You are on page 1of 3

Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của

Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa


Nguyên đơn: Ông Phan Hai, sinh năm 1939
Bị đơn: Ông Phan Quốc Thái, sinh năm 1977
Nội Dung: Giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ vụ
án
Tại đơn kháng cáo ngày 15/05/2017, nguyên đơn ông Phan Hai kháng
cáo quyết định đình chỉ vụ án nêu trên với lý do: Toà án cho rằng ông
Hai không cung cấ được giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu tài sản
với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành 0926009 là
không thoả đáng.
Căn cứ theo Điều 105/115 bộ Luật Dân Sự 2015, Khoảng 16 Điều 3
Luật Đất Đai năm 2013 thì “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” chỉ
là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản
chứng quyền, không phải là tài sản, không thể xem đó là giấy tờ có giá
nên không thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án của toà án. Ông Hai
kháng cáo. Tòa phúc thẩm quyết định tiếp tục đình chỉ vụ án và trả lại
đơn kiện cho ông Hai
Tóm tắt Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa
án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long
Nguyên đơn là ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H, cùng sinh năm 1954,
người Đại Diện theo uỷ quyền là Luật sư Nguyễn Ngọc Sang và Luật
sư Huỳnh Ngọc Chiêu
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Thủy T, sinh năm 1979, người đại diện theo
uỷ quyền là anh Bùi Văn Kh
Nội Dung: Ông B và Bà H khởi kiện yêu cầu bà T trả lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AM 090902 cho ông B và bà H.
Năm 2012, trong lúc ông B dọn hết đồ nhà ra sân để sửa nhà, sau 10
ngày dọn dẹp thì phát hiện bị mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AM 090902 nên đã đi tới UBND huyện để xin cấp lại. Việc đã
được UBND huyện Long Hồ xác nhận ngày 18/10/1012. Ngay sau đó,
UBND huyện Long Hồ đã ban hành quyết định 3643/QĐ.UBND huỷ
bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông B bị mất và cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông B mang số hiệu BM
904331. Nhưng sau đó bị bà T tranh chấp vì bà T đưa ra Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mà ông B báo mất nên UBND đã thu hồi
quyết định 3643/QĐ.UBND . Lúc này, Bà T yêu cầu ông B trả số tiền
là 120.000.000 đồng đã nợ thì mới trả lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên. Tuy nhiên sau đó bà T đã rút lại yêu cầu đòi
nợ nhưng vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B và
bà H. Căn cứ theo Khoảng 2 Điều 4; Khoảng 14 Điều 26 và Điều 45
Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
và buộc bà T phải giao trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hai người ông B và bà H.
Tóm tắt vụ án “Cướp tài sản” trong bản án số 841/2023/HS-
PT ngày 01/11/2023.
Các bị cáo; Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí Hải, Trịnh
Tuấn Anh, Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Bùi Quang
Chung, Phạm Văn Thành, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Đức
Người bị hại: ông Lê Đức Nguyên
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Trương Ngọc Lệ, Ngân
hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB).
Vấn đề tranh chấp: Cướp tài sản.
Nội dung: Các bị cáo tìm anh Nguyên để đòi lại số tiền đã đầu tư vào
các sàn tiền ảo. Đến ngày 17/5/2020, các bị cáo đuổi theo anh Nguyên
và khống chế anh cùng người đi cùng là anh Hiếu. Trong quá trình
khống chế, các bị cáo đã thao tác và chiếm đoạt được số tài sản gồm
03 điện thoại di động, 01 camera hành trình có tổng trị giá là
45.115.000 đồng và 168 Bitcoin rồi quy đổi 86,91 BTC (Bitcoin)
được 18.880.000.000 đồng. Nhận định và quyết định của Tòa án: Căn
cứ vào điểm a, b khoảng 1 Điều 355, Điều 356, điểm c khoảng 1 Điều
357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, các bị cáo là những người
có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo có thể nhận thức
được việc dùng vũ lực, khống chế người khác là vi phạm pháp luật,
xâm phạm quyền sở hữu của người khác nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Tòa nhận định các bị cáo phạm tội “Cướp
tài sản” và không có cơ sở chấp nhận quan điểm của các luật sư bào
chữa cho các bị cáo. Căn cứ vào điểm a, b khoảng 1 Điều 355, Điều
356, điểm c khoảng 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2015.

You might also like