You are on page 1of 18

MỤC LỤC:

A. PHẦN CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI THAM GIA DIỄN PHIÊN HỌP CỦA HỘI
ĐỒNG TRỌNG TÀI (LỰA CHỌN BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN)..........................1
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp.......................................................................................1
2. Dự thảo:.......................................................................................................................2
2.1. Phần trình bày yêu cầu khởi kiện của Nguyên Đơn:.............................................2
2.2. Ý kiến của Nguyên Đơn với yêu cầu kiện lại của Bị Đơn và tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho các ý kiến/yêu cầu của Nguyên Đơn là có căn cứ và hợp pháp...........3
3. Xây dựng kế hoạch hỏi tại phiên họp (lựa chọn hỏi bảo vệ cho Nguyên Đơn).......6
4. Soạn thảo bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng (lựa chọn bảo vệ cho
Nguyên Đơn)...................................................................................................................8
B. NHẬN XÉT PHẦN THỰC HÀNH PHIÊN HỌP CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
12
1. Vai diễn Luật sư:....................................................................................................12
1.1. Luật sư Nguyên đơn............................................................................................12
Tác phong:.....................................................................................................................12
Nội dung trình bày:.......................................................................................................12
Nội dung phần hỏi và tranh luận:..................................................................................12
1.2. Luật sư Bị đơn:....................................................................................................13
Tác phong:.....................................................................................................................13
Nội dung trình bày:.......................................................................................................13
Nội dung phần hỏi và tranh luận:..................................................................................14
2. Vai diễn đại diện Nguyên đơn và Bị đơn:..............................................................14
2.1. Đại diện Nguyên đơn:.........................................................................................14
2.2. Đại diện Bị đơn:..................................................................................................15
3. Vai diễn Hội đồng trọng tài:...................................................................................15
A. PHẦN CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI THAM GIA DIỄN PHIÊN HỌP CỦA HỘI
ĐỒNG TRỌNG TÀI (LỰA CHỌN BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN)
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp

Từ ngày 01/10/2021 đến ngày 05/10/2021 công ty TNHH Y (Gọi tắt là Công ty Y)
và công ty cổ phần thương mại dịch vụ X (Gọi tắt là Công ty X) đã thống nhất ký kết
Hợp đồng thuê máy số 2709 X-Y về việc thuê thiết bị thi công. Với nội dung sau:
- Đối tượng Hợp đồng: 01 xe cẩu bánh xích công suất 750 tấn, hiệu Liebherr, sản
xuất tại Đức với thông số cần là 140m.
- Thời gian thuê: 03 tháng với đơn giá là 6.900.000.000 đồng/ tháng. Tổng giá trị
hợp đồng đã bao gồm VAT 10% là 24.310.000.000 đồng.
- Công Ty X đặt cọc 01 tháng tiền thuê (chưa bao gồm thuế VAT) tương đương
6.900.000.000 đồng ngay sau khi ký Hợp đồng và chi phí vận chuyển 1 đầu tương
đương 1.400.000.000 đồng ngay khi toàn bộ thiết bị của Công ty Y tập kết đầy đủ.
Quá trình thực hiện Hợp đồng: Công ty X đã đặt cọc tổng giá trị: 6.900.000.000
đồng như sau:
01/10/2021: Công ty X đặt cọc lần 1 là 1.000.000.000 đồng.
03/10/2021: Công ty X đặt cọc lần 2 là 3.140.000.000 đồng.
05/10/2021: Công ty X đặt cọc lần 3 là 2.760.000.000 đồng.
07/10/2021: Công ty Y thực hiện bàn giao thiết bị theo thỏa thuận và có 18 biên
bản bàn giao thiết bị đầy đủ có đủ chữ ký của bên giao và bên nhận. Đối với người vận
chuyển chỉ có 16/18 biên bản bàn giao có chữ ký.
05/10/2021 - 28/10/2021: Công ty Y tiến hành lắp đặt máy. Theo biên bản hiện
trường ngày 28/10/2021 có nội dung kết luận: Công ty Y xác nhận chưa tiến hành
kiểm định chất lượng và an toàn thiết bị đầu tiên, chưa bàn giao các giấy tờ chứng
nhận của cẩu.
19/10/2021 - 24/10//2021: Công ty Y nhắn tin liên hệ với ông tiến (Công ty X) gửi
hồ sơ kiểm định viên để đăng ký vào khu vực dự án.
24/10/2022: nhân viên kiểm định của công ty Y đã vào đến công trường và phải cố
gắng thuyết phục công ty X cho phép kiểm định máy trong ngày. Đại diện Công ty Y
đã gửi các hồ sồ sơ liên quan đến thợ lái, thiết bị cẩu và giấy kiểm định an toàn của
bên thứ 3 cho ông Đức - Công ty X là chỉ huy trưởng công trường, và ông Lê Việt
Tiến - Giám đốc đại diện pháp luật của Công ty X trong nhóm chat Zalo chung phục
vụ trao đổi công việc của hai bên.
30/10/2021: Công ty X phát hành công văn số 3010/2021/HPT về việc vi phạm
cam kết và bồi thường thiệt hại, trong đó có nội dung: "Trong vòng 48 giờ, không
muộn hơn 10 giờ sáng ngày 01/11/2021 Y bắt buộc phải đưa cẩu ra khỏi vị trí cẩu
đang đậu".
Ông Tiến có nhắn tin: "Dự án có khả năng tạm dừng 15 đến 30 ngày".
01/11/2021: Công ty X phát hành công văn số 0111/2021/X phát hành công văn
về việc tháo dỡ, di dời cầu ra khỏi vị trí trả lại mặt bằng sự án và thanh toán tiền cọc và
1
bồi thường thiệt hại, trong đó có nội dung: "Bằng công văn này, Công ty X gửi đến quý
công ty thông báo như sau: vào 15h00 hôm này ngày 01/11/2021 chúng tôi sẽ tự mình
tháo dỡ, di dời cẩu ra khỏi dự án để trả lại mặt bằng cho chủ đầu tư".
19/11/2021: Công ty Y gửi công văn cho chủ đầu tư trình bày sự việc liên quan
đến thiết bị cẩu 750 tấn giữa hai bên, đồng thời nêu ra hai hướng xử lý: (i) giảm giá
thuê cho Công ty X, xác nhận bàn giao thiết bị và thời gian thuê cẩu; hoặc (ii) Công ty
Y tiến hành rút cẩu do Công ty X không tuân thủ quy định trong Hợp đồng.
20/11/2021: Công ty Y tiếp tục gửi email thông báo Công ty X xác nhận một trong
hai phương án mà Công ty Y đã nêu.
23/11/2021: Các bên làm việc với nhau tại trụ sở Công an xã Trạm Hành, Công ty
Y xin phép bắt đầu từ ngày 23/11/2021 tháo cẩu để đưa ra khỏi công trường.
26/11/2021: Công ty X gửi công văn số 2611/HPT nội dung về việc tuân thủ hợp
đồng, chấp nhận phương án giảm giá và đề nghị Công ty Y cung cấp và thực hiện thủ
tục bàn giao thiết bị, văn bản ủy quyền không muộn hơn ngày 28/11/2021. Công ty X
nhấn mạnh nhân sự luôn có mặt 24/24 để hỗ trợ cho việc tiến hành bàn giao thiết bị và
xác nhận các vấn đề liên quan.
29/11/2021: Công ty X gửi công văn số 2911/2021/HPT thông báo về việc đình
chỉ Hợp đồng cho Công ty Y.
30/11/2021: Công ty Y gửi công văn số 10221/Y thông báo việc tiến hành tháo dỡ
thiết bị và thu hồi thiết bị vào ngày 01/12/2021, do không nhận được sự hợp tác từ
Công ty X, đồng thời yêu cầu Công ty X thanh toán tiền vận chuyển lượt về theo quy
định của Hợp đồng.
25/04/2022: Công ty X gửi đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo gửi đến Trung
tâm trọng tài Quốc tế ABC - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh

2. Dự thảo:

2.1. Phần trình bày yêu cầu khởi kiện của Nguyên Đơn:

Cơ sở khởi kiện:
(i). Căn cứ về thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Điều 5 Hợp đồng, các
bên đã thỏa thuận: "Trường hợp những tranh chấp không hòa giải được thì hai
bên thống nhất đưa ra Trung tâm trọng tài Quốc tế ABC để phán quyết. Phán
quyết của Trung tâm trọng tài Quốc tế ABC sẽ có hiệu lực thi hành đối với các
bên. Bên thua kiện sẽ phải chịu mọi chi phí trong quá trình tố tụng".
(ii). Căn cứ Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài Thương mại 2010, tranh chấp
được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài;
(iii). Căn cứ theo Điều 1, Điều 2, Điều 3 và Điều 4.2 của Hợp đồng; Khoản 2
và Khoản 3 Điều 292, Điều 302 và Điều 303 Luật Thương Mại 2005; Điều 279,
Điều 328 và Điều 477 BLDS 2015, Bị Đơn có nghĩa vụ giao cho Nguyên Đơn đầy
đủ thiết bị đúng thông số và theo cam kết trong Hợp đồng. Tuy nhiên, Bị Đơn trên
thực tế đã không thực hiện các nghĩa vụ này, vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng đã
2
ký kết, cụ thể là giao thiết bị không đúng thông số theo cam kết tại Điều 1 Hợp
đồng;
(iv). Nguyên Đơn đã nỗ lực và chủ động áp dụng các biện pháp hợp lý để
hạn chế tổn thất nhưng việc Bị Đơn từ chối thực hiện hợp đồng đã gây thiệt hại rất
lớn về vật chất lẫn uy tín cho Nguyên Đơn, thậm chí Bị Đơn đã tự ý kéo xe cẩu ra
khỏi công trường. Điều này dẫn đến việc phát sinh thiệt hại, tổng thất thực tế, trực
tiếp và khoản lợi mà Nguyên Đơn đáng lẽ được hưởng nếu Bị Đơn không vi phạm
Hợp đồng tạm tính đến ngày 15/10/2021 là 10.000.000.000 đồng.
Chỉnh sửa, bổ sung yêu cầu của Nguyên Đơn: hoàn trả đầy đủ cho Nguyên
Đơn:
(i). Tiền đặt cọc cho thuê thiết bị mà Nguyên Đơn đã thanh toán cho Bị
Đơn, tương đương 6.900.000.000 đồng;
(ii). Cước vận chuyển một lượt mà Nguyên Đơn đã thanh toán cho bên vận
chuyển, tương đương 1.490.000.000 đồng;
(iii). Tiền lãi chậm trả: 830.255.000 đồng tạm tính đến ngày nộp Đơn khởi
kiện, tức ngày 25/04/2022 (gồm 696.900.000 đồng lãi chậm trả tính trên số tiền
đặt cọc thanh toán ngày 05/10/2021 và 133.355.000 đồng lãi chậm trả tạm tính
trên tiền cước vận chuyển thanh toán đủ ngày 27/10/2021) theo lãi suất chậm trả
0,05%/ngày quy định tại Điều 2.2 Hợp đồng;
(iv). Bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên Đơn tạm tính đến 15/10/2021,
tương ứng với 10.000.000.000 đồng theo quy định tại Điều 302, 303 Luật Thương
mại 2005 – đây là khoản phạt vi phạm theo hợp đồng đã ký với Chủ Đầu Tư và
các chi phí thuê thiết bị của các nhà cung cấp khác, cùng với chi phí thuê nhân
công;
(v). Phí luật sư là 2.400.000.000 đồng theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý.
2.2. Ý kiến của Nguyên Đơn với yêu cầu kiện lại của Bị Đơn và tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho các ý kiến/yêu cầu của Nguyên Đơn là có căn cứ và hợp pháp.

Ý kiến của Nguyên Đơn với yêu cầu kiện lại của Bị Đơn:
(i). Về việc yêu cầu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên Đơn
Tại Đơn tự bảo vệ và Đơn khởi kiện lại của Bị Đơn:
• Bị Đơn xác định ngày 06/10/2021 Bị Đơn mới liên hệ qua email cho
Nguyên Đơn, thông báo việc thiết bị đã được mang tới công trường, tuy nhiên,
căn cứ vào 18 Biên bản bàn giao thiết bị, có thể nhận thấy rằng, việc bàn giao
thiết bị được diễn ra từ ngày 05/10/2021 đến 08/10/2021 mới hoàn thành, tức là
đến 08/10/2021 toàn bộ thiết bị mới được Bị Đơn bàn giao đầy đủ cho Nguyên
Đơn. Trong khi đó, căn cứ vào các email thông báo từ Nguyên Đơn gửi cho Bị
Đơn vào các ngày 01/10/2021, 02/10/2021, 03/10/2021, Nguyên Đơn đã thông
báo cho Bị Đơn biết về thời hạn chậm nhất cho việc vận chuyển và lắp đặt xe cẩu
là không muộn hơn 05/10/2021.
3
• Bị Đơn chỉ căn cứ vào "một phần nội dung" Biên bản hiện trường ngày
28/10 rằng xe đến ngày 18/10/2021 đã dựng được cẩu với cầu hình 126m nên có
cơ sở để khẳng định Bị Đơn đã bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn và Nguyên
Đơn đã tiến hành lắp đặt để đưa vào sử dụng. Việc căn cứ như trên là vô cùng
phiến diện và cắt kéo câu chữ, làm sai sự thật bởi lẽ, nghĩa vụ của Bị Đơn là phải
bàn giao đầy đủ, thiết bị phải đạt đủ điều kiện kiểm định để đưa vào sử dụng.
Biên bản hiện trường ngày 28/10 nêu rõ rằng phía Bị Đơn xác nhận rằng "chưa
tiến hành kiểm định chất lượng và an toàn thiết bị lần đầu tiên, chưa bàn giao các
giấy tờ chứng nhận của cẩu LR 1750 cho công ty X" và "Công ty Y xác nhận cẩu
chưa sẵn sàng hoạt động tại công trường do chưa đủ điều kiện hoạt động". Như
vậy, chứng tỏ đến ngày 28/10/2021 (vượt quá 03 ngày theo tiến độ thực hiện lắp
đặt mà hai bên đã trao đổi qua email), Bị Đơn vẫn chưa tiến hành bàn giao thiết
bị và xe cẩu vẫn chưa đưa vào sử dụng tại công trường được.
• Bị Đơn cho rằng trong suốt quá trình vận chuyển và lắp đặt thiết bị tại
công trường, Nguyên Đơn không có bất kì một văn bản nào xác nhận việc Bị
Đơn bàn giao thiết bị thiếu và yêu cầu Y phải bàn giao các thiết bị còn thiếu.
Nhận định trên thể hiện sự thiếu trách nhiệm của Bị Đơn và không thiện chí thực
hiện Hợp đồng, bởi lẽ, ngay trong Hợp đồng ký kết giữa hai bên, không có một
điều khoản nào quy định về việc Nguyên Đơn có trách nhiệm thông báo cho Bị
Đơn khi bàn giao thiết bị có thiếu sót. Đồng thời, mục đích Nguyên Đơn ký kết
Hợp đồng với Bị Đơn là để thuê xe cẩu phục vụ cho việc thi công công trình,
không phải là để phục vụ cho mục đích mua bán hàng hóa, thiết bị. Đến cả việc
vận hành, sử dụng xe cẩu Nguyên Đơn đều phải hoạt động dưới sự giám sát của
thợ vận hành phía Bị Đơn thì việc buộc phải biết rõ các thành phần, bộ phận nào
còn thiếu trên xe cẩu không phải trách nhiệm của Nguyên Đơn. Mặt khác, theo
Hợp đồng ký kết giữa hai bên, Bị Đơn là phía phải có trách nhiệm trong việc bàn
giao đầy đủ và đảm bảo thiết bị đưa vào sử dụng đúng thời hạn cho Nguyên Đơn.
Bị Đơn buộc phải giao đầy đủ chứ không phải bị động và đổ lỗi cho Nguyên Đơn
về việc không thông báo Bị Đơn bàn giao thiếu thiết bị và yêu cầu Bị Đơn bàn
giao đủ.
• Bị Đơn cho rằng đã thực hiện nghĩa vụ bàn giao giấy tờ và Nguyên Đơn
đã biết rõ về thông số kỹ thuật cũng như chủ sở hữu của cẩu trục bánh xích và
xác định rằng Biên bản làm việc phần nội dungcung cấp hồ sơ và kiểm định Biên
bản này là không phù hợp. Việc Bị Đơn nhận định như trên là không hợp lý khi
mà Ông Đỗ Văn Nghĩa với chức vụ Lái cẩu 750 tấn và Ông Nguyễn Văn Tính –
chức vụ Quản lý đều là đại diện từ phía Bị Đơn cử lên công trường để thực hiện
công tác kiểm định.
• Bị Đơn xác định rằng theo Hợp đồng mà hai bên đã ký kết, Bị Đơn có
quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng do Nguyên Đơn vi phạm thời hạn thanh
toán cước vận chuyển. Bị Đơn xác định thời gian Nguyên Đơn phải thanh toán
cước vận chuyển bắt đầu tính từ 05/10/2021 đến 09/10/2021. Những nhận định
trên hoàn toàn không có căn cứ, bởi lẽ, vào 8 giờ sáng 05/10/2021 Bị Đơn mới
4
tiến hành vận chuyển thiết bị lên công trường của Nguyên Đơn, mặt khác, căn cứ
theo 18 Biên bản bàn giao, thì đến 08/10/2021 Bị Đơn mới thực hiện xong nghĩa
vụ tập kết toàn bộ thiết bị tại công trường của Nguyên Đơn. Đồng thời, theo Điều
2.3 Hợp đồng 2709 ký kết giữa các bên, thời hạn thanh toán cước vận chuyển
được tính ngay sau khi toàn bộ thiết bị của Bị Đơn được tập kết đầy đủ tại công
trường của Nguyên Đơn, vì vậy, việc Bị Đơn xác định ngày 05/10/2021 được
tính là ngày phát sinh nghĩa vụ thanh toán cước vận chuyển là không đúng như
thỏa thuận trong Hợp đồng 2709.
• Bị Đơn xác định đến ngày 23/11/2021 Nguyên Đơn vẫn chưa thanh
toán tiền thuê 01 tháng cho Bị Đơn, do vi phạm trên nên Bị Đơn có quyền rút
máy mà không gặp bất cứ sự cản trở nào từ Nguyên Đơn căn cứ theo Điều 2.3
Hợp đồng 2709. Nhận định trên của Bị Đơn là không có căn cứ, không tôn trọng,
tuân thủ thỏa thuận tại Hợp đồng. Đầu tiên cần làm rõ ràng, việc xác định thời
điểm bắt đầu tính tiền thuê được xác định kể từ khi thiết bị sẵn sàng hoạt động tại
công trường và hoàn tất thủ tục bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn. Trên thực tế,
cho tới khi Bị Đơn tháo dỡ xe cẩu vào ngày 01/12/2021, thì Nguyên Đơn vẫn
chưa nhận được bất kì hồ sơ tài liệu bàn giao nào và xe cẩu cũng chưa được đưa
vào sử dụng được một ngày nào. Thứ hai, việc Bị Đơn xác định rằng Nguyên
Đơn không tiếp tục lắp đặt thiết bị là do lỗi của Nguyên Đơn, dẫn đến vi phạm
nối tiếp vi phạm là sai lệch hoàn toàn, có dấu hiệu của hành vi chối bỏ trách
nhiệm, bởi lẽ, căn cứ vào Điều 4.2 Hợp đồng 2709, Bị Đơn có trách nhiệm bố trí
02 thợ vận hành để Nguyên Đơn có thể dễ dàng huy động vào bất kỳ thời gian
nào trong ngày và bất kỳ ngày nào trong tháng, đồng thời, khi Nguyên Đơn tháo
dỡ, lắp ráp thiết bị của Bị Đơn, thì phải có nhân viên kỹ thuật hướng dẫn tại chỗ
để đảm bảo an toàn, tuy nhiên, theo Biên bản hiện trường ngày 28/10, thì mãi cho
đến ngày 16/10 phía Bị Đơn mới bố trí đủ 02 nhân viên, trong đó chỉ có 1 nhân
viên kỹ thuật, nhân viên còn lại là quản lý. Mặt khác, khi hai nhân viên này tiến
hành hỗ trợ kiểm định, bàn giao và xác nhận các nội dung tại Biên bản hiện
trường, thì phía Bị Đơn như đã đề cập ở trên, cho rằng các nội dung được 02
nhân viên trên xác nhận là không phù hợp. Như vậy, qua hai căn cứ nêu trên cho
thấy rằng, Bị Đơn mặc dù đã thỏa thuận với Nguyên Đơn tại Hợp đồng 2709,
nhưng trên thực tế thì việc nỗ lực, thiện chí hợp tác thực hiện hợp đồng gần như
bị động, chây ì và không sâu sát.
(ii). Về yêu cầu buộc Nguyên Đơn thanh toán ngay cho Bị Đơn số tiền
18.992.715.000 đồng gồm: tiền thuê cẩu 03 tháng theo hợp đồng (sau khi bù trừ
tiền đặt cọc 6.900.000.000 đồng) tương đương với 15.870.000.000 đồng và tiền
phí vận chuyển và tháo dỡ cẩu chiều về là 2.070.000.000 đồng; Lãi suất chậm trả
của tiền thuê cẩu tạm tính đến thời điểm 27/5/2022 tương đương với
1.052.715.000 đồng.
• Như các ý kiến đã nêu tại mục (i) trên, căn cứ mà Bị Đơn xác định để
làm cơ sở tính tiền thuê trên thực tế chưa phát sinh theo như thỏa thuận trong
Hợp đồng 2709, do đó, việc Bị Đơn xác định số tiền thuê xe cẩu 03 tháng và lãi
5
suất chậm trả của tiền thuê là không có cơ sở.
• Bị Đơn xác định Nguyên Đơn phải chịu tiền phí vận chuyển chiều về là
không có căn cứ. Bởi lẽ theo Hợp đồng 2709, các bên đã quy định rõ tại Điều 1
rằng Nguyên Đơn sẽ chịu phí vận chuyển chiều đi và Bị Đơn chịu phí vận
chuyển chiều về. Mặt khác, trong Hợp đồng 2709 không đề cập đến trường hợp
nếu chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn thì Nguyên Đơn phải chịu phí vận chuyển
chiều về. Do đó, việc Bị Đơn xác định Nguyên Đơn phải chịu tiền phí vận
chuyển chiều về là không hợp lý.
3. Xây dựng kế hoạch hỏi tại phiên họp (lựa chọn hỏi bảo vệ cho Nguyên Đơn)
Kế hoạch hỏi tại phiên họp:
Hỏi Nguyên Đơn:
1. Nguyên Đơn hãy cho biết, theo thỏa thuận ban đầu thì thời gian mà Bị Đơn
phải hoàn thành quá trình vận chuyển xe cầu đến công trường là khi nào?
2. Nguyên Đơn hãy cho biết, trên thực tế thời gian xe cẩu được vận chuyển đến
công trường là vào khi nào? Có được ghi nhận lại hay không? Nếu có thì được ghi
nhận lại ở đâu?
3. Nguyên Đơn hãy cho biết, theo thỏa thuận ban đầu thì các bên thỏa thuận với
nhau khi nào sẽ cho tiến hành thủ tục bàn giao thiết bị?
4. Nguyên Đơn hãy cho biết, trên thực tế Bị Đơn đã thực hiện thủ tục bàn giao
thiết bị chưa? Có được ghi nhận lại hay không? Nếu có thì được ghi nhận lại ở đâu?
5. Nguyên Đơn hãy cho biết vào ngày 24/10/2021, Bị Đơn có cử nhân viên đến
công trường để tiến hành việc kiểm định hay không? Nếu có thì được ghi nhận ở đâu?
6. Nguyên Đơn hãy cho biết, vào ngày 28/10/2021 nhân viên phía Bị Đơn đã xác
nhận vào biên bản làm việc như thế nào? Nguyên Đơn có biết vì sao việc kiểm định
không tiến hành được không? Phía Bị Đơn có đưa ra giải thích nào cho vấn đề trên
không? Nguyên Đơn có thông báo gì cho Bị Đơn biết về vấn đề này không?
7. Nguyên Đơn hãy cho biết sau khi Nguyên Đơn chấp nhận phương án giảm chi
phí thuê và tiến hành thủ tục bàn giao thiết bị mà Bị Đơn đưa ra, Bị Đơn đã có phản
hồi lại như thế nào? Phía Bị Đơn có thực hiện như thỏa thuận hay không? Nếu có thì
được ghi nhận lại không? Ghi nhận ở đâu?
8. Nguyên Đơn hãy cho biết lí do vì sao ngày 29/11/2021 Nguyên Đơn lại phát
hành công văn số 2911/2021/HTP với nội dung thông báo đình chỉ Hợp đồng?
9. Nguyên Đơn có biết lí do Bị Đơn phát hành công văn số 10221/Y thông báo sẽ
tiến hành tháo xe cẩu tiến hành tháo dỡ thiết bị và thu hồi thiết bị vào ngày
01/12/2021, do không nhận được sự hợp tác từ Nguyên Đơn, đồng thời yêu cầu
Nguyên Đơn thanh toán tiền vận chuyển lượt về theo quy định của Hợp đồng không?
Lí do đó là gì? Có được ghi nhận ở đâu không?
10. Nguyên Đơn đã chịu những thiệt hại nào trên thực tế khi Bị Đơn không tiến
hành thực hiện nghĩa vụ như quy định trong Hợp đồng?

Hỏi Bị Đơn:
6
1. Bị Đơn hãy cho biết, theo thỏa thuận ban đầu thì thời gian mà Bị Đơn phải
hoàn thành quá trình vận chuyển xe cẩu đến công trường là khi nào? Bị Đơn sẽ hoàn
thành thủ tục bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn vào lúc nào?
2. Bị Đơn hãy cho biết, trên thực tế Bị Đơn đã thực hiện thủ tục bàn giao thiết bị
chưa? Có được ghi nhận lại hay không? Nếu có thì được ghi nhận lại ở đâu?
3. Bị Đơn hãy cho biết theo Hợp đồng, thông số cần của xe cẩu là 140m, vậy vì
sao tại Biên bản làm việc ngày 28/10/2021 ghi nhận đến ngày 18/10/2021 thì xe cẩu
được dựng chỉ cao 126m? Bị Đơn hãy giải thích lí do vì sao ngay từ ban đầu thỏa
thuận là 140m nhưng khi tiến hành lắp đặt thì kết quả lại thành 126m và phải xin chủ
đầu tư cho phép hạ xuống để lắp thêm?
4. Khi phía Bị Đơn xác nhận xe cẩu chưa sẵn sàng hoạt động tại công trường do
chưa đủ điều kiện hoạt động thì Bị Đơn có thông báo hay đưa ra lời giải thích cho vấn
đề này với Nguyên Đơn không? Lí do đó là gì? Được ghi nhận tại đâu?
5. Bị Đơn căn cứ như thế nào để xác định thời hạn thuê xe cho Nguyên Đơn khi
thủ tục bàn giao được xác nhận tại Biên bản ngày 28/10/2021 xác nhận rằng xe cẩu
chưa đủ điều kiện hoạt động?
6. Bị Đơn có đề cập đến vấn đề đã gửi các giấy tờ bàn giao thông qua Zalo cho
Nguyên Đơn, vậy khi Bị Đơn gửi những giấy tờ đó, Nguyên Đơn có phản hồi gì hay
không? Phản hồi lại như thế nào? Có được ghi nhận lại ở đâu hay không?
7. Bị Đơn có trình bày tại Bản tự bảo vệ rằng từ 19/10/2021 – 24/10/2021 đại
diện của Bị Đơn có gửi các giấy tờ kiểm định và bàn giao cho Nguyên Đơn, vậy tại
sao tại Biên Bản làm việc ngày 28/10/2021, Bị Đơn lại xác nhận chưa tiến hành kiểm
định chất lượng và an toàn thiết bị lần đầu tiên, chưa bàn giao các giấy tờ chứng nhận
của thiết bị cẩu; xác nhận cẩu chưa sẵn sàng hoạt động tại công trường do chưa đủ
điều kiện hoạt động?
8. Bị Đơn hãy giải thích lí do vì sao sau khi đưa ra phương án giảm giá thuê cho
Nguyên Đơn và tiến hành thủ tục bàn giao thiết bị vào ngày 19/11/2021 và đã nhận
được công văn số 2611/HPT từ Nguyên Đơn với nội dung về việc tuân thủ hợp đồng,
chấp nhận phương án giảm giá và đề nghị Bị Đơn cung cấp và thực hiện thủ tục bàn
giao thiết bị, văn bản ủy quyền không muộn hơn ngày 28/11/2021, Nguyên Đơn nhấn
mạnh nhân sự luôn có mặt 24/24 để hỗ trợ cho việc tiến hành bàn giao thiết bị và xác
nhận các vấn đề liên quan; nhưng cho đến 28/11/2021 Bị Đơn vẫn không thực hiện?
9. Bị Đơn xác định đã tiến hành gửi các hồ sơ, tài liệu bàn giao thiết bị, kiểm
định chất lượng và an toàn thiết bị lần đầu qua Zalo cho Nguyên Đơn, nếu điều này
trên thực tế có gửi, thì ai là người đại diện cho Nguyên Đơn ký kết vào các Biên bản
hiện trường trên?
10. Nếu Bị Đơn cho rằng chính 02 nhân viên đại diện cho Bị Đơn xác nhận vào
Biên bản hiện trường với nội dung như trên là không phù hợp, vậy cá nhân nào xác
nhận mới phù hợp? Và nếu 02 cá nhân nêu trên không phù hợp vậy thì vì sao Bị Đơn
lại cử 02 cá nhân không có thẩm quyền lên làm việc với Nguyên Đơn?

7
4. Soạn thảo bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng (lựa chọn bảo vệ
cho Nguyên Đơn).
BẢN LUẬN CỨ
BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG
MẠI VÀ DỊCH VỤ X TẠI PHIÊN HỌP HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI

Kính thưa Hội Đồng Trọng Tài,


Tôi là Nguyễn Thị Quỳnh Trang – Luật sư thuộc Đoàn LS TP. Hà Nội – Là Luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Cổ phần Thương Mại Và Dịch Vụ X.
Là nguyên đơn trong vụ án được Hội Đồng Trọng Tài – Trung tâm trọng tài Quốc tế
ABC thụ lý số ......../TB-TLVA ngày ...........
Căn cứ hồ sơ vụ án, Tôi xin trình bày Luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn tại phiên họp Hội Đồng Trọng Tài như sau:
I. VỀ NỘI DUNG KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN:
1. Buộc Bị Đơn hoàn trả đầy đủ tiền đặt cọc, phí vận chuyển một chiều mà
Nguyên Đơn đã thanh toán cho bên vận chuyển và tiền lãi chậm trả của tiền đặt
cọc, phí vận chuyển.
Thứ nhất, căn cứ Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 và Hợp đồng số 2709_X_Y về
việc thuê thiết bị thi công giữa Nguyên Đơn và Bị Đơn ký ngày 02/10/2021 ("Hợp
đồng 2709"), Bị Đơn từ chối thực hiện Hợp Đồng (không giao đúng xe cẩu đúng thông
số và thời hạn như quy định trong Hợp đồng) và các bên không có thỏa thuận nào khác
về vấn đề đặt cọc thì tài sản đặt cọc trong trường hợp này là 6.900.000.000 đồng phải
được hoàn trả cho Nguyên Đơn.
Thứ hai, theo bản sao kê Giao dịch chuyển tiền cho công ty vận chuyển mà
Nguyên Đơn đã nộp, xác định được lịch sử thanh toán phí vận chuyển chiều đi của
Nguyên Đơn như sau:
(i) 04/10/2021: 400.000.000 đồng – Nguyên Đơn tạm ứng đặt cọc Trung Thuận
vận chuyển cầu Bình Thuận ĐL;
(ii). 08/10/2021: 270.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán vận chuyển cầu
LTM 1750 Đà Lạt;
(iii). 08/10/2021: 100.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán Trung Thuận vận
chuyển cầu Bình Thuận ĐL;
(iv). 08/10/2021: 490.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán Trung Thuận vận
chuyển cầu Bình Thuận ĐL;
(v). 27/10/2021: 230.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán 230 triệu vận
chuyển 2 cầu.
Tổng phí vận chuyển mà Nguyên Đơn đã thanh toán là 1.490.000.000 đồng. Đây
là khoản phí mà Nguyên Đơn phải chịu khi thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hợp
8
đồng 2704 cho Bị Đơn. Và vì Bị Đơn trên thực tế đã từ chối thực hiện hợp đồng, Bị
Đơn có nghĩa vụ phải hoàn trả phí vận chuyển này cho Nguyên Đơn.
Thứ ba, căn cứ tại Điều 306 Luật Thương Mại 2005 về quyền yêu cầu tiền lãi do
chậm thanh toán, Bị Đơn phải trả khoản lãi chậm trả tạm tính đến ngày Nguyên Đơn
nộp Đơn khởi kiện (25/04/2021), theo lãi suất chậm trả 0.05%/ngày quy định tại Điều
2.2 Hợp đồng 2709, phát sinh trên khoản tiền đặt cọc đã được Nguyên Đơn thực hiện
thanh toán đầy đủ cho Bị Đơn vào ngày 05/10/2021, tương ứng với số tiền
696.900.000 đồng; khoản phí vận chuyển mà Nguyên Đơn thanh toán đầy đủ vào ngày
27/10/2021, tương ứng với số tiền 133.355.000 đồng.
2. Buộc Bị Đơn bồi thường thiệt hại vật chất cho Nguyên Đơn.
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 302, Điều 303 Luật Thương Mại 2005, việc Bị Đơn
không tiến hành bàn giao thiết bị, không kiểm định an toàn và giao cho Nguyên Đơn
một xe cẩu không thể đưa vào sử dụng được do không đạt yêu cầu là hành vi vi phạm
thỏa thuận tại Hợp đồng 2709. Hành vi này đã dẫn đến việc Nguyên Đơn không thể
đưa xe cẩu vào sử dụng, phải thuê bên thứ ba khác tiến hành thi công công trình lắp
đặt theo đúng thời hạn và tiến độ theo thỏa thuận với Chủ Đầu Tư nhưng vẫn không
kịp, dẫn đến việc Nguyên Đơn vi phạm theo hợp đồng đã ký với Chủ Đầu Tư và phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm tương ứng 10.000.000.000 đồng.
Thứ hai, căn cứ tại Điều 5 Hợp đồng 2709, các bên có thỏa thuận về việc bên
thua kiện phải chịu mọi chi phí trong quá trình tố tụng, do đó, Nguyên Đơn có căn cứ
để yêu cầu Bị Đơn phải chịu khoản phí luật sư là 2.400.000.000 đồng theo Hợp đồng
dịch vụ pháp lý mà Nguyên Đơn đã đính kèm trong Đơn khởi kiện.
II. VỀ CÁC YÊU CẦU TRONG ĐƠN KHỞI KIỆN LẠI CỦA BỊ ĐƠN:
Thứ nhất, Bị Đơn xác định ngày 06/10/2021 Bị Đơn mới liên hệ qua email cho
Nguyên Đơn, thông báo việc thiết bị đã được mang tới công trường, tuy nhiên, căn cứ
vào 18 Biên bản bàn giao thiết bị, có thể nhận thấy rằng, việc bàn giao thiết bị được
diễn ra từ ngày 05/10/2021 đến 08/10/2021 mới hoàn thành, tức là đến 08/10/2021
toàn bộ thiết bị mới được Bị Đơn bàn giao đầy đủ cho Nguyên Đơn. Trong khi đó, căn
cứ vào các email thông báo từ Nguyên Đơn gửi cho Bị Đơn vào các ngày 01/10/2021,
02/10/2021, 03/10/2021, Nguyên Đơn đã thông báo cho Bị Đơn biết về thời hạn chậm
nhất cho việc vận chuyển và lắp đặt xe cẩu là không muộn hơn 05/10/2021.
Thứ hai, Bị Đơn chỉ căn cứ vào "một phần nội dung" Biên bản hiện trường ngày
28/10 rằng xe đến ngày 18/10/2021 đã dựng được cẩu với cầu hình 126m nên có cơ sở
để khẳng định Bị Đơn đã bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn và Nguyên Đơn đã tiến
hành lắp đặt để đưa vào sử dụng. Việc căn cứ như trên là vô cùng phiến diện và cắt
kéo câu chữ, làm sai sự thật bởi lẽ, nghĩa vụ của Bị Đơn là phải bàn giao đầy đủ, thiết
bị phải đạt đủ điều kiện kiểm định để đưa vào sử dụng. Biên bản hiện trường ngày
28/10 nêu rõ rằng phía Bị Đơn xác nhận rằng "chưa tiến hành kiểm định chất lượng và
an toàn thiết bị lần đầu tiên, chưa bàn giao các giấy tờ chứng nhận của cẩu LR 1750
cho công ty X" và "Công ty Y xác nhận cẩu chưa sẵn sàng hoạt động tại công trường
do chưa đủ điều kiện hoạt động". Như vậy, chứng tỏ đến ngày 28/10/2021 (vượt quá
9
03 ngày theo tiến độ thực hiện lắp đặt mà hai bên đã trao đổi qua email), Bị Đơn vẫn
chưa tiến hành bàn giao thiết bị và xe cẩu vẫn chưa đưa vào sử dụng tại công trường
được.
Thứ ba, Bị Đơn cho rằng trong suốt quá trình vận chuyển và lắp đặt thiết bị tại
công trường, Nguyên Đơn không có bất kì một văn bản nào xác nhận việc Bị Đơn bàn
giao thiết bị thiếu và yêu cầu Y phải bàn giao các thiết bị còn thiếu. Nhận định trên thể
hiện sự thiếu trách nhiệm của Bị Đơn và không thiện chí thực hiện Hợp đồng, bởi lẽ,
ngay trong Hợp đồng ký kết giữa hai bên, không có một điều khoản nào quy định về
việc Nguyên Đơn có trách nhiệm thông báo cho Bị Đơn khi bàn giao thiết bị có thiếu
sót. Đồng thời, mục đích Nguyên Đơn ký kết Hợp đồng với Bị Đơn là để thuê xe cẩu
phục vụ cho việc thi công công trình, không phải là để phục vụ cho mục đích mua bán
hàng hóa, thiết bị. Đến cả việc vận hành, sử dụng xe cẩu Nguyên Đơn đều phải hoạt
động dưới sự giám sát của thợ vận hành phía Bị Đơn thì việc buộc phải biết rõ các
thành phần, bộ phận nào còn thiếu trên xe cẩu không phải trách nhiệm của Nguyên
Đơn. Mặt khác, theo Hợp đồng ký kết giữa hai bên, Bị Đơn là phía phải có trách
nhiệm trong việc bàn giao đầy đủ và đảm bảo thiết bị đưa vào sử dụng đúng thời hạn
cho Nguyên Đơn. Bị Đơn buộc phải giao đầy đủ chứ không phải bị động và đổ lỗi cho
Nguyên Đơn về việc không thông báo Bị Đơn bàn giao thiếu thiết bị và yêu cầu Bị
Đơn bàn giao đủ.
Thứ tư, Bị Đơn cho rằng đã thực hiện nghĩa vụ bàn giao giấy tờ và Nguyên Đơn
đã biết rõ về thông số kỹ thuật cũng như chủ sở hữu của cẩu trục bánh xích và xác định
rằng Biên bản làm việc phần nội dung cung cấp hồ sơ và kiểm định Biên bản này là
không phù hợp. Việc Bị Đơn nhận định như trên là không hợp lý khi mà Ông Đỗ Văn
Nghĩa với chức vụ Lái cẩu 750 tấn và Ông Nguyễn Văn Tính – chức vụ Quản lý đều là
đại diện từ phía Bị Đơn cử lên công trường để thực hiện công tác kiểm định.
Thứ năm, Bị Đơn xác định rằng theo Hợp đồng mà hai bên đã ký kết, Bị Đơn có
quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng do Nguyên Đơn vi phạm thời hạn thanh toán
cước vận chuyển. Bị Đơn xác định thời gian Nguyên Đơn phải thanh toán cước vận
chuyển bắt đầu tính từ 05/10/2021 đến 09/10/2021. Những nhận định trên hoàn toàn
không có căn cứ, bởi lẽ, vào 8 giờ sáng 05/10/2021 Bị Đơn mới tiến hành vận chuyển
thiết bị lên công trường của Nguyên Đơn, mặt khác, căn cứ theo 18 Biên bản bàn giao,
thì đến 08/10/2021 Bị Đơn mới thực hiện xong nghĩa vụ tập kết toàn bộ thiết bị tại
công trường của Nguyên Đơn. Đồng thời, theo Điều 2 Hợp đồng 2709 ký kết giữa các
bên, thời hạn thanh toán cước vận chuyển được tính ngay sau khi toàn bộ thiết bị của
Bị Đơn được tập kết đầy đủ tại công trường của Nguyên Đơn, vì vậy, việc Bị Đơn xác
định ngày 05/10/2021 được tính là ngày phát sinh nghĩa vụ thanh toán cước vận
chuyển là không đúng như thỏa thuận trong Hợp đồng 2709.
Thứ sáu, Bị Đơn xác định đến ngày 23/11/2021 Nguyên Đơn vẫn chưa thanh
toán tiền thuê 01 tháng cho Bị Đơn, do vi phạm trên nên Bị Đơn có quyền rút máy mà
không gặp bất cứ sự cản trở nào từ Nguyên Đơn căn cứ theo Điều 2 Hợp đồng 2709.
Nhận định trên của Bị Đơn là không có căn cứ, không tôn trọng, tuân thủ thỏa thuận
10
tại Hợp đồng. Đầu tiên cần làm rõ ràng, việc xác định thời điểm bắt đầu tính tiền thuê
được xác định kể từ khi thiết bị sẵn sàng hoạt động tại công trường và hoàn tất thủ tục
bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn. Trên thực tế, cho tới khi Bị Đơn tháo dỡ xe cẩu vào
ngày 01/12/2021, thì Nguyên Đơn vẫn chưa nhận được bất kì hồ sơ tài liệu bàn giao
nào và xe cẩu cũng chưa được đưa vào sử dụng được một ngày nào. Thứ hai, việc Bị
Đơn xác định rằng Nguyên Đơn không tiếp tục lắp đặt thiết bị là do lỗi của Nguyên
Đơn, dẫn đến vi phạm nối tiếp vi phạm là sai lệch hoàn toàn, có dấu hiệu của hành vi
chối bỏ trách nhiệm, bởi lẽ, căn cứ vào Điều 4 Hợp đồng 2709, Bị Đơn có trách nhiệm
bố trí 02 thợ vận hành để Nguyên Đơn có thể dễ dàng huy động vào bất kỳ thời gian
nào trong ngày và bất kỳ ngày nào trong tháng, đồng thời, khi Nguyên Đơn tháo dỡ,
lắp ráp thiết bị của Bị Đơn, thì phải có nhân viên kỹ thuật hướng dẫn tại chỗ để đảm
bảo an toàn, tuy nhiên, theo Biên bản hiện trường ngày 28/10, thì mãi cho đến ngày
16/10 phía Bị Đơn mới bố trí đủ 02 nhân viên, trong đó chỉ có 1 nhân viên kỹ thuật,
nhân viên còn lại là quản lý. Mặt khác, khi hai nhân viên này tiến hành hỗ trợ kiểm
định, bàn giao và xác nhận các nội dung tại Biên bản hiện trường, thì phía Bị Đơn như
đã đề cập ở trên, cho rằng các nội dung được 02 nhân viên trên xác nhận là không phù
hợp. Như vậy, qua hai căn cứ nêu trên cho thấy rằng, Bị Đơn mặc dù đã thỏa thuận với
Nguyên Đơn tại Hợp đồng 2709, nhưng trên thực tế thì việc nỗ lực, thiện chí hợp tác
thực hiện hợp đồng gần như bị động, chây ì và không sâu sát.
Thứ bảy, về yêu cầu buộc Nguyên Đơn thanh toán ngay cho Bị Đơn số tiền
18.992.715 đồng gồm: tiền thuê cẩu 03 tháng theo hợp đồng (sau khi bù trừ tiền đặt
cọc 6.900.000 đồng) tương đương với 15.870.000 đồng và tiền phí vận chuyển và tháo
dỡ cẩu chiều về là 2.070.000 đồng; Lãi suất chậm trả của tiền thuê cẩu tạm tính đến
thời điểm 27/5/2022 tương đương với 1.052.715 đồng.
Thứ tám, căn cứ mà Bị Đơn xác định để làm cơ sở tính tiền thuê trên thực tế
chưa phát sinh theo như thỏa thuận trong Hợp đồng 2709, do đó, việc Bị Đơn xác định
số tiền thuê xe cẩu 03 tháng và lãi suất chậm trả của tiền thuê là không có cơ sở.
Cuối cùng, Bị Đơn xác định Nguyên Đơn phải chịu tiền phí vận chuyển chiều về
là không có căn cứ. Bởi lẽ theo Hợp đồng 2709, các bên đã quy định rõ tại Điều 1 rằng
Nguyên Đơn sẽ chịu phí vận chuyển chiều đi và Bị Đơn chịu phí vận chuyển chiều về.
Mặt khác, trong Hợp đồng 2709 không đề cập đến trường hợp nếu chấm dứt Hợp đồng
trước thời hạn thì Nguyên Đơn phải chịu phí vận chuyển chiều về. Do đó, việc Bị Đơn
xác định Nguyên Đơn phải chịu tiền phí vận chuyển chiều về là không hợp lý.
III. Kết luận và Kiến nghị
Từ các lập luận, phân tích trên, tôi cho rằng các yêu cầu của Nguyên Đơn là có cơ
sở, các yêu cầu của Bị Đơn là không có căn cứ.
Kính mong HĐTT xem xét giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, thấu đáo và bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng cho Nguyên Đơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày …/…/……

11
Luật sư NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG

B. NHẬN XÉT PHẦN THỰC HÀNH PHIÊN HỌP CỦA HỘI ĐỒNG
TRỌNG TÀI
1. Vai diễn Luật sư:
1.1. Luật sư Nguyên đơn
Tác phong:

Nội dung trình bày:

12
Nội dung phần hỏi và tranh luận:

1.2. Luật sư Bị đơn:


Tác phong:

Nội dung trình bày:

13
Nội dung phần hỏi và tranh luận:

2. Vai diễn đại diện Nguyên đơn và Bị đơn:


2.1. Đại diện Nguyên đơn:
14
2.2. Đại diện Bị đơn:

3. Vai diễn Hội đồng trọng tài:

15
16
17

You might also like