Tóm tắt bản án: Bản án số 32/2023/DS-PT ngày 10/5/2023
Tại Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã tiến hành xét xử phúc thẩm về việc tranh chấp “ Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” với lý do bản án sơ thẩm có kháng cáo. Các đương sự gồm nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H; bị đơn là bà Lê Thị H và chị Đinh Thị Thuý H; người kháng cáo đồng thời là người đại diện theo ủy quyền là ông Triệu Văn T, cùng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Về lời khai của nguyên đơn và người được uỷ quyền của nguyên đơn là ông Triệu Văn T: theo bản án số 47/2020 thì Lê Thị H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phải trả cho bà Nguyễn Thị H 880 triệu đồng và kèm theo lãi theo quy định của pháp luật. Bà Lê Thị H có tài sản là thửa đất 58 và đáng lẽ ra bà phải dùng tài sản này để bồi thường nhưng bà lại đi uỷ quyền cho chị Đinh Thị Thuý H để làm chuyển nhượng cho Trần Anh T và Bùi Thị L nhằm trốn tránh trách nhiệm. Đồng thời ông Triệu Văn T đã có đơn đề nghị bổ sung nhằm làm rõ các vấn đề và yêu cầu tuyên bố “ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa chị Đinh Thị Thuý H với Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu và huỷ các giấy tờ liên quan. Về lời khai của bị đơn: trước khi có bản án số 47/ 2020 thì tài sản của bà là căn nhà trên thửa đất 58 đã được thế chấp tại ngân hàng để nhằm trả nợ cho ngân hàng cho con trai là anh Bùi Đình M. Vì đang cải tạo nên bà đã uỷ quyền chuyển nhượng cho chị Đinh Thị Thuý H - là con dâu ( vì con trai mất chứng minh nhân dân). Sau khi uỷ quyền thì chị H chuyển nhượng cho ai thì bà không biết. Sau khi cải tạo xong thì bà sẽ trả lại tiền cho nguyên đơn sau theo quy định của pháp luật. Về lời khai đồng bị đơn: vì bà Lê Thị H đang cải tạo nên ngân hàng đã làm hợp đồng uỷ quyền giữa chị và bà Lê Thị H để có quyền đứng bán tài sản để trả nợ. Việc bán tài sản cho anh T và chị L để trả nợ là đúng pháp luật. Về lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh T và chị L biết khu đất đó hiện đang được thế chấp tại ngân hàng. Tổng số tiền trả cho ngân hàng là 1.041.571.293 đồng nhưng trong hợp đồng ghi 100 triệu là do tự thoả thuận. Về phía lời khai của anh Bùi Đình M ( con trai bà Lê Thị H): tương tự như lời khai của chị Đinh Thị Thuý H và có xác nhận thêm việc chuyển nhượng trên thực tế phải bỏ ra trên 1 tỷ đồng nhưng ghi trong hợp đồng là 100 triệu. Về phía đại diện của các văn phòng công chứng và Uỷ ban nhân dân và ngân hàng đều xác nhận là việc công chứng xác thực là làm theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm xét thấy đơn kháng cáo là đúng hạn luật định và về phía Hội đồng xét xử đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo sửa án sơ thẩm theo hướng tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Theo nhận định của Tòa án, xét theo Điều 10, Điều 124, Điều 160 và khoản 2 Điều 501 Bộ luật Dân sự 2015 thì việc ủy quyền đã vượt quá giới hạn pháp luật cho phép, có lạm dụng quyền dân sự (lý do anh M có tài sản nhưng lại nói không có và dùng tài sản của bà H để trả nợ) cũng như là do giả tạo, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Vì vậy, quyết định của Toà án là chỉ công nhận nội dung uỷ quyền giải chấp tại ngân hàng, các nội dung khác thì vô hiệu. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị H ( do chị Đinh Thị Thuý H được ủy quyền) với anh T và chị L là vô hiệu và trả lại quyền sử dụng đất thửa 58 cho bà Lê Thị H. Việc áp dụng chế tài nêu trên cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này có thuyết phục không? Vì sao? Việc áp dụng chế tài nêu trên cho việc “ lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này là thuyết phục. Bởi vì: Bà Lê Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và bà buộc phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền là 880 triệu đồng và kèm theo lãi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bà Lê Thị H có thái độ trốn tránh bồi thường bằng thủ đoạn tẩu tán tài sản bằng cách ủy quyền cho con dâu (chị Đinh Thị Thúy H) để bán đất với lý do đã thế chấp ngân hàng giúp con trai trả nợ. Nhưng trên thực tế, con trai bà (anh Bùi Đình M) có tài sản của mình ( nguồn gốc là nhận cho tặng quyền sử dụng đất từ bố mẹ đẻ ) nhưng lại dùng tài sản của bà H để thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng. Cùng với đó, hợp đồng giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị H ( chị Đinh Thị Thúy H được ủy quyền) với anh Trần Văn T và chị Bùi Thị L có yếu tố giả tạo, che dấu bằng giá trị ký kết thấp hơn giá trị thực tế của tài sản để nhằm trốn tránh nghĩa vụ và để chịu thuế thấp. Hành vi trên là vi phạm Điều 124, khoản 2 Điều 501 Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 5 Điều 143 Luật Quản lý thuế 2019. Vì vậy, việc bà H lạm dụng quyền dân sự đã gây thiệt hại trực tiếp đến bà Nguyễn Thị H theo Điều 10 và khoản 2 Điều 160 Bộ luật Dân sự 2015. Vì vậy, quyết định của Tòa căn cứ theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị H là tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị H ( chị Đinh Thị Thúy H được ủy quyền) và các giấy tờ khác có liên quan là có căn cứ và hợp lý. Việc áp dụng chế tài như vậy mới đảm bảo quyền lợi được bồi thường của bà Nguyễn Thị H và ngăn chặn hành vi xác lập giao dịch gian dối, giả tạo, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba do lạm dụng quyền dân sự.