chẩn đoán riêng biệt.
Biểu hiện:
Rối loạn Cảm xúc: Khí sắc trầm kéo dài, cảm giác không xứng đáng, thất bại,
bất lực, tuyệt vọng, kiệt sức, trống rỗng, buồn rầu, chực khóc, cảm giác tội lỗi, hối hận, vô
giá trị. Lẫn lộn, lo âu, hoảng sợ. Sợ đứa trẻ, sợ mất trẻ. Sợ ở một mình, sợ đi ra ngoài
Rối loạn hành vi: Mất quan tâm thích thú trong các hoạt động thường ngày.
Giảm sinh lực và động cơ. Ngại giao tiếp xã hội. Ít chăm sóc bản thân. Không có khả năng
xử lý các công việc thường ngày
Rối loạn suy nghĩ: Suy nghĩ kém minh mẫn, không thể quyết định việc gì. Kém
tập trung chú ý, giảm trí nhớ. Trốn tránh mọi thứ. Sợ bị chồng bỏ rơi. Lo lắng về sự tổn hại
hoặc cái chết của chồng, con. Có ý nghĩ về tự sát.
Suy sụp về thể chất: Mệt mỏi, mất ngủ hoặc ngủ nhiều hay có ác mộng, ăn
không ngon miệng, gầy sút cân.
3. Những biểu hiện thường gặp
* WEBSITE
1. https://tamanhhospital.vn/dau-hieu-tram-cam/
2. https://www.bvbnd.vn/wp-content/uploads/2022/09/Phac-do-Tam-than_2020.pdf
3. https://drive.google.com/drive/u/1/folders/168bwE6LzQhPbPttKxXdMcun7dCwbUPKZ