You are on page 1of 10

Totem trong nghệ thuật

(Nguồn: Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật số 24/2018, tr.6-13)


Đinh Hồng Hải
Khoa Nhân học, Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN
Email: dinhhaih@gmail.com; ĐT: 0985731933

Tóm tắt: Trong phần trước,chúng ta đã tìm hiểu sự ra đời và phát triển của thuật ngữ totem
và totemism trong nền học thuật của phương tây và sự du nhập của khái niệm này vào Việt
Nam để hình thành nên quan niệm về vật tổ và thuyết vật tổ ở Việt Nam. Trong bài này,
chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu vị trí của totem trong nghệ thuật. Từ đó đánh giá lại totem trong
vai trò một đối tượng của nghệ thuật với các giá trị văn hóa và biểu tượng đặc sắc.
Từ khóa: Totem, sáng tạo nghệ thuật, giá trị biểu tượng
Mở đầu
Trong khi sự “phục sinh” của totemism Việt Nam cho thấy sự tụt hậu khá xa của lý
thuyết khoa học xư hội “ta” so với “tây” thì ph ơng diện nghệ thuật, sự “phục hưng” của
totem lại đóng một vai trò quan trọng đối với nghệ thuật đ ơng đại. Đó là cảm hứng để các
nghệ sĩ sáng tạo nên các hình thức trang trí sống động với vô vàn sắc thái biểu cảm. Có thể
thấy vai trò của totem trong sáng tạo nghệ thuật nh một điểm sáng duy nhất còn sót lại khi
totemism dần đi vào quên lưng. Dễ dàng nhận thấy điều này qua việc sử dụng hoa văn trống
đồng Đông Sơn trang trí chiếc phôi bằng th i hiện đại, hay hình chim trên trống đồng đ ợc
“chim lạc hóa” bằng ngôn ngữ đồ họa trên các t ợng đài hay các ch ơng trình truyền hình,…
Có thể nói, các motif vật tổ luôn là chủ đề sáng tạo vô tận của các nghệ sĩ.
Khác với sự chính xác, khô khan và duy lý của khoa học thì sự bay bổng trong ý
t ng của các nghệ sĩ là chất liệu vô cùng cần thiết để đóng góp cho sự sáng tạo của nghệ
thuật. Đối với các nghệ sĩ thì totem là rồng, cá sấu hay chim lạc không quan trọng, miễn là
chúng tạo niềm cảm hứng cho công việc sáng tác của họ. Phân định rạch ròi các yếu tố này sẽ
giúp chúng ta hiểu thêm về trách nhiệm của nhà khoa học hoàn toàn khác với trách nhiệm của
nghệ sĩ. Vai trò của các nghệ sĩ th i Đông Sơn hay các nghệ sĩ đ ơng đại đều h ớng đến việc
tạo ra những sản phẩm nghệ thuật đẹp nhất cho cộng đồng, trong khi trách nhiệm của nhà
khoa học mọi th i đại đều giống nhau, đó là đi tìm chân lý.
Totem trong nghệ thuật thị giác
Cột totem/totem pole
Theo Từ điển Britannica, cột totem (totem pole) là những cây cột bằng gỗ đ ợc chạm
khắc và sơn vẽ trang trí cầu kỳ, gắn kết theo chiều dọc, đ ợc xây dựng b i ng i da đỏ b
biển tây bắc Mỹ và Canada. Cột totem có bảy loại chính: 1) Cột dùng để t ng niệm và để sử
dụng nh một dấu hiệu nhận biết, cột này đ ợc dựng lên khi một ngôi nhà thay đổi chủ s
hữu để ghi nhớ ng i s hữu tr ớc đây và để xác định ng i chủ hiện tại; 2) Chỉ dấu cho
ngôi mộ, giống nh bia mộ; 3) Cột chính dùng để đỡ mái; 4) Cột cổng mang tính thông tin,
có một lỗ thông vào nhà; 5) Cột cổng chào, đặt mép n ớc để xác định chủ nhân nguồn n ớc;
6) Cột mồ, ghi nhớ nơi đặt tro cốt của ng i quá cố; 7) Những cột biếm khắc về một cá nhân
quan trọng đư thất bại theo cách nào đó với hình t ợng của mình bị chạm lộn ng ợc. Cột
totem đ ợc sử dụng nh là một cách để ghi lại lịch sử và truyền thuyết của các tộc họ hay bộ
lạc.
Totem mang hàm nghĩa là một vị thần giám hộ hoặc tổ tiên của gia đình hay dòng họ
đ ợc tôn kính nh ng không hẳn là để th cúng. Hình con vật to nhất đ ợc chạm khắc trên cột
totem là để nhận biết dòng dõi của chủ gia đình, nó có ý nghĩa giống nh một tấm gia huy
của các dòng họ Anh. Cột totem cũng là một dấu hiệu cho sự giàu có của chủ s hữu, vì

1
việc thuê nghệ nhân thực hiện việc chế tác cây cột này là một khoản đầu t không hề nhỏ.
Phong trào dựng cột totem phát triển đến đỉnh điểm vào khoảng đầu thế kỷ 19, khi việc sản
xuất ra các dụng cụ bằng kim loại chất l ợng cao và sự giàu có thu đ ợc từ việc buôn bán
lông thú đư khiến cho nhiều chủ nhân có thể thực hiện đ ợc điều này. Một số sản phẩm của
th i kỳ này vẫn tồn tại, tuy nhiên, vì khí hậu vùng duyên hải ẩm ớt nên gỗ của cây tuyết
tùng (là loại cây thông dụng làm cột totem) dễ bị mục nát nên th ng chỉ tồn tại trong khoảng
60-70 năm trong điều kiện bình th ng.
Về chất liệu chế tác cột totem, ngoài thân gỗ là cây tuyết tùng tự nhiên thì màu sắc
đ ợc dùng các cột totem là màu tự nhiên nh màu đen đ ợc làm từ than củi hoặc bồ hóng,
màu đỏ lấy từ đất sét đỏ (thổ hoàng), màu xanh từ sunfat đồng khai thác trong tự nhiên,…
Các con vật đ ợc trang trí trên cột totem th ng là quạ t ợng tr ng cho Đấng tạo hóa, đại
bàng t ợng tr ng cho tình bạn, cá voi sát thủ t ợng tr ng cho sức mạnh. Ngoài ra còn có các
con vật khác nh chim thần sấm (thunderbird), hải ly, gấu, chó sói, ếch châu Mỹ với các ý
nghĩa khác nhau.1 Ngoài các con vật đ ợc chọn làm nội dung chính, cột totem còn đ ợc trang
trí bằng các hình hoa văn kỷ hà, hình hình học,…
Mặc dù cột totem là một truyền thống văn hóa của thổ dân da đỏ nh ng hiện nay
chúng đ ợc nhiều nghệ sĩ bao gồm cả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp lựa chọn nh
một đối t ợng đặc biệt để thể nghiệm cảm hứng sáng tạo. Một số công viên tr ng bày cột
totem có trung tâm nghệ thuật cho khách tham quan và trải nghiệm chế tác với những ch ơng
trình dành riêng cho những ng i yêu thích loại hình nghệ thuật này. Một số địa điểm tham
quan nổi tiếng hiện nay luôn thu hút l ợng du khách đông đảo nh Native American Totem
Polesđặt trung tâm Ketchikan Alaska hay Sitka National Historical Park Hoa Kỳ,
Brockton Point Visitor Centre Canada,…
Ngoài những đại diện tiêu biểu của thổ dân da đỏ bắc Mỹ, cột totem còn xuất hiện
nhiều khu vực khác trên thế giới nh ng i Maori New Zealand, ng i Ainu Nhật Bản
cùng nhiều nhóm thổ dân châu Phi, đặc biệt là Madagasca,… Việt Nam, hầu hết các
tộc ng i c trú vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đều tồn tại dạng cột t ơng tự.Tuy
nhiên, về chức năng thì không giống nh cột totem Bắc Mỹ (gắn với gia đình và dòng tộc)
mà gắn với cộng đồng và đ ợc sử dụng chủ yếu cho các nghi lễ của cộng đồng.Vì vậy, chúng
th ng đ ợc gọi là cột lễ hoặc cột đâm trâu (do gắn với nghi lễ đâm trâu trong những dịp tế
lễ của cộng đồng).Về hình thức trang trí, các cột lễ th ng sử dụng các motif trang trí gắn với
động vật và thực vật của địa ph ơng.
Hiện nay, việc chế tác và sử dụng những cây cột lễ của các tộc ng i thiểu số Việt
Nam vẫn diễn ra một cách sống động trong đ i sống của cộng đồng nh một phần không thể
thiếu của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và giao thoa văn hóa với
các tộc ng i khác, đặc biệt là ng i Kinh, các thành tố văn hóa đ ợc thể hiện qua những cây
cột lễ các tộc ng i thiểu số Việt Nam ít nhiều đư đ ợc “hiện đại hóa.” Chẳng hạn,các
họa tiết trang trí cây cột lễ đ ợc sử dụng làm motif trang trí của những cây cột điện, t ợng
đài, cụm trang trí kiến trúc,… trên các công trình công cộng. Ng ợc lại, những yếu tố văn
hóa hiện đại lại đ ợc sử dụng làm motif chế tác trên những cây cột lễ nh súng, máy bay,
ngôi sao,…
Totem trong nghệ thuật trang trí
Cùng với các dạng cột lễ hay cột totem đ ợc thể hiện nh một sự tiếp nối văn hóa
truyền thống các nền văn hóa thì motif totem còn đ ợc sử dụng một cách hết sức phổ biến
trong các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng hiện đại. Từ đơn giản nh hình chim lạc trên mặt
trống đồng chiếc phôi bằng mà chúng tôi đư đề cập trên đến phức tạp nh Tượng đài chim
lạc Thanh Hóa (hình 4). Năm 2008, ý t ng từ totem trong bộ trang phục Hùng ca chim lạc

1
Xem mục từ “totem pole” trong Bách khoa thư Britannica, https://www.britannica.com

2
do Tiến Đoàn tự thiết kế đư góp phần giúp anh giành ngôi vị Mister International (đ ợc dịch
là Nam v ơng, t ơng đ ơng nh Hoa hậu thế giới đối với nữ) tại Đài Loan (hình 1). Trong
cuộc thi Hoa hậu thế giới 2012, ứng viên Hoàng My mặc bộ trang phục Âu Lạc do nhà thiết
kế Lê Thanh Hòa thực hiện (hình 2).
Không chỉ đ ợc thiết kế cầu kỳ để dự thi Hoa hậu mà trong nhiều ch ơng trình thông
th ng khác, các bộ trang phục dạng này cũng đ ợc đầu t hết sức công phu và đắt giá.
Chẳng hạn nh bộ trang phục sử dụng motif trống đồng Đông Sơn của Bảo Anh trong
ch ơng trình âm nhạc The Remix 2015 đ ợc nhà thiết kế Lê Long Dũng đặt tên là Âm Vang
Trống Đồng nặng 20kg và trị giá tới 2 tỉ đồng (hình 3). Tinh vi hơn, hưng đồng hồ cao cấp
Speake-Marin đư cho ra đ i những chiếc đồng hồ khắc hình trống đồng Đông Sơn mang tên
Dong Son Tourbillon Titanium 5N có giá gần 100 nghìn đôla Mỹ (hình 5).

Hình trên: Theo thứ tự 1) Nam v ơng Tiến Đoàn (zing.vn); 2) Hoa hậu Hoàng My (kenh14.vn); 3) Ng i mẫu
Bảo Anh (vtv.vn)

4) T ợng đài chim lạc Thanh Hóa (sggp.org.vn);5) Đồng hồ Dong Son Tourbillon (dantri.com.vn)

Cho đến nay, các motif vật tổ/totem đư đ ợc m rộng vô giới hạn đến các vật phẩm
trang trí đ ng phố nh đèn trang trí lễ hội (hình 6) Hà Nội, Hội An, Tp. Hồ Chí Minh và
nhiều tỉnh, thành khác. Thậm chí một con “vật tổ” quan trọng của ng i Việt là con rồng đư
biến thành nhân vật hoạt hình Pikachu trên đ ng phố Hải Phòng (hình 7). Nhiều trung tâm
tiệc c ới cũng lấy các con “vật tổ,” đặc biệt là chim “lạc,” làm motif trang trí chủ đạo, nhiều

3
công trình kiến trúc cho trang trí trần nhà, nền nhà hình trống đồng với “đàn chim lạc” bay
quanh. Có thể nói, motif totem rồng, lạc,… là một nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các
nghệ sĩ trong nghệ thuật trang trí. Chúng mang đến những cảm giác t ơi mới cho nghệ thuật
đ ơng đại bất chấp những tranh luận xung quanh đối t ợng này d ới góc độ khoa học.

6) Đèn lồng Rồng Hà Nội (plo.vn);7) Rồng Pikachu Hải Phòng (vtc.vn)
Đi xa hơn, một số nhóm nghệ sĩ trẻ đư tập hợp với nhau để cùng đi tìm ý t ng sáng
tạo cho những con “vật tổ” mà họ yêu thích. Những đồ án trang trí dạng này đư khiến cho
hình thức biểu hiện của totem tr nên vô cùng sống động. D ới đây làví dụ về một “bộ s u
tập” hoàn toàn mới về hình thức biểu hiện của “chim lạc” đ ợc một nhóm nhà thiết kế Việt
Nam (nhóm Infinite Vietnam, tập hợp trong website: https://forum.vietdesigner.net) tạo ra
nh một minh chứng cho sự sáng tạo vô giới hạn về biểu hiện của totem trong nghệ thuật
đ ơng đại.

Qua đó có thể thấy, mặc dù totemism cho tới nay không còn đ ợc quan tâm nh ng
những cảm hứng về vật tổ, về trống đồng hay về những vị tổ mơ hồ vẫn còn nguyên giá trị.
Chúng giúp cho các nghệ sĩ tìm cảm hứng sáng tạo bằng những chất liệu huyền thoại pha lẫn
lịch sử. Chẳng hạn nh những bức tranh về Thánh Gióng của Nguyễn T Nghiêm
(1978,1990), hay Quốc tổ Hùng Vương của Trọng Nội (1966) trong dinh Độc Lập,… là
những ví dụ tiêu biểu. Có thể nói, totem trong nghệ thuật thị giác là một minh chứng rõ nét

4
cho thấy một “ảo t ng” khoa học (chữ dùng của Levi-Strauss) có thể không đóng góp cho
khoa học nh ng lại hoàn toàn có thể đóng góp cho các ý t ng nghệ thuật. Những ý t ng
nh vậy không chỉ có trong nghệ thuật thị giác mà còn tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong
nghệ thuật ngôn từ, trong văn học sử, trong âm nhạc và trong nghệ thuật thứ bảy.
Totem trong một số loại hình nghệ thuật khác
Totem trong nghệ thuật ngôn từ
Từ một ph ơng ngữ của ng i Ozibwa bắc Mỹ, totem đư tr thành một hiện t ợng
độc đáo nằm trên lằn ranh của văn học và nhân học trong thế kỷ 20 khi đ ợc đ a vào trong
các tác phẩm nghiên cứu bằng văn phong khoa học. Điều đó cho thấy sức mạnh to lớn của
nghệ thuật ngôn từ trong văn học hay diễn ngôn trong nhân học. Một sự nhầm lẫn của John K.
Long về mặt ngôn ngữ và văn hóa đư “biến” totem tr thành một đối t ợng nghiên cứu trọng
tâm của các nhà nhân học cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 chỉ với một thao tác “từ điển hóa” của
John McLennan. Từ totem trong bách khoa th Chamber Encyclopedia năm 1865, thuật ngữ
này tiến b ớc vào khoa học trong vai trò là một trong những thuật ngữ khoa học thịnh hành
nhất trong một thế kỷ tiếp theo.
Đi xa hơn, totem đ ợc “khoa học hóa” bằng nghệ thuật ngôn từ để biến thành
totemism, một thuật ngữ th i th ợng chỉ loại tôn giáo sơ khai của loài ng i th i kỳ “mông
muội.” Thuật ngữ này bao quát nhiều diễn đàn học thuật có liên quan đến tôn giáo, tín
ng ỡng và đ i sống của loài ng i giai đoạn “nguyên thủy.” Nó đ ợc dùng để lý giải nhiều
vấn đề có liên quan đến đ i sống văn hóa xư hội của loài ng i giai đoạn này. Xa hơn, nó
còn đ ợc dùng để quy gán cho các tín ng ỡng đ ợc coi là “sơ khai” các nền văn hóa bản
địa để từ đó các chính quyền thực dân áp đặt chính sách “khai hóa văn minh.”
Quan điểm về một tôn giáo sơ khai đ ợc gọi là totemism cũng là một thuật ngữ chiếm
u thế (dominant) trong nền học thuật giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và tạo ảnh
h ng sâu sắc tới nhiều học giả và nhiều nền học thuật trên thế giới. Cho đến khi thuyết
t ơng đối văn hóa (cultural relativism) của Fran Boas ra đ i thì việc đi tìm một tôn giáo
nguyên thủy phổ quát của nhân loại mới đi đến giai đoạn thoái trào trong nền học thuật
ph ơng tây. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục đ ợc sử dụng các nền học thuật “đi sau” nh Việt
Nam mà chúng tôi sẽ tr lại trong chuyên mục sau.
Không chỉ làm khuynh đảo nền học thuật ph ơng tây giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế
kỷ 20, totem và totemism còn góp phần đặt nền móng cho sự ra đ i của một bộ môn nghiên
cứu mới: Phân tâm học.2 Có thể coi đây nh một trong những đóng góp quan trọng nhất của
Sigmund Freud đối với bộ môn tâm thần, mặc dù những suy luận của ông về câu chuyện
những ng i đàn ông nguyên thủy “giết cha, lấy mẹ” và th ng i cha bị giết đó làm totem
trong phức cảm oedipe cũng chỉ là một huyền thoại. Gi đây, với trình độ khoa học phát triển
của ph ơng tây những suy luận nh vậy về totem không còn đ ợc bàn đến nữa và toteism thì
đư đ ợc “chôn cất” cách nay hơn ba thập niên đúng nh J. F. Dourtier đư gọi là “Cái chết của
một khái niệm.”3 Tuy nhiên, Việt Nam thì totem vẫn có một đ i sống riêng trong tác phẩm

2
Phân tâm học (psychoanalysis) là một hệ thống tâm lý có nguồn gốc từ những khám phá của Sigmund Freud.
Kh i đầu nh là một ph ơng pháp dùng để chữa trị một số rối loạn nhiễu tâm ( psychoneurotic disorders), rồi
phân tâm tr thành nền tảng cho một học thuyết chung về tâm lý. Kiến thức xuất phát từ việc điều trị những
bệnh nhân dẫn đến việc hiểu đ ợc về nghệ thuật, tôn giáo, tổ chức xã hội,sự phát triển của trẻ em và giáo dục.
Ngoài ra, bằng cách giải thích đ ợc ảnh h ng của các mong ớc và cảm nhận có tính vô thức trên sinh lý của
cơ thể, phân tâm có thể giúp hiểu đ ợc và điều trị các bệnh lý tâm thể (psychosomatic disorders).Theo Tâm lý
học thần kinhhttp://www.tamlyhocthankinh.com. Truy cập 26/8/2017
3
Trong mục này ông đư nhận định nh sau: “Sau khi giữ một vai trò lớn, tục th vật tổ đư bị vứt bỏ, bị đ a
xuống hàng những ảo giác về quá khứ. Một ảo giác khoa học cho thấy rằng các nhà tộc ng i học cũng có
những tín ng ỡng và huyền thoại của họ.”Dortier, J. F. (2004), “Vật tổ - Câu chuyện một ảo ảnh khoa

5
nghệ thuật và totemism thì vẫn tiếp tục đ ợc bàn luận sôi nổi cả trong trong học thuật và
nghệ thuật.
Totem trong văn học sử Việt Nam
Khác với sự phát triển theo h ớng lý thuyết hóa trong nền học thuật ph ơng tây,
totem Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ theo h ớng văn học sử4 do văn học và sử học
Việt Nam đều có sự gắn bó chặt chẽ với huyền sử (chữ dùng của GS. Trần Quốc V ợng).
Cho đến nay, truyền thống này vẫn phát triển mạnh mẽ với vô số sử thi, huyền thoại, truyền
thuyết,… đan xen trong các công trình dạng này. Đây chính là mảnh đất màu mỡ cho các
huyền thoại về totem “đơm hoa kết trái” với nhiều công trình đ ợc xếp vào sử học nh ng
thực chất là các tác phẩm văn học sử vì tính văn ch ơng v ợt trội hơn nhiều so với tính lịch
sử. Thậm chí, trong những bộ quốc sử đồ sộ nh Lịch sử Việt Nam thì những huyền thoại nh
Trăm trứng hay Thánh Gióng vẫn đ ợc đ a vào nội dung trọng yếu.
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan trọng về lịch sử Việt Nam
lại có các phần viết t ơng tự nh văn học sử. Đặc biệt, hiện t ợng huyền thoại hóa lịch sử
(mythologization of history) vàlịch sử hóa huyền thoại (historization of myth) hết sức phổ
biến nhiều công trình quan trọng mà chúng tôi đư dẫn ra các nghiên cứu tr ớc.5 Thông
qua những thao tác này, các nhân vật hay sự kiện lịch sử có thực biến thành những huyền
thoại nh bài thơ Nam quốc sơn hà biến thành thơ thần hay Đinh Bộ Lĩnh là con của rái cá,…
Ng ợc lại, những nhân vật thần thoại và những truyền thuyết mơ hồ lại đ ợc lịch sử hóa
thành những nhân vật và sự kiện lịch sử nh Thánh Gióng đ ợc sinh ra b i bà mạ giẫm phải
vết chân, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra bọc trứng,… Điển hình cho thao tác này là việc
biến con chim lạc t ng t ợng thành huyền thoại về totem của ng i Việt rồi đẩy xa hơn nữa
thành các motif chim lạc trên trống đồng Đông Sơn để khẳng định mối quan hệ giữa hình
ng i và hình chim trên trống đồng chính là ng i Lạc Việt và chim lạc vật tổ.
Có thể nói, quá trình hàn lâm hóa một ph ơng ngữ của ng i Ozibwa đã biến
totemism thành một câu chuyện huyền thoại của học thuật th i hiện đại. Sự lẫn lộn hay đan
xen giữa văn học với sử học hay giữa tác phẩm nghệ thuật h cấu và tác phẩm khoa học đư
khiến cho câu chuyện về totem tr nên li kỳ hơn cả những huyền thoại mà những ng i thổ
dân da đỏ Ojibwa có thể nghĩ ra. Khi du nhập vào Việt Nam, totemism đư biến thành một
“học thuyết” quan trọng giúp các học giả hàng đầu dựa vào đó để chứng minh cho sự tồn tại
của vật tổ của ng i Việt là những loài động vật hay thực vật. Đi xa hơn, một số nhà nghiên
cứu theo tr ng phái này còn tìm cách chứng minh những biểu hiện của vật tổ hiện diện trên
các hiện vật khảo cổ. Chính điều này đư khiến cho nhiều ng i Việt càng thêm tin vào
“huyền thoại chim lạc” và các loại “vật tổ” khác mới đ ợc “tìm” ra.
Ngày nay, totemism trong nền học thuật ph ơng tây hầu nh không còn đ ợc nhắc
đến nh một học thuyết quan trọng về một tôn giáo phổ quát của nhân loại nh ng nó vẫn còn
đ ợc đ a vào trong các môn học lịch sử nh Lịch sử nhân học hay Lịch sử tôn giáo nh một
giai đoạn phát triển của lý thuyết nghiên cứu tôn giáo. Tuy nhiên, trong văn học và nghệ thuật
thì đây vẫn là một chủ đề tiếp tục đ ợc khai thác bằng nhiều công cụ khác nhau. V ợt ra
ngoài phạm vi của văn ch ơng và nghệ thuật ngôn từ, những “vật tổ” này tiếp tục tr thành

học.”Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4/2004.Đăng lại trong Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
tháng 7-2009,Việt Chung dịch.
4
Văn học sử (historical literature) là những câu chuyện đ ợc đặt ra trong quá khứ, dựa trên kiến thức lịch sử,
hoặc dựa trên thực tế đôi khi chứa đựng những sự thực lịch sử.Thông qua đó để giáo dục thê hệ trẻ bằng cách
học tậptừ những sai lầm hay sự kiện đư xảy ra trong quá khứ. Tóm l ợc theo Britannica, tlđd.
5
Xem: Đinh Hồng Hải (2015), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam, tập 2: Các vị
thần, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 152 và 169.

6
chủ đề sáng tác trong âm nhạc và điện ảnh tạo nên một làn sóng nghệ thuật hóa totem bằng
ngôn ngữ của âm nhạc và điện ảnh.
Totem trong âm nhạc và điện ảnh
Bên cạnh sự ảnh h ng đối với nghệ thuật thị giác, nghệ thuật ngôn từ và văn học sử
nh đư nêu, totem còn có sự ảnh h ng mạnh mẽ tới các lĩnh vực nghệ thuật khác nh âm
nhạc và điện ảnh. Việt Nam, những bài hát lấy totem làm cảm hứng nh Dòng máu Lạc
Hồng, Bản Hùng Ca Chim Lạc, Hùng Thiêng Âu Lạc (Đan Tr ng), Lời Ru Âu Lạc (Hoàng
Hải Đăng) Nòi Giống Rồng Tiên (La Nhất Huy), Huyền Sử Âu Lạc (Thanh Thúy, L ơng Chí
C ng),… luôn tạo đ ợc một l ợng fan hâm mộ đông đảo. Nh ng l ợng fan của các tác
phẩm âm nhạc nói trên của Việt Nam không “thấm tháp” gì so với l ợng độc giả và khán giả
kỷ lục của tác phẩm Totem sói trong văn học và điện ảnh Trung Quốc.
Bất chấp phản ứng của giới học thuật hàn lâm về sự tồn tại của thuyết vật tổ, nhu cầu
sáng tạo đư biến vật tổ thành một đối t ợng ăn khách để các nhà văn, nhà làm phim, nghệ
sĩ,… khai thác qua các tác phẩm của mình. Ng i gặt hái đ ợc thành công lớn nhất khi đi
theo h ớng này là Kh ơng Nhung (tên thật là Lư Gia Dân/Lu Jiamin/呂嘉民) với tiểu thuyết
Totem sói (Lang đồ đằng/Lang Tuteng/狼图腾). Cuốn sách này đ ợc xuất bản lần đầu năm
2004 và ngay lập tức bán đ ợc 50.000 bản chỉ trong hai tuần, cuốn sách này sau đó đư bán
đ ợc hàng triệu bản, tạo nên một kỷ lục về xuất bản Trung Quốc. Tiếp theo đó, nhà xuất
bản nổi tiếng Penguin đư mua bản quyền cho phiên bản tiếng Anh trên toàn cầu với giá
100.000 đô-la. Nhiều nhà xuất bản khác cũng đư mua bản quyền bản dịch cho nhiều thứ tiếng
khác khiến Totem sói tr thành một cuốn sách “best-seller” châu Á năm 2007. Năm 2015,
Totem sói đ ợc đạo diễn Jean-Jacques Annaud dựng thành phim, tr thành một trong những
bộ phim ăn khách nhất Hoa lục.
Tuy nhiên trong lịch sử, ng i Trung Hoa coi rồng là tổ tiên của họ với quan niệm
long đích truyền nhân (龍的傳人). Nh ng trong Totem sói, Kh ơng Nhung muốn truyền
“lửa” cho thế hệ trẻ Trung Quốc bằng cách thổi bùng lên tích cách hoang dã và mạnh mẽ của
loài sói. Điều này phù hợp với Trung Quốc mộng – một khẩu hiệu của Chủ tịnh Trung Quốc
Tập Cận Bình trong việc cổ súy cho tinh thần v ơn lên mạnh mẽ của Trung Quốc, 6 hay nói
nh Kh ơng Nhung, đó là “sói tính” cần thiết để dân tộc Trung Hoa v ơn lên. Nh ng d ng
nh Kh ơng Nhung đư có sự nhầm lẫn về mặt lịch đại vì “sói tính” chỉ phù hợp với th i đại
của các chiến binh du mục x a mà khó có thể chấp nhận đ ợc trong một “thế giới phẳng” với
“sức mạnh mềm” và “trí tuệ tính” của nền văn minh nhân loại ngày nay. Vì vậy, sự cổ súy
cho “sói tính” trong tác phẩm của ông bị Wolfgang Kubin, một nhà Hán học ng i Đức,
cùng nhiều học giả khác chỉ trích là cổ súy cho chủ nghĩa phát xít.7
Từ quan niệm về vật tổ là rồng hay kì lân tr ớc đây và totem sói hiện nay, có thể nhận
thấy một sự dịch chuyển về mặt quan niệm của ng i Trung Quốc từ từ rồng, kỳ lân sang sói
hay từ linh vật cung đình sang linh vật hoang dã. Điều này còn đ ợc thấy rõ hơn với sự thành
công vang dội của bộ phim Chiến binh sói II (Zhanlang /战狼 2) có doanh thu cao nhất trong
lịch sử điện ảnh Trung Quốc, gần một tỷ đô-la chỉ trong hơn một tháng công chiếu năm 2017.
Có thể nói, từ Totem sói đến Chiến binh sói là một sự thành công v ợt bậc của “Trung Quốc

6
Thực ra không phải ch đến khẩu hiệu của Tập Cận Bình ngày nay mà trong lịch sử, t t ng “đại Hán tộc chủ
nghĩa” đư coi các chủng tộc bốn ph ơng (đông, tây, nam, bắc) là mọi rợ (Man-Di-Nhung-Địch/蠻夷戎狄), chỉ
có ng i Hán giữa (Hoa Hạ) là người (Hán nhân/暵人) mà thôi. Ng i Việt Nam thuộc nhóm Man chỉ ng i
phía nam (nam man/南蛮) có Lạc Việt (雒越), Âu Việt (甌越), hay còn gọi là Tây Âu – (西甌),Câu Ngô (句
吳), Việt (於越), D ơng Việt (揚越), Cán Việt (干越), Sơn Việt (山越), Dạ Lang (夜郎), Điền Việt(滇越 / 盔
越), Mân Việt,…
7
N.M.Hà (2007), “Hiện t ợng “Totem Sói,” trên báo Tiền phong, xem: http://www.tienphong.vn/van-nghe/hien-
tuong-to-tem-soi-95740.tpo truy cập 29/8/2017

7
mộng” do thực hiện đúng chủ tr ơng, chính sách của Đảng và nhà n ớc Trung Quốc. Có thể
coi đây nh một quá trình“sói hóa vật tổ” của ng i Trung Quốc, tuy không phù hợp với sự
phát triển của khoa học hiện đại nh ng lại mang tới thành công ngoạn mục trong doanh thu
và trong việc sáng tạo nên một totem mới: Chó sói.
Totem trong vai trò biểu tượng
Tới đây, một câu hỏi cần đặt ra là tại sao totemism d ng nh đư kết thúc vai trò của
nó trong khi totem vẫn tồn tại và phát triển theo chiều h ớng của nghệ thuật bao gồm cả nghệ
thuật ngôn từ cũng nh nhiều loại hình nghệ thuật khác? Điều này có liên quan mật thiết đến
một đặc tính quan trọng của totem, đó là tính biểu t ợng. Nh chúng tôi đư trình bày trong
các nghiên cứu tr ớc, totem trên thực tế chỉ là một từ ngữ bình th ng nh bao từ ngữ khác
trong ngôn ngữ của ng i Ozibwa. Nh ng chắc rằng nó đư gây ấn t ợng rất mạnh đối với
John K. Long trong lần đầu tiên ông đặt chân tới vùng đất của ng i Ozibwa. Bằng chứng là
ông đư ghi tâm từ này để rồi sau đó liên hệ nó với các nghi lễ th cúng vật tổ và dẫn đến sai
lầm của John McLennan sau này. Một điều có thể đư gây ấn t ợng mạnh nữa đối với John K.
Long nh ng ít đ ợc nhắc đến, đó là những cột totem, biểu t ợng quan trọng của thị tộc hay
dòng họ của ng i da đỏ.
Vì vậy, thuật ngữ totem, cột totem, hay những hình ảnh về totem trong văn hóa của
ng i Ozibwa cũng t ơng tự nh thuật ngữ tổ tiên, cột lễ, hay hoa văn trống đồng trong văn
hóa Việt Nam, tất cả đều là những biểu t ợng đặc tr ng của văn hóa bản địa. Sức sống
tr ng tồn của totem cho đến nay chính là nh đặc tính này. D ng nh “đất sống” của nó
không phải là các công trình kinh điển về lý thuyết mà chính là các tác phẩm nghệ thuật.
Vì vậy, một lý thuyết sai sẽ đi vào quên lưng nh ng một biểu t ợng dù là có thực hay không
cũng đều tr thành đối t ợng của nghệ thuật và đều có thể đ ợc đ a vào các tác phẩm nghệ
thuật kinh điển. Những biểu t ợng nh vậy chúng ta từng đ ợc chiêm ng ỡng trong các tác
phẩm của những bậc thầy hội họa th i Phục h ng Ý thế kỷ 15, 16 nh những thiên thần có
cánh hay những cảnh sắc thiên đ ng.
Sau khi du nhập vào Việt Nam, totem và totemism đ ợc đón nhận một cách nhiệt
thành bằng các tên gọi Việt hóa là vật tổ và thuyết vật tổ hay còn gọi là đạo vật tổ/totem giáo.
D ng nh thuyết vật tổ đư giúp giải tỏa “cơn khát” tìm về cội nguồn bằng một lý thuyết
nhập ngoại. Nó nhanh chóng đ ợc sử dụng để soi chiếu vào cội nguồn đ i sống tôn giáo và
tín ng ỡng của các tộc ng i Việt Nam để xác định totem của mỗi tộc ng i hay nhóm địa
ph ơng. Vì vậy, không chỉ ng i Việt/Kinh có totem rồng, chim lạc, các sấu,… mà các tộc
ng i khác cũng có totem nh cây chu đồng của ng i M ng (Phan Hữu Dật), cây gạo của
ng i Ba Na và Xơ Đăng, cây rau dớn của ng i Kh’Mú (Đặng Nghiêm Vạn),…8
Tuy nhiên, những gì mà các nhà khoa học từ x a tới nay gọi là totem thì trên thực tế
đều có thể gọi bằng một cái tên khác hoàn toàn phù hợp, đó là các biểu t ợng. Từ cột totem
bắc Mỹ đến cột lễ Việt Nam hay các hoa văn hình chim trên trống đồng đều là các biểu
t ợng đ ợc tạo ra nhằm phục vụ những mục đích hết sức cụ thể nh cột totem bắc Mỹ hay
cột lễ Tây Nguyên mà chúng tôi đư dẫn trên. Riêng với những hiện vật cổ và phức tạp
nh trống đồng thì việc tìm hiểu mục đích sáng tạo của các nghệ nhận x a để làm gì là không
hề dễ dàng, vì vậy các giả thuyết hiện nay vẫn chỉ dừng mức độ suy đoán. Vì vậy, chúng ta
cần phải đọc đ ợc ngôn ngữ biểu t ợng qua những thông điệp mà ng i x a đư để lại thì mới

8
Xem: Phan Hữu Dật (2005), “Cây chu đồng trong thần thoại M ng và totem cây trong tín ng ỡng của một số
dân tộc n ớc ta,” Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4/2005. Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn
Văn Huy, Thanh Thiên (1972), Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam á ở Tây Bắc Việt Nam.Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội 1972, tr. 123-128.

8
có thể khám phá đ ợc các giá trị văn hóa đó.9 Có thể mô hình hóa mục đích sử dụng của các
biểu t ợng thông qua sơ đồ sau:
Cái biểu Hình
đạt thức
Ký Ngôn ngữ Biểu Mục đích
Cái đ ợc hiệu biểu t ợng t ợng Nội sử dụng
biểu đạt dung

Quy trình biểu t ợng hóa (Nguồn: Đinh Hồng Hải 2014)

Sự xác nhận totem trong vai trò là những biểu t ợng, thực ra, đư đ ợc Durkheim,
Levi-Strauss, Trần Quốc V ợng,… đề cập đến. Chẳng hạn, Durkheim cho rằng “sự th ng
hằng và sự liên tục của thị tộc chỉ yêu cầu một biểu t ợng; biểu t ợng này có thể là – và vào
lúc đầu, phải là – một kí hiệu tùy tiện.”10 Những kí hiệu này, chính là những “kí tự” để chúng
ta có thể “đọc” (hay giải mư) ý nghĩa của các biểu t ợng, hay nói đúng hơn là các motif nghệ
thuật đư đ ợc tạo ra trong các nền văn hóa. Cách “đọc” này đư đ ợc Alfred Gell chỉ ra trong
công trình nghiên cứu cuối đ i của ông về nhân học nghệ thuật – một h ớng tiếp cận mới đối
với các biểu t ợng hay các motif nghệ thuật mà chúng ta có thể sử dụng để quan sát totem
một cách khách quan hơn.
Để tránh những sai sót không đáng có nh thuyết vật tổ Việt Nam th i gian qua,
chúng ta cần có sự phân định rạch ròi giữa totem với vật linh hay totem với tổ tiên và việc đi
tìm nguồn gốc của ng i Việt cũng cần đ ợc bàn đến bằng những h ớng tiếp cận khoa học
cập nhật. Để giải quyết vấn đề này thì h ớng tiếp cận nhân học nghệ thuật của Alfred Gell tỏ
ra là một công cụ khả dụng. Tuy nhiên, do tác phẩm của ông mới đ ợc xuất bản ngay tr ớc
thềm thế kỷ 21 nên còn ít đ ợc biết đến Việt Nam nên chúng tôi đư có một bài giới thiệu
khái l ợc về lý thuyết này.11 Hy vọng rằng, h ớng tiếp cận mới của Alfred Gell sẽ giúp cho
các nhà nghiên cứu Việt Nam có thêm một h ớng tiếp cận lý thuyết cập nhật thay vì phải
sử dụng một lý thuyết sai và đư quá lỗi th i nh thuyết vật tổ.
B ớc sang thế kỷ 21, ngày càng có nhiều hệ thống lý thuyết khoa học mới ra đ i,
nhiều công cụ nghiên cứu hiện đại đ ợc phát minh. Những nhận định lỗi th i sẽ dần đ ợc
chứng minh bằng những ph ơng pháp luận mới, thao tác luận mới và công nghệ mới khả tín
nh ngôn ngữ học so sánh, nhân học lịch sử, đặc biệt là công nghệ gen (gene) và nhân học
phân tử (molecular anthropolgy).Vì vậy, những lý giải về những motif nghệ thuật đặc biệt
nh cột totem, cột lễ hay hình chim trên trống đồng không chỉ đóng khung trong các quan
điểm khảo cổ học hay văn học sử mà còn có thêm nhiều ph ơng pháp ph ơng pháp nghiên
cứu mới. Hy vọng rằng, với các h ớng tiếp cận mới này, chúng sẽ đ ợc giả mư trong một
t ơng lai không xa.
Tài liệu trích dẫn:
Dortier, J. F. (2004), “Vật tổ - Câu chuyện một ảo ảnh khoa học.” Huyền Giang dịch, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 4/2004

9
Vấn đề đề này thực ra đư đ ợc các nhà Ai Cập học thực hiện một cách hết sức khoa học thông qua việc giải mã
chữ t ợng hình Ai Cập để ghi lại lịch sử huy hoàng của Ai Cập cổ đại.
10
Dẫn lại theo Levi-Strauss, Claude (2017), Định chế Totem hiện nay, Nguyễn Tùng dịch,Nxb. Tri thức, Hà Nội
2017, tr.189.Các quan điểm của Levi-Strauss cũng đ ợc đề cập trong cuốn sách này và của Trần Quốc V ợng
chúng tôi đư dẫn nghiên cứu tr ớc.
11
Alfred Gell (1998), Art and Agency: An Anthropological Theory. Oxford: Clarendon. Xem thêm: Đinh Hồng
Hải (2012), Từ “Kỹ thuật&Ma thuật” đến “Nghệ thuật&tác lực” qua góc nhìn của Alfred Gell, Tạp chí Tia
sáng số 13, 2012

9
Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn Văn Huy, Thanh Thiên (1972), Những nhóm
dân tộc thuộc ngữ hệ Nam á ở Tây Bắc Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1972
Đinh Hồng Hải (2012), Từ “Kỹ thuật&Ma thuật” đến “Nghệ thuật&tác lực” qua góc nhìn của
Alfred Gell, Tạp chí Tia sáng số 13, 2012
Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng: Một số hướng tiếp cận lý thuyết. Nxb. Thế
giới, Hà Nội
Đinh Hồng Hải (2015), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam,
tập 2: Các vị thần, Nxb. Thế giới, Hà Nội
Gell, Alfred (1998), Art and Agency: An Anthropological Theory. Oxford: Clarendon
Levi-Strauss, Claude (2017), Định chế Totem hiện nay, Nguyễn Tùng dịch,Nxb. Tri thức, Hà
Nội 2017, tr.189. Các quan điểm của Levi-Strauss xem sđd. trên và của Trần Quốc V ợng
đư dẫn mục tr ớc.
N.M.Hà (2007), “Hiện t ợng “Totem Sói,” trên báo Tiền phong, xem:
http://www.tienphong.vn
Phan Hữu Dật (2005), “Cây chu đồng trong thần thoại M ng và totem cây trong tín ng ỡng
của một số dân tộc n ớc ta,” Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4/2005
Từ điển Britannica, https://www.britannica.com. Truy cập: 1/8/2017
Wolfgang Kubin trả l i phỏng vấn của Deutsche Welle (DW).Chi tiết xem:
http://www.zonaeuropa.com/culture/c20061214_1.htm Xem: Truy cập: 1/9/2017
Tâm lý học thần kinhhttp://www.tamlyhocthankinh.com.Truy cập: 26/8/2017

10

You might also like