You are on page 1of 13

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

CƠ SỞ ĐÀO TẠO TP. HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH


TỔ CHỨC PHIÊN HỌP CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI

Môn: Kỹ năng tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, tham gia giải
quyết tranh chấp ngoài Tòa án và cung cấp dịch vụ pháp lý khác
LS3 (LS4)
Mã hồ sơ: LS.TV – 034Y

Ngày diễn:
Giáo viên hướng dẫn:

Họ và tên:
Ngày sinh:
Số báo danh:
Lớp:

TP. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 03 năm 2024


PHẦN 1: TỰ CHUẨN BỊ

1. Tóm tắt sự việc

Các nội dung sau đây sẽ được tóm tắt theo thứ tự thời gian:

Ngày 05/10/2021, công ty X (X) và công ty Y (Y) ký kết hợp đồng thuê thiết bị
thi công tổng giá trị hợp đồng là 24.310.000.000 đồng bao gồm các nội dung cơ bản:

- X thuê của Y một xe cẩu bánh xích công suất 750 tấn, thông số cần là 140m.

- Thời gian thuê tối thiểu là 3 tháng với giá là 6.900.000.000 đồng/ tháng.

- X phải đặt cọc trước 1 tháng tiền thuê

- X Chịu tiền vận chuyển 1 chiều là 1.400.000.000 đồng.

Theo cam kết trong hợp đồng thì các bên có các quyền và nghĩa vụ như sau:

- Trách nhiệm bên X:

- Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn cho thiết bị và thợ lái

- Cấp nhiên liệu theo đúng hướng dẫn sử dụng

- Cung cấp dụng cụ phục vụ việc di chuyển thiết bị cẩu

- Cung cấp thông tin chính xác các giấy tờ cần thiết để thiết bị vào công
trường trước khi bàn giao

- Chỉ định người ký vào bảng khối lượng làm việc

- Thanh toán đúng hạn cho công ty Y toàn bộ giá trị công việc đã hoàn
thành

- Trách nhiệm bên Y:

- Bàn giao thiết bị ở công trường trong điều kiện hoạt động tốt

- Mua bảo hiểm rủi ro cho thiết bị, thợ lái và thợ máy

- Khi tháo dỡ và lắp ráp thiết bị, có nhân viên kĩ thuật tại chỗ

- Cung cấp đồ bảo hộ lao động đầy đủ cho công nhân vận hành theo quy
định của công ty X

1
- Mọi mất mát thiết bị, hư hỏng do bên thứ ba thì công ty X chịu trách
nhiệm Thời gian thuê tính từ khi thiết bị sẵn sàng hoạt động tại công
trường và hoàn tất thủ tục bàn giao thiết bị cho công ty X. Thủ tục bàn
giao có chữ ký xác nhận bằng biên bản của 2 bên, phụ tùng , công nhân
vận hàng và các hồ sơ chứng từ của thiết bị kể từ khi thiết bị sẵn sàng
hoạt động tại công trường và hoàn tất thủ tục kiểm tra, đánh giá của
công ty X

- Nếu sau 2 ngày kể từ khi nhận được thiết bị đầy đủ ở công trình mà bên
Y chưa nhận được tiền thanh toán phí vận chuyển thì công ty Y tạm
dừng lắp dựng, hoạt động của thiết bị. Sau 4 ngày thì coi như công ty X
đơn phương chấm dứt hợp đồng và công ty Y có quyền rút thiết bị khỏi
công trường.

Ngày 28/10/2021, theo biên bản kết luận của Y xác nhận chưa kiểm tra chất
lượng và an toàn thiết bị đầu tiên, chưa bàn giao các giấy từ chứng nhận của cẩu cũng
như chiều cao của cẩu không đạt 140m như hợp đồng. Xe cẩu chưa hoạt động được do
không đủ điều kiện.

Từ ngày 19 đến ngày 24/10/2021, Y đã liên tục nhắn tin với X để gửi hồ sơ
kiểm định viên.

Sáng 24/10/2021, kiểm định viên đã đến công trường nhưng không được kiểm
định. Công ty Y cũng gửi giấy tờ hồ sơ về thợ, thiết bị cẩu và giấy kiểm định an toàn
của bên thứ ba cho ông Đức và ông Tiến (công ty X) qua Zalo.

Ngày 30/10/2021, công ty X dưới sức ép chậm tiến độ từ chủ đầu tư là công ty
Z, đã gửi công ty Y công văn 3010/2021/X thông báo Y vi phạm hợp đồng, yêu cầu Y
bồi thường thiệt hại và di dời cẩu trước ngày 01/11/2021 ra khỏi vị trí đang đậu.

Ngày 31/10/2021, ông Tiến nhắn tin: “Dự án có khả năng tạm dừng 15 đến 30
ngày.

Ngày 01/11/2021, X phát hành công văn số 0111/2021/X về việc tháo dỡ, di
dời cẩu ra khỏi vị trí trả lại mặt bằng dự án và thanh toán tiền cọc và bồi thường thiệt
hại.

2
Ngày 19/11/2021, Y gửi công văn cho chủ đầu tư trình bày sự việc liên quan
đến thiết bị cẩu 750 tấn giữa hai bên, đồng thời nêu ra hai hướng xử lý:

Một là, giảm giá thuê cho X và xác nhận biên bản giao thiết bị và xác nhận thời
gian thuê cẩu;

Hai là, Y tiến hành rút cẩu do X không tuân thủ quy định trong hợp đồng.

Ngày 20/11/2021, Y tiếp tục gửi email thông báo cho X, yêu cầu xác nhận các
phương án mà Y đề xuất.

Ngày 23/11/2021, đại diện xã Trạm Hành, đại diện X, đại diện Y, đại diện Công
ty TCE đã làm việc và ghi nhận nội dung Y xin phép tháo cẩu để đưa ra khỏi công
trường bắt đầu từ ngày 23/11/2021.

Ngày 25/11/2021, X gửi cho Công ty công văn số 2511/2021/X về việc tuân
thủ Hợp đồng và Y phát hành công văn 9721/Y có nội dung về việc tuân thủ hợp
đồng.

Ngày 26/11/2021, X gửi cho Y công văn số 2611/2021/X về việc tuân thủ Hợp
đồng về đề nghị Y cung cấp không muộn hơn ngày 28/11/2021 một số tài liệu.

Ngày 29/11/2021, X phát hành công văn 2911/2021/HPT thông báo về đình chỉ
hợp đồng.

Ngày 30/11/2021, Y gửi Công văn số 10221/Y thông báo việc tiến hành tháo
dỡ thiết bị và thu hồi thiết bị vào ngày 01/12/2021, do không nhận được sự hợp tác từ
phía X, đồng thời yêu cầu Y thanh toán tiền vận chuyển lượt về theo quy định của
Hợp đồng.

Ngày 25/04/2022, X đã gửi Đơn khởi kiện Y lên Trung tâm trọng tài quốc tế
ABC – Chi nhánh Hồ Chí Minh.

Ngày 27/05/2022, Y đã gửi bản bảo vệ đến Trung tâm Trọng tài và kèm theo
đơn kiện lại.

2. Dự thảo

2.1. Yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn

3
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bao gồm 2 yêu cầu đối với bị đơn Y và yêu
cầu đối với Trung tâm trọng tài quốc tế ABC.

Thứ nhất, các yêu cầu của nguyên đơn (X) đối với bị đơn (Y) thì đều nhằm xoay
quanh các nghĩa vụ tài chính. Cụ thể

Một là, yêu cầu Y hoàn trả ngay lập tức số tiền 25.930.400.000 đồng được cấu
thành từ các khoản tiền sau:

- Tiền đặt cọc thuê thiết bị: 6.900.000.000 đồng

- Cước vận chuyển 1 chiều: 1.400.000.000 đồng

- Tiền lãi chậm trả tính với hai nguồn tiền trên tính từ thời điểm hoàn tất
thanh toán cho đến thời điểm nộp đơn khởi kiện 25/05/2022. Lãi chậm
trả từ thời điểm này trở đi sẽ được tiếp tục tính theo quy định của pháp
luật và theo quyết định của hội đồng trọng tài.

- Tiền phạt cọc do bị đơn từ chối thực hiện hợp đồng: 6.900.000.000 đồng

- Khoản tiền bồi thường thiệt hại: 10.000.000.000 đồng.

- Phí luật sư: 2.400.000.000 đồng.

Hai là, nguyên đơn X yêu cầu bên Y phải thanh toán toàn bộ các chi phí khác
phát sinh từ quá trình tố tụng.

Thứ hai: Nguyên đơn yêu cầu Trung tâm trọng tài quốc tế ABC thực hiện:

Một là, X yêu cầu bảo lưu quyền sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện này cùng với
bất kỳ chứng cứ bổ sung nào theo quy định tại Điều 14 Quy tắc của Trung tâm
trọng tài quốc tế ABC.

Hai là, X đề nghị Trung tâm trọng tài quốc tế ABC áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2.2. Ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn\

Y cho rằng mình đã thực hiện bàn giao toàn bộ thiết bị với chữ ký xác nhận của
hai bên cho toàn bộ 18 biên bản bàn giao. Sau khi nhận hàng, X cũng không có biên
bản phản hồi về chất lượng thiết bị. Bên cạnh đó việc X đã tiền hành lắp đặt thiết bị

4
theo mục 4.1 điều 4 là bằng chứng chứng minh Y đã thực hiện đúng nghĩa vụ của
mình.

Y cho rằng Zalo là phương thức trao đổi nhiều lần của hai bên, Y đã giao đầy
đủ tài liệu cho X qua zalo và X cũng đã hiểu rõ. Vậy nên biên bản hiện trường ngày
28/10 là không phù hợp.

Y tận tình hỗ trợ đưa ra các phương án giải quyết nhưng X không hợp tác nên
Y chấm dứt hợp đồng. Vậy nên yêu cầu hội đồng trọng tai không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của X và buộc X phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính cụ thể. Thanh toán
cho Y 18.992.715.000 đồng gồm: Tiền cẩu 3 tháng (sau khi trừ 1 tháng tiền cọc) là
15.870.000.000 đồng; Chi phí vận chuyển tháo dỡ chiều về là 2.070.000.000; Lãi
chậm trả là 1.052.715.000 đồng.

2.3. Ý kiến của nguyên đơn với yêu cầu bị kiện lại của bị đơn

Y cho rằng nguyên đơn X không có biên bản phản hồi về việc thiếu thiết bị và
yêu cầu bổ sung nên bên Y không vi phạm. Tuy nhiên theo quy định tại hợp đồng thì
rõ ràng không có quy định rằng nguyên đơn phải thực hiện nghĩa vụ thông báo khi có
thiếu sót trong thiết bị được bàn giao. Bên cạnh đó, Y là bên giám sát việc lắp ráp,
tháo dỡ, kỹ thuật do đó có vấn đề kỹ thuật thì rõ ràng bên Y phải là người phát hiện có
trách nhiệm đối với hàng hòa mình giao. Đảm bảo làm sao để X sử dụng được xe cẩu
theo đúng mục đích, thời hạn dự tính ban đầu của hợp đồng,

Biên bản hiện trường là dựa trên thực tế kiểm tra, bên bị đơn Y chưa hề tiến
hành kiểm tra đối với các thiết bị dẫn đến thời điểm 28/10 bên X kiếm định thì các xe
cẩu chưa đủ điều kiện hoạt động tài công trường và được ghi nhận và biên bản hiện
trường. Do đó, bên Y hoàn toàn không thể lấy các nội dung trao đổi trong zalo làm
bằng chứng.

Về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng với lý do X vi phạm về thời hạn thanh
toán. Y cho rằng ngày phát sinh nghĩa vụ thanh toán là 05/10/2021 tuy nhiên chiếu
theo khoản 3 điều 2 của hợp đồn.thì thời hạn thanh toán cước vận chuyển sẽ tính vào
ngày toàn bộ thiết bị được tập kết đầy đủ tại công trường của X. Rõ ràng thì đến ngày
08/10/2021 thì Y mới tập kết toàn bộ thiết bị theo thực tế tại công trường. Tương tự,

5
áp dụng đối với việc thanh toán tiền thuê 1 tháng. Do đó việc bị đơn Y kết luận rằng
nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán là không phù hợp với tình hình thực tế trên
cơ sở hợp đồng đã ký kết giữa hai bên.

Vì các lý do trên bên X không chấp nhận thanh toán 18.992.715.000 cho Y.
Giải thích chi tiết dành cho khoản tiền phí vận chuyển và tháo dỡ thì hợp đồng không
quy định khi hợp đồng bị chấm dứt trước thời hạn thì X phải có nghĩa vụ chịu phí vận
chuyển đầu về. Bên cạnh đó, phần lãi chậm trả là không hợp lý do do xe cẩu chưa hoạt
động được bất kỳ một ngày nào cả. Trong khi đó điều 2.3 hợp đồng thì khi thiết bị sản
sàng hoạt động tại công trường và có biên bản bàn giao thiết bị thì lúc đó mới có cơ sở
để xác định tiền thuê.

2.4. Các văn bản liên quan

2.4.1. Tài liệu chứng cứ khác

Bên cạnh các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, trong quá trình giải quyết còn cần
các tài liệu khác như sau:

- Hợp đồng thuê máy số 2709 X_Y về việc thuê thiết bị thi công;

- Tài liệu thể hiện các lần trao đổi qua Zalo giữa Công ty X và Công ty Y

2.2.2. Văn bản pháp lý cần áp dụng

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015;

Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 27/06/2005;

Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 ngày 17/06/2010;

Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số điều của luật Trọng
tài thương mại;

Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế ABC.

3. Kế hoạch hỏi tại phiên tòa

3.1. Câu hỏi dành cho bên bị đơn trong phần hỏi

Thứ nhất: Tổng số thiết bị giao trong 18 biên bản bàn giao đã là tất cả các thiết
bị của cẩu hay chưa?

6
Thứ hai: Lý giải sự khác nhau trong quan điểm của Y về biên bản ngày
28/10/2021 với bản tự bảo vệ?

Thứ ba: Tại sao trong biên bản ngày 28/10, đại diện bên Y xác nhận chưa kiểm
định chất lượng thiết bị lần đầu và chưa bàn giao giấy tờ chứng nhận cẩu LR1750 cho
công ty X. Xác nhận cẩu chưa sẵn sàng hoạt động do chưa đủ điều kiện, nhưng sau đó
trong bản tự bào chữa lại bảo đã hoàn thành nghĩa vụ.

Thứ tư: Tại sao có sự sai lệch về thông số máy là trên hợp đồng là 140m trong
khi thiết bị thực tế là 126m ?

Thứ năm: Tất cả tài liệu về thợ lái, thiết bị cẩu và giấy kiểm định an toàn của
bên thứ ba được bên Y gửi qua cho bên X vào thời gian nào, dưới hình thức gì và đã
có sự xác nhận của hai bên chưa?

Thứ sáu: Trong hợp đồng có quy định gì về việc bên thứ ba được phép ra vào
công trường và tháo dỡ thiết bị Cẩu hay không?

Thứ bảy: Trách nhiệm kiểm định chất lượng cẩu lần đầu tiên thuộc về ai?

Thứ tám: Tại sao hàng được giao đến từ ngày 7/10/2021 nhưng đến ngày
24/10/2021 mới có nhân viên kiểm định máy cẩu đến kiểm định?

3.2. Câu hỏi cho bị đơn trong phần tranh luận

Thứ nhất: Tại sao bị đơn cho rằng đã giao hết giấy tờ và kiểm định chất lượng
cho xe cẩu trong khi không có sự xác nhận của bên X?

Thứ hai: Căn cứ nào cho số tiền bồi thường thuê cẩu 3 tháng trong khi thực tế
bị đơn chưa hoàn thành nghĩa vụ bàn giao đầy đủ giấy tờ liên quan đến xe cẩu?

Thứ ba: Các câu hỏi khác dựa trên câu trả lời của phía Bị đơn, nhưng tập trung
vào việc gửi tài liệu qua email và việc không hoàn thành kiểm tra chất lượng xe cẩu
lần đầu tiên?

4. Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng là nguyên đơn

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

7
QUAN ĐIỂM VÀ Ý KIẾN CỦA LUẬT SƯ

(Đối với nguyên đơn là công ty X)

Kính thưa Hội đồng trọng tài!

Tôi là Luật sư Nguyễn Chí Công - Luật sư của công ty luật XYZ thuộc đoàn
luật sư thành phố Hồ Chí Minh, Tôi tham gia phiên tòa hôm nay với tư các là người
bảo về quyền và lợi ích cho nguyên đơn là công ty thương mại cổ phần X trong vụ
việc “tranh chấp hợp đồng thuê tài sản” với bị đơn là công ty TNHH Y.

Trên tinh thần nghiên cứu hồ sơ vụ án, thông qua việc xét hỏi và các diễn biến
khác tại phiên xét xử tại trung tâm trọng tài quốc tế ABC. Tôi có những ý kiến để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là công ty thương mại cổ phần X được
trình bày như sau:

1. Việc công ty Y chưa tiến hành kiểm định an toàn chất lượng đầu tiền và
chưa bàn giao đầy đủ giấy chứng nhận cho X.

Rõ ràng bên bị đơn không có bằng chứng để chứng minh cụ thể rằng mình đã
tiến hành kiểm định an toàn chất lượng xe cẩu lần đầu tiên. Dựa trên sự tin tưởng của
các bên thi rõ ràng việc bên X lắp đặt trước là để tiết kiệm thời gian, tuy nhiên điều
này không đồng nghĩa là nguyên đơn công nhận bị đơn đã hoàn thành nghĩa vụ của
mình.

Thực tế đã chứng minh tại biên bản hiện trường mà các bên đã ký kết vào ngày
28/10/2021. Bên bị đơn đã thừa nhận rằng bản thân Y vẫn chưa hoàn thành nghĩa vụ.

Ngoài ra việc gửi tài liệu qua Zalo là thiếu chuyên nghiệp và không có bằng
chứng rõ ràng về việc bên X đã nhận được tài liệu. Tất cả các trao đổi trước đó thì rõ
ràng các bên trao đổi thường xuyên thông qua email và ngầm cho phép đó là một hình
thức trao đổi thông tin của các bên. Việc bên Y gửi zalo để xác nhận cho bên X không
phù hợp với biện pháp liên lạc giữa các bên đã ngầm thừa nhận từ ban đầu. Bên cạnh
đó, theo đánh giá thì nếu không có thỏa thuận trước giữa các bên thì Zalo (ứng dụng
nhắn tin gọi điện do VNG phát hành) hiện tại chưa có sự công nhận về mặt pháp lý là
một công cụ để trao đổi tài liệu vì thiếu cơ sở định danh tức là không ai chứng minh

8
được chính xác người gửi sẽ là ai. Bên cạnh đó, các tệp tin, hình ảnh được gửi thông
qua zalo không có giá trị lưu trữ và dễ bị biến mất vì cơ chế tự động xóa các tệp tin cũ
nhằm giải phóng dung lượng tin nhắn đồng thời cũng khó khăn trong sao lưu khi
chuyển sang các thiết bị khác. Ngoài ra bên phía nguyên đơn cho rằng rằng chuyển tài
liệu thông qua zalo cũng tiềm ẩn các nguy cơ bị hacker xâm nhập vào hệ thống dữ liệu
của mình, nên khi hợp đồng không thừa nhận Zalo là phương thức liên lạc giữa hai
bên thì bên nguyên đơn chúng tôi sẽ không có nghĩa vụ phải kiểm tra các thông tin gửi
không đúng quy trình như vậy.

Đồng thời chúng tôi cho rằng bên Y đang trốn tránh không thực hiện trực tiếp
nghĩa vụ bàn giao giấy tờ bởi lẽ 18 biên bản bàn giao không được giao ngay từ khi ký
kết. Việc gửi zalo không phải là một hình thức gửi tài liệu chính thống vậy nên theo
đúng ý kiến của nguyên đơn thì chúng tôi cho rằng chúng tôi chưa nhận được đầy đủ
các giấy tờ thực tế từ phía bị đơn, chúng tôi không chấp nhận những văn bản được gửi
bằng zalo.

2. Về việc bàn giao thiết bị

Căn cứ theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thì bên nguyên đơn X
không có nghĩa vụ phải kiểm tra chất lượng hàng hóa. Đây là nghĩa vụ của bên Y đã
được quy định cụ thể trong hợp đồng. Rõ ràng, bên X cũng chỉ có thể kiểm soát được
bằng số lượng ước tính bằng mắt thường, còn về kỹ thuật, chất lượng, vận hành thì do
bên Y thực hiện vậy nên bên Y mới là bên có trách nhiệm kiểm tra và đảm bảo về chất
lượng hàng hóa. Vì lẽ đó, chiếu theo các biên bản bàn giao, tại một số biên bản
nguyên đơn thấy bằng trong văn bản không thể hiện chất lượng của hàng hóa, chữ ký
của bên X rõ ràng cũng chỉ mang ý chí xác nhận về số lượng hàng hóa mà thôi. Việc
thiếu 12 tấm kê lót thép để đứng và di chuyển trong 18 biên bản bàn giao là có thể
nhận thấy. Chính sự việc này đã kiến cho X không thể vận hành được các thiết bị mặt
dù đã nhận hàng và lắp ráp thiết bị. Đây hoàn toàn là lỗi của một bên cụ thể là bên bị
đơn Y.

Bên cạnh đó, ngày 29/11 trong công văn 2911/X chúng tôi đã kêu gọi phía bị
đơn cung cấp đủ các tài liệu bao gồm: Văn bản ủy quyền cho người ký biên bản bàn
giao thiết bị, các hồ sơ chứng từ của thiết bị và công nhân vận hành và cung cấp nhân

9
viên kỹ thuật hướng dẫn lắp đặt thiết bị, giấy kiểm định chất lượng an toàn thiết bị lần
đầu tiên qua email và bản gốc/ photo công chứng qua địa chỉ công ty thương mại cổ
phần X. Tuy nhiên sau sau nhiều lần nhắc nhở thì chúng tôi không nhận được tài liệu
mà theo tôi đánh giá là rất dễ dàng gửi đi. Do đó tôi cho rằng bên Y không hề có thiện
ý hợp tác đối với hợp đồng lần này.

3. Việc tháo dỡ thiết bị

Căn cứ theo quy định hợp đồng thì nếu xuất hiện hành vi vi phạm nghiêm trọng
trong hợp đồng khi không hề quy định việc tháo dỡ là trách nhiệm của một bên thứ ba
nào khác. Do đó, các bên có trách nhiệm tháo dỡ và theo dõi quá trình tháo dỡ. Bởi lẽ
tình hình thực tế tại công trường đang có rất nhiều công nhân đang hoạt động. Việc
tháo dỡ nếu không cẩn thận và lựa chọn trong một khung giờ hợp lý sẽ dễ gây ra mất
an toàn trong môi trường lao động của các công nhân. Ngoài ra, trong quá trình tháo
dỡ nếu bị lạc mất các linh kiện và hư hỏng về thiết bị do bên thứ ba gây ra thì phía bên
X không có trách nhiệm đối với các vấn đề này. Vậy nên bên nguyên đơn yêu cầu việc
tháo dỡ phải được diễn ra một cách cẩn thận trong một thời hạn hợp lý.

Ngoài ra theo quan điểm của nguyên đơn đã thể hiện thì việc bên Y gửi hồ sơ
ngày 24/10/2021 thông qua ứng dụng zalo thì nguyên đơn không chấp nhận phần hồ
sơ này và xem là nó chưa được gửi. Cũng trong ngày này kiểm định viên đến kiểm
định thì bên nguyên đơn có lý do cho rằng quyết định yêu cầu kiểm định này là cẩu
thả, chỉ để kiểm định cho xong để hoàn tất thủ tục. Nguyên đơn đang rất mong muốn
xe máy cẩu hoạt động sớm để thực hiện dự án, tuy nhiên hậu quả của việc gửi hồ sơ
kiểm định muộn, yêu cầu kiểm định trong ngày của bên Y thể hiện rằng bên Y đang
làm sự việc này rất qua loa, thiếu chuyên nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Ngay bây giờ khi phiên trọng tài này diễn ra thì xe cẩu thậm chí vẫn chưa hoạt động
được. Dẫn đến công ty X là nguyên đơn đã chịu những tổn thất nặng nề về uy tín, kinh
tế, … Vậy nên nguyên đơn kính đề nghị quý Trọng Tài xem xét các tình tiết sự việc,
xem xét hợp đồng và những lập luận của bên X để đáp ứng các yêu cầu như trong đơn
khởi kiện.

Thứ nhất: Yêu cầu Y hoàn trả ngay lập tức số tiền 25.930.400.000 đồng được
cấu thành từ các khoản tiền sau:

10
- Tiền đặt cọc thuê thiết bị: 6.900.000.000 đồng

- Cước vận chuyển 1 chiều: 1.400.000.000 đồng

- Tiền lãi chậm trả tính với hai nguồn tiền trên tính từ thời điểm hoàn tất thanh
toán cho đến thời điểm nộp đơn khởi kiện 25/05/2022. Lãi chậm trả từ thời
điểm này trở đi sẽ được tiếp tục tính theo quy định của pháp luật và theo quyết
định của hội đồng trọng tài.

- Tiền phạt cọc do bị đơn từ chối thực hiện hợp đồng: 6.900.000.000 đồng

- Khoản tiền bồi thường thiệt hại: 10.000.000.000 đồng.

- Phí luật sư: 2.400.000.000 đồng.

Thứ hai: Nguyên đơn X yêu cầu bên Y phải thanh toán toàn bộ các chi phí khác
phát sinh từ quá trình tố tụng.

Tôi xin chân thành cảm ơn hội đồng trọng tài đã lắng nghe phần trình bày của
tôi, xin trân trọng cảm ơn.

11
12

You might also like