You are on page 1of 13

Phim sọ mặt nghiêng xuất hiện vào năm 1934, được giới thiệu bởi Hofrath ở Đức và

Broadbent ở Mỹ đem lại một công cụ nghiên cứu lẫn làm lâm sàng để hiểu biết về sai khớp cắn và
những bất cân xứng của xương phía dưới. Mục tiêu ban đầu của phim sọ mặt nghiêng là nghiên cứu
về hình thái tăng trưởng của phức hợp sọ mặt. Những khái niệm về sự phát triển bình thường được
trình bày trong chương 2 và 3 chủ yếu là lấy từ những nghiên cứu về phim sọ mặt nghiêng.
Dần dần điều ấy càng trở nên rõ ràng, rằng, phim sọ mặt nghiêng có thể được sử dụng để
đánh giá tỉ lệ răng mặt và làm rõ nền tảng giải phẫu của vấn đề sai khớp cắn. Bác sĩ chỉnh nha cần biết
các thành phần chức năng chính của mặt ( nền sọ, xương hàm, răng ) liên quan với nhau như thế nào
( Hình 6-41). Bất kỳ sự sai khớp cắn nào cũng là kết quả của sự tương tác giữa vị trí xương hàm và vị
trí của răng sẽ mọc lên, điều này có ảnh hưởng bởi tương quan xương hàm ( xem chương 4 phần bàn
luận về bù trừ/ thích nghi của răng ). Với lý do này, rõ ràng những trường hợp sai khớp cắn tương tự
nhau có thể sẽ khác nhau nếu đánh giá kỹ càng hơn. Mặc dù việc quan sát kỹ khuôn mặt cũng thế giúp
được điều này, phân tích phim sọ mặt nghiêng cho sự chính xác cao hơn.

Fig 6-41 The structural components of the face, shown superimposed on the anatomic drawing. The cranium

and cranial base (1), the skeletal maxilla and nasomaxillary complex (2), and the skeletal mandible (3) are

parts of the face that exist whether there is or is not a dentition. The maxillary teeth and alveolar process (4)

and the mandibular teeth and alveolar process (5) are independent functional units, which can be displaced

relative to the supporting bone of the maxilla and mandible, respectively. The major goal of cephalometric

analysis is to establish the relationship of these components in both the anteroposterior and vertical planes of

space.

Phim cephalometric không được chụp để khám bệnh nhưng không nên bỏ qua khả năng quan sát
được những thay đổi bệnh lý trên phim này. Đôi khi, những bất thường không lường trước được trong
cột sống cổ hoặc những thóai hóa đốt sống có thể được thấy trên phim cephalometric, đôi khi ta cũng
có thể quan sát được những bất thường đó ở sọ, hàm hoặc nền sọ. ( H 6-42)
Có lẽ tác dụng lâm sàng quan trọng nhất của phim ceph là trong việc nhận ra và đánh giá
những thay đổi mà điều trị chỉnh nha đem lại. Phương pháp chồng hình từ một seri những phim trước,
trong và sau điều để có thể nghiên cứu sự thay đổi vị trí của răng và xương hàm theo thời gian. Những
thay đổi đó là kết quả của quá trình phát triển kết hợp với điều trị ( trừ người trưởng thành đã ngừng
tăng trưởng ). Tuy chỉ có vậy nhưng ta không thể biết chuyện gì đang thật sự diễn ra trong quá trình
điều trị cho một bệnh nhân đang phát triển nếu không xem chồng hình phim cepha, đó chính là lý do
chụp phim ceph cần phải có trong quá trình điều trị chỉnh nha toàn diện cho trẻ nhỏ và thiếu niên.
Với mục đích chẩn đoán, phim ceph được sử dụng chính trong việc xác định tương quan răng
và xương. Trong section này, chúng tôi tập trung vào việc tận dụng phân tích phim ceph để so sánh
bệnh nhân với những ca khác, sử dụng số chuẩn của cộng đồng. Việc dự đoán trên phim ceph để ước
lượng tác động điều trị chỉnh nha và phẫu thuật được trình bày ở Chương 8.
Phát triển từ việc phân tích phim
Người ta phân tích phim nhưng không làm trực tiếp trên phim mà trên một bản vẽ đã với những
điểm đã được chấm để tập trung vào các tương quan. Về bản chất, bản vẽ phim dùng để giảm đi
những thông tin không cần thiết trên phim để dễ quan sát. Những điểm mốc trên phim ceph và cách
tìm điểm mốc phổ biến được cho thấy ở Hình 6-45 và 6-46.
Những điểm mốc được thể hiện là chuỗi những điểm, là vị trí giải phẫu của các cấu trúc ( như
điểm trước nhất của vùng cằm trên xương ) hoặc đôi khi là những điểm được dựng lên như là giao
điểm của hai mặt phẳng ( ví dụ, giao điểm của mặt phẳng hàm dưới và mặt phẳng dọc theo rìa sau của
cành lên xương hàm ). Tọa độ x,y của những điểm này đươc dùng để nhập dữ liệu của phim vào một
định dạng tương thích với máy tính. Phân tích bằng máy tính là phương pháp phổ biến ở các phòng
khám. An adequate digital model is required, which means that 50 to 100 landmark locations should be
specified(Figure 6-a7)
Nguyên tắc phân tích phim trên máy tính cũng không khác gì phân tích thường. Mục đích vẫn
là xác định tương quan răng và xương ở bệnh nhân, đóng góp bao nhiêu phần vào sai khớp cắn. Bạn
sẽ làm điều đó như thế nào? Một cách đó là so sánh bệnh nhân với một nhóm tham chiều, từ đó bộc lộ
những sai khác giữa tương quan răng mặt thật sự của bệnh nhân với chỉ số chung trong cộng đồng
chủng tộc của bệnh nhân đó. Loại phân tích phim này lần đầu trở nên phổ biến sau Thế chiến II dưới
tên Phân tích của Down, được phát triển ở Đại học Illinois và dựa trên tỷ lệ xương và mặt của một
nhóm tham chiếu gồm 25 thiếu niên da trắng chưa được điều trị có khớp cắn lý tưởng.

Hình 6-43: Ta có thể quan sát được những bệnh lý cột sống trên phim ceph, đôi khi chính bác sĩ chỉnh nha là
người đầu tiên sẽ thấy bệnh lý đó. Bệnh nhân này có đột sống cổ số 1 và số 2 dính liền nhau với mỏm răng nhô vào rìa lỗ
chẩm. Đây là một trường hợp gây nguy hiểm đến tính mạng, bởi vì một chấn động mạnh vào đầu hoặc khi đầu ở tư thế sai
quá mức có thể dẫn đến chấn thương tủy ngay tại vị trí lỗ chẩm.
Hình 6-44:
Hình 6-45:
Hình 6-46:
Ngay từ đầu, làm sao để xây dựng tiêu chuẩn tham chiếu đã là một vấn đề khó. Có vẻ là một
điều rõ ràng, những bệnh nhân có bất hài hòa xương sọ nên bị loại khỏi mẫu chuẩn. Bởi vì khớp cắn
thông thường không phải là trường hợp dễ tìm trong nhóm cộng đồng được lựa chọn ngẫu nhiên, bác
sĩ cần tiến hành lựa chọn ở xa hơn nếu định xây dựng nhóm tham chiếu, hoặc là chỉ loại đi những cá
thể dị dạng rõ rệt và chọn vào hầu hết các trường hợp sai khớp cắn, hoặc loại chọn lọc những ca sai
khớp cắn để có được nhóm mẫu lý tưởng. Ban đầu, người ta chọn cách thứ 2, so sánh được tiến hành
đối chiếu với những bệnh nhân có khớp cắn và tỉ lệ khuôn mặt lý tưởng, giống như trên 25 cá thể
được chọn theo tiêu chuẩn của Down. Có lẽ, sự chọn lọc ngặt nghèo này với mục đích xây dựng tiêu
chuẩn tham chiếu đã được đơn giản hóa bởi Steiner, cha đẻ của những thông số lý tưởng xây dựng
trên một ngôi sao Hollywood. Mặc dù, ta không rõ câu chuyện thực hư thế nào, nhưng nếu điều ấy
đúng thì Dr. Steiner quả là con người có con mắt tốt, bởi vì khi tính toán lại những giá trị ban đầu ông
đưa ra dựa trên một cỡ mẫu lớn hơn rất nhiều thì cho thấy rất ít sai lệch.
Những tiêu chuẩn được phát triển bởi phân tích của Downs, Steiner, và Wits vẫn còn hữu
dụng nhưng đã được thay thế bởi những tiêu chuẩn mới dựa trên những cộng đồng được chọn lựa ít
cứng nhắc hơn. Một cơ sở dữ liệu rất lớn dành cho phân tích hiện nay là nghiên cứu phát triển
Michigan, tiến hành bởi Ann Arbor và gồm có một nhóm trẻ em điển hình sai khớp cắn vừa và nhẹ 23.
Những nguồn khác là nghiên cứu phát triển của Burlington ( Ontario ) , nghiên cứu của Bolton ở
Cleveland 25, và một vài nghiên cứu về phát triển nhỏ hơn, kèm với nhiều mẫu bệnh nhân cụ thể được
lựa chọn trong công trình nghiên cứu của trường đại học để xây dựng các tiêu chuẩn cho các nhóm
sắc tộc, chủng tộc cụ thể. 26,27
Hãy nhớ mục tiêu của phim sọ mặt nghiêng: đó là đánh giá các tương quan, cả theo chiều
ngang và theo chiều dọc, của 5 thành phần chức năng lớn của khuôn mặt ( Xem hình 6-41 và 6-42): sọ
và nền sọ, xương hàm trên ( các tỉ lệ của xương hàm trên mà không thay đổi nếu không có răng và
mỏm xương ổ răng ), xương hàm dưới ( tương tự ), bộ răng hàm trên và mỏm xương ổ, bộ răng hàm
dưới và mỏm xương ổ. Với ý này, bất kỳ phân tích phim sọ nghiêng nào cũng là một quá trình được
lập ra để mô tả mối tương quan của những đơn vị chức năng này.
Có hai cách cơ bản để tiếp cận mục đích này. Một là phương pháp trong phân tích Downs và
được nhiều bác sĩ sử dụng ở thời điểm đó. Nó sử dụng những phép đo đường thẳng và góc để thiếu
lập những so sánh phù hợp. Phương pháp thứ hai là hiển thị những dữ liệu thông thường trên đồ thị
hơn là một dãy những phép đo và so sánh dạng răng mặt của bệnh nhân trực tiếp với những tham
chiếu trên đồ thị ( thường được gọi là template ) . Như vậy ta có thể thấy luôn bất kỳ sai lệch nào mà
không cần phải tiến hành đo.
Cả hai phương pháp đều đang được ứng dụng trong phân tích phim sọ mặt đương đại. Trong
phần sau đây, các phương pháp đo đạc hiện thời được bàn đến trước, và sau đó là phân tích phim sọ
mặt nghiêng thông qua so sánh trực tiếp với một template tham chiếu.

Phân tích các số đo


Lựa chọn đường tham chiếu ngang ( tham chiếu sọ ). Trong bất kỳ kỹ thuật phân tích phim
nào, cần thiết phải xây dựng một vùng hoặc đường tham chiếu. Vấn đề tương tự cũng xuất hiện trong
các nghiên cứu đo só của thế kỷ 19. Ở những năm cuối 1800s, những phần xương còn lại của người
được tìm thấy ở nhiều nơi và được đưa vào tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng. Một hội nghị quốc tế của
các nhà giải phẫu học và nhân trắc học được tổ chức ở Frankfort, Đức năm 1882, chọn đường tham
chiếu ngang để xem hướng sọ, một điểm quan trọng khi theo dõi phát triển. Ở hội thảo, mặt phẳng
Frankfort đi từ rìa trên của ống tai ngoài ( porion ) tới bờ dưới ổ mắt, được cho là đại diện tốt nhất cho
hướng sọ tự nhiên ( Hình 6-48 ). Mặt phẳng Frankfort này được dùng xác định hướng phát triển của
bệnh nhân từ lúc bắt đầu chụp phim cepha và vẫn được sử dụng rộng rãi trong phân tích phim.
Hình 6-47
Hình 6-48
Hình 6-49: Nếu phim sọ mặt nghiêng được chụp khi bệnh nhân ở tư thế đầu tự nhiên ( NHP ), một đường thẳng
vuông góc với đường thẳng dọc thật sự ( thể hiện bằng hình ảnh một cái dây thả rơi ở rìa phải phim ) là đường ngang thật sự (
ngang sinh lý ). Tư thế đầu tự nhiên được ưa chuộng hơn tư thế đầu giải phẫu trong cách thức chụp cepha hiện đại.

Tuy nhiên, trong việc sử dụng phim cepha, mặt phẳng Frankfort gặp phải hai vấn đề. Thứ nhất
là cả điểm mốc phía trước và phía sau, đặc biệt là Porion khá khó định vị đúng trên phim. Một dấu
đánh cản quang được đặt trên thanh kéo vào trong ống tai ngoài , là một phần của công cụ cố định
đầu, và vị trí của dấu đó được gọi là “ điểm porion máy” sử dụng để định vị porion. Bóng của ống tai
có thể được thấy trên phim cepha, thường ở vị trí hơi phía trên và sau so với “ điểm porion máy”. Rìa
trên của ống tai có thể được dùng để tạo ra “ điểm porion giải phẫu”, sẽ cho ra mặt phẳng Frankfort hơi
khác ( đôi khi, cũng khác nhiều ).
Một mặt phẳng tham chiếu ngang thay thế, dễ hơn và đáng tin cậy hơn khi tìm trên phim
cephalo, là đường từ Sella turcica ( S ) đến điểm nối gữa xương mũi và xương trán ( N ). Ở một cá thể
bình thường, mặt phẳng SN hướng 6-7 độ lên trên và ra trước so với mặt phẳng Frankfort. Một cách
khác để có đường Frankfort đơn giản là vẽ ra hơi nghiêng so với SN, cụ thể là 6 độ. Tuy nhiên, mặc dù
cách đó làm tăng độ tin cậy và độ tái lập nhưng giảm độ chính xác.
Vấn đề thứ hai với mặt phẳng Frankfort thì cơ bản hơn. Nó được chọn là một chỉ thị giải phẫu
tốt nhất của đường ngang sinh lý hay đường ngang thật sự. Mỗi người nghiêng đầu của người ta theo
một vị trí riêng, được thiết lập một cách sinh lý, không phải giải phẫu. Theo như suy luận của những
các nhà giải phẫu học từ thế kỷ trước, với đa số bệnh nhân mặt phẳng ngang thực sự rất gần với mặt
phẳng Frankfort. Tuy nhiên, một số cá thể có độ nghiêng sai khác đáng kể, lên đến 100.
Với những sọ của người đã chết từ lâu, các nhà giải phẫu không có cách nào khác ngoài việc
sử dụng một chỉ thị giải phẫu cho mặt phẳng ngang thật sự. Tuy nhiên với những người đang số, có
thể sử dụng đường “ ngang thật sự”, được thiết lập một cách sinh lý hơn là giải phẫu, như mặt phẳng
tham chiếu phương ngang. Phương pháp này đòi hỏi phải chụp phim cephalometric với bệnh nhân ở
tư thế đầu tự nhiên ( ví dụ bệnh nhân giữ tư thế đầu như được xác định bởi những cơ chế sinh lý nội
tại. Tư thế này có được khi bệnh nhân thả lỏng và nhìn vào một vật thể ở xa hoặc nhìn thẳng vào mắt
mình trong một cái gương và nghiêng đầu lên hoặc xuống theo những cử động biên độ nhỏ dần cho
đến khi nọ cảm thấy thoải mái. Tư thế đầu tự nhiên có thể được tái thiết lập trong khoảng sai lệch 1-2
độ.28
Trong cách ứng dụng hiện đại, phim cephalometric nên được chụp ở tư thế đầu tự nhiên
( NHP ), từ đó có thể thiết lập mặt phẳng ngang sinh lý thật sự ( Hình 6-49 ). Mặc dù NHP không thể
tái lập chuẩn xác như việc nghiêng đầu theo mặt phẳng Frankfort, nguy cơ sai sót khi tái lập lại tư thế
bị thấp nhỏ hơn là nếu để đầu nghiêng sai. Góc nghiêng SN so với mặt phẳng ngang thật sự ( hay với
mặt phẳng Frankfort nếu không có mặt phẳng ngang thật sự ) luôn cần được ghi chép lại, nếu độ
nghiêng sai lệch từ 6 độ, tất cả những thông số đo được dựa trên SN cần được chỉnh lại theo hiệu số
đó.
Phân tích Steiner. Phân tích Steiner, được phát triển và truyền bá bởi Cecil Steinter vào
những năm 1950, được cho là các phân tích phim đầu tiên thời kỳ đương đại bởi 2 lý do: nó thể hiện
các thông số theo cách mà không chỉ nhấn mạnh những chỉ số cá thể mà tương quan của các thể đó
với một mẫu, và nó đưa ra chỉ dẫn cách thức dùng những con số từ phim vào việc lên kế hoạch điều
trị. Một số yếu tố của phân tích Steiner vẫn còn hữu dụng đến ngày nay.
Trong phân tích Steiner, góc được đo đầu tiên là góc SNA, dùng để đánh giá vị trí theo chiều
trước sau của xương hàm trên so với nền sọ trước ( Hình 6-50 ) . Chỉ số SNA bình thường là 82±2 0.
Vậy nên nếu góc SNA của bệnh nhân lớn hơn 84 độ, ta có thể hiểu là xương hàm trên nhô, và nếu
SNA < 80 độ, ta có thể hiểu là xương hàm trên lùi. Tương tự, SNB được sử dụng để đánh giá vị trí
trước - sau của xương hàm dưới, với giá trị bình thường là 78 ± 2 0. Cách đọc giá trị như thế này chỉ
hợp lệ khi mà mặt phẳng SN nghiêng so với mặt phẳng ngang thực sự trong ngưỡng bình thường
( hoặc nếu giá trị được sửa lại như đã nói ở trên) và điểm N ở vị trí bình thường.
Hình 6-50
Hình 6-51
Hình 6-52 Trong phân tích Steiner, tương quan của răng cửa trên với đường NA được dùng để xác định vị trí
của bộ răng hàm trên so với xương hàm trên. Cả khoảng cách của mặt ngoài răng cửa và độ nghiêng của trục răng cửa so với
đường tương ứng đều được đo. Vị trí của răng cửa dưới tương quan với hàm dưới được xác định bởi việc đo so với đường
NB. Thêm vào đó, độ nhô của cằm được xác định bằng cách đo khoảng cách ( mm ) từ đường NB đến Pogonion- điểm nhô
nhất của xương vùng cằm.
Hiệu số của hai góc SNA và SNB- góc ANB- chỉ ra mức độ chênh lệch giữa các xương hàm,
và với Steiner thì đây là số đo ta cần. Bạn có thể cảm thấy thắc mắc, như Steiner đã từng, rằng sai
lệch là do hàm nào, đó là một vấn đề nặng về tính lý thuyêt nhiều hơn, điều thật sự quan trọng là mức
độ của chênh lệch xương hàm phải được khắc phục trong quá trình điều trị, và đó là thông số ANB
đem lại.
Giá trị góc ANB bị ảnh hưởng bởi 2 yếu tố khác bên cạnh vấn đề sai khác theo chiều trước
sau của vị trí xương hàm. Một là chiều cao thẳng đứng/ kích thước dọc ( vertical height ) của mặt. Khi
khoảng cách dọc giữa Nasion và điểm A và B tăng lên, góc ANB sẽ giảm đi. Nhân tố thứ hai là nếu vị
trí trước sau của điểm N bất thường, số đo góc cũng bị ảnh hưởng ( Hình 6-51). Thêm vào đó, vì SNA
và SNB cùng tăng, cả hai hàm cùng nhô, kể cả tương quan theo chiều ngang không thay đổi, thì góc
ANB cũng sẽ tăng. Tính hợp lệ của đánh giá dẫn đến phải dùng thêm những chỉ số khác cho tương
quan hai hàm ở những phân tích sau sẽ được trình bày ở những section sau đây.
Bước tiếp theo trong phân tích Steiner là đánh giá tương quan của răng cửa hàm trên so với
đường NA và cả răng cửa dưới và cằm so với NB, từ đó thiết lập mức độ nhô tương đối của bộ răng
( Hình 6-52). Tweed trước đó đã gợi ý rằng răng cửa hàm dưới nên ở vị trí nghiêng 65 0 so với mặt
phẳng Frankfort, có bù vào vị trí răng cửa do mặt phẳng hàm dưới bị dốc. Trong phân tích Steiner, cả
góc độ nghiêng của mỗi răng và khoảng cách đo bằng milimeters của rìa cắn răng cửa đến đường trục
thẳng. Khoảng cách đó cho thấy răng cửa nhô ở mức độ nào trên tương quan với xương, trong khi độ
nghiêng cho biết răng đang bị ngả về vị trí đó hay đã di chuyển thân tới đó ( has been tipped to its
position or has moved there bodily ) . Độ nhô của cằm ( thể hiện bằng điểm pogonion ) so sánh với độ
nhô của răng cửa dưới tạo nên một cân bằng giữa 2 bên: cằm càng nhô, răng cửa dưới càng nhô, và
ngược lại. Mối liên hệ quan trọng này được gọi là tỷ lệ Holdaway. Đo đạc cuối cùng trong phân tích
Steiner là đô nghiêng của mặt phẳng hàm dưới so với SN, chỉ số duy nhất về tỉ lệ dọc của khuôn mặt (
xem hình 6-50). Các giá trị chuẩn theo bảng của 5 nhóm chủng tộc được cho trong bảng 6-8.
Nhiều phép đo được kết hợp với phân tích Steiner từ đầu được trình bày dạng đồ thị như là “
cây gậy Steiner” hoặc “chevron”, một cách thuận tiện để thể hiện kết quả đo. Steiner tính toán xem cái
gì cần thoải thỏa hiệp trong vị trí răng cửa để có được khớp cắn bình thường khi mà góc ANB không
lý tưởng. Đây là một bước quan trọng trong việc áp kết quả phim vào việc lên kế hoạch điều trị thường
quy. Phân tích Steiner thỏa hiệp, và phương pháp để thực hiện những thoải hiệp cho bất kỳ bệnh nhân
nào được minh họa ở bảng 6-53. Những con số này có thể hữu ích trong việc tính xem cần di chuyển
răng bao nhiêu để chữa sai khớp cắn.
Tuy nhiên, chúng ta không nên bỏ qua vấn đề rằng là, chỉ dựa vào di chuyển răng không thôi
để sửa sai khớp cắn do xương, đặc biệt là do sự chênh lệch xương càng ngày càng lớn, không phải là
phương pháp tiếp cận tốt nhất trong điều trị chỉnh nha. Sẽ tốt hơn nếu chỉnh sai lệch xương ở gốc hơn
là cố gắng đạt được thỏa hiệp hoặc ngụy trang trên răng. ( xem chương 8 để tham khảo phần bàn luận
về điểm quan trọng này ). Công bằng khi nói rằng những thoả hiệp của Steiner phản ánh một quan
điểm phổ biến trong thời đại của ông, cho rằng tác động của chỉnh nha chủ yếu chỉ giới hạn tới mỏm
xương ổ mà thôi.
Phân tích Sassouni Phân tích Sassouni là phương pháp phân tích cephalometric đầu tiên
nhấn mạnh vào tương quan dọc cũng như tương quan chiều ngang và tương tác giữa các tỉ lệ theo
chiều dọc và theo chiều ngang. Sassouni chỉ ra rằng các mặt phẳng ngang giải phẫu- dốc nghiêng của
nền sọ trước, măt phẳng Frankfort, mặt phẳng khẩu cái, mặt phẳng nhai và mặt phẳng hàm dưới- có
xu hướng hội tụ về một điểm ở những gương mặt có tỉ lệ đẹp. Các mặt phẳng này nghiêng lệch nhau
phản ánh tỉ lệ theo chiều dọc của khuôn mặt. ( Hình 6-54 )
Hình 6-54 Sassouni đóng góp ý kiến rằng nếu một chuỗi những mặt phẳng ngang được vẽ từ đường SN ở trên
cùng xuống tới mặt phẳng hàm dưới dưới cùng, chúng sẽ hướng về một điểm chung nếu mặt bệnh nhân có tỉ lệ đẹp
Nếu các mặt phẳng cắt nhau ở điểm tương đối gần mặt và phân kỳ sớm sau khi vượt ra trước,
các tỉ lệ mặt dài ở phía trước và ngắn ở phía sau, bệnh nhân có xu hướng cắn hở. Sassouni đặt khái
niệm “ cắn hở do xương” cho tương quan giải phẫu này. Nếu các mặt phẳng gần như song song, tức
là hội tụ ở xa phía sau mặt và phân kỳ từ từ khi chúng càng đi ra phía trước, đây là khuynh hướng
xương dẫn đến cắn sâu vùng răng trước, và tình trạng này gọi là “ cắn sâu do xương”.
Thêm vào đó, một mặt phẳng có độ nghiêng bất thường sẽ nổi bật vì nó không đi qua vùng
giao nhau. Ví dụ việc xoay xương hàm trên xuống dưới ở phía sau và xoay lên trên ở phía trước có thể
đóng góp và cắn hở xương. Nghiêng mặt phẳng khẩu cái cho thấy rất rõ ràng điều đó ( Hình 6-55 ).
Hình 6-55 Nhìn vào các mặt phẳng ngang của bệnh nhân này cũng đủ thấy rõ rằng hàm trên xoay xuống ở
phía sau và hàm dưới xoay xuống ở phía trước. Xương hàm xoay như thế này đóng góp vào nguy cơ cắn hở, như vậy kiểu
xương thể hiện ở đây thường được gọi là “ cắn hở do xương”
Sassouni đánh giá vị trí trước sau của mặt và răng bằng cách để ý tương quan của các điểm
khác nhau với đường arcs vẽ từ vị trí giao nhau của các mặt phẳng. Ở một khuôn mặt có tỉ lệ đẹp, gai
mũi trước ( mỏm trước của xương hàm trên ), răng cửa hàm trên và xương vùng cằm nên nằm trên
một đường cung. Với các tỉ lệ theo chiều dọc, nếu có một điểm lệch ra ngoài vị trí mong muốn, thì sẽ
được thấy rõ, thấy được cả hướng lệch. Không may mắn là khi càng mất tỉ lệ, càng khó định vị tâm của
cung tròn arc; và đánh giá theo chiều trước sau sẽ thiếu định hướng ( arbitrary )
Mặc dù tổng hợp phân tích theo vòng cung ( arc ) mô tả bởi Sassouni giờ không được sử
dụng rộng rãi nhưng đánh giá của ông về tỉ lệ dọc của khuôn mặt trở thành một phần trong phân tích
tổng thể dùng cho bệnh nhân. Cùng với những số đo khác, phân tích sự phân kỳ của các mặt phẳng
ngang và xem xét xem có một mặt phẳng nào lệch rõ ràng với những mặt phẳng khác không cũng khá
là có giá trị.
Phân tích Harvold và phân tích Wits. Cả phân tích của Harvold và Wits đều hướng đến duy
nhất việc mô tả độ nặng của bất hài hòa xương hàm. Harvold, sử dụng số liệu trích ra từ nghiên cứu
tăng trưởng của Burlington, đã phát triển những tiêu chuẩn cho cái gọi là “chiều dài đơn vị “ ( unit
length ) của xương hàm trên và xương hàm dưới. Chiều dài đơn vị xương hàm trên được đo từ giới
hạn phía sau của lồi cầu hàm dưới đến gai mũi trước, trong khi đó chiều dài đơn vị của hàm dưới
được đo cũng từ một điểm xuất phát tới điểm trước nhất của cằm ( Hình 6-56 ). Hiệu của hai con số
này đem lại một chỉ thị về chênh lệch kích cỡ giữa các xương hàm. Khi phân tích chênh lệch giữa
chiều dài đơn vị hàm trên và hàm dưới, chúng ta phải nhớ rằng khoảng cách theo chiều dọc giữa hai
hàm càng ngắn, cằm sẽ càng đưa ra trước nhiều cho dù hiệu số đơn vị chiều dài là bao nhiêu đi nữa
và ngược lại. Harvold đo chiều cao tầng mặt dưới để giải thích cho yếu tố này. Vị trí của răng không
có ảnh hưởng đến những con số của Harvold ( Bảng 6-9 ).
Phân tích Wits ban đầu được đón nhận như một cách để vượt qua giới hạn của góc ANB - chỉ
thị của bất hài hòa xương. Nó dựa vào hình chiếu của điểm A và B với mặt phẳng khớp cắn, cùng với
việc đo khoảng cách giữa những điểm hình chiếu này. Nếu vị trí theo chiều trước sau của hai xương
hàm bình thường, hình chiếu vuông góc từ điểm A và điểm B lên mặt phẳng khớp cắn sẽ gần như là
trùng nhau. Mức độ bất hài hòa của xu hướng Class II có thể được ước lượng bởi số milimet điểm A ở
trước hơn so với điểm B và ngược lại ở sau hơn bao nhiêu so với điểm B đối với xu hướng class III.
Phân tích của Wits, ngược lại với phân tích của Harvold, bị ảnh hưởng bởi răng cả về hướng
ngang lẫn hướng dọc, ngang bởi vì điểm A và điểm B bị ảnh hưởng bởi bộ răng, dọc bởi vì mặt phẳng
khớp cắn được xác định bởi vị trí dọc của các răng. Sẽ tốt hơn nếu mặt phẳng khớp cắn chức năng vẽ
theo đường lồng múi tối đa chứ không phải mặt phẳng bị ảnh hưởng bởi độ nghiêng dọc của răng cửa.
Kể cả như vậy, phương pháp này không thể phân biệt bất hài hòa xương với vấn đề do lệch lạc răng
hoặc làm rõ hàm nào bị sai lệch nếu đó là vấn đề xương, nếu sử dụng phân tích Wits thì cần để ý đến
hạn chế này.
Phân tích bởi Ricketts vào những năm 1960s được sử dụng trên hệ thống phim kỹ thuật số, và
có một thời điểm được sử dụng rất rộng rãi. Yếu điểm lớn nhất của nó là tham chiếu thông thường của
các chỉ số dựa vào những mẫu không đặc trưng được chọn bởi Ricketts, và phương pháp phân tích
thiếu tính hợp lý về mặt khoa học.
Phân tích McNamara. Ban đầu được xuất bản năm 1982, kết hợp từ những yếu tố trong
phương pháp trước đó của Ricketts và Harvold với những phép đo nguyên bản để tái hiện chính xác
bộ răng trên hàm và vị trí răng. Trong phương pháp này, cả mặt phẳng Frankfort giải phẫu và đường
Basion-Nasion đều được dùng làm mặt phẳng tham chiếu. Vị trí chiều trước sau của hàm trên được
đánh giá dựa trên vị trsi của nó với đường vuông góc đi qua N chiếu xuống Frankfort ( Hình 6-57 ).
Xương hàm trên nên nằm trên hoặc ở phía trước một chút so với đường này. Bước hai trong quy trình
này là so sánh chiều dài xương hàm trên và xương hàm dưới, sử dụng phương pháp Harvold. Xương
hàm dưới ở vị trí trong khoảng sử dụng tầng cao mặt trước phía dưới ( ANS- menton ) . Răng cửa hàm
trên tương quan với xương hàm trên qua một đường đi qua điểm A vuông góc với mặt phẳng
Frankfort, tương tự nhưng hơi khác một chút với tương quan của răng cửa với đường NA. Tương
quan răng cửa dưới như trong phân tích Rickett, chủ yếu sử dụng đường nối A-pogonion ( Hình 6-58 )
Phân tích McNamara có 2 điểm mạnh lớn:
1. Tìm ra mối tương quan hai hàm sử dụng đường vuông góc Nasion, bản chất là chiếu
vuông góc sự chênh lệch theo chiều trước sau về vị trí của 2 hàm lên một đường gần
như là đường dọc thật sự. ( Sử dụng đường dọc thật sự, vuông góc với đường ngang
thật sự hơn là đường Frankfort giải phẫu, sẽ tốt hơn, lý do không làm điều ấy khi phân
tích là bởi vì dữ liệu về chỉ số bình thường là lấy từ những phim xquang không chụp ở
tư thế đầu tự nhiên ). Điều đấy có nghĩa là những sai biệt trước sau trong tương quan
xương hàm được đo theo chiều gần như là ngang thật sự trong đó chúng được quan
sát bởi bệnh nhân vầ người chẩn đoán.
2. Dữ liệu về chỉ số thông thường dựa theo mẫu của Bolton đã được định sẵn, cũng có
dưới dạng template, có nghĩa là các số đo của McNamara có tính tương thích cao với
phân tích sơ khởi bằng cách so sánh với các template của Bolton

Hình 6-58: Phân tích sọ nghiêng một bé trai 12 tuổi, sử dụng phương pháp McNamara.

Phân tích đối chiếu. Một vấn đề lớn với tất cả các phân tích dựa và các số đo cá nhân đó là bất kỳ số
đo nào cũng bị ảnh hưởng bởi số đo khác trong cùng một gương mặt. Không chỉ việc các số đo không
độc lập, có khả năng sai lệch trong một mối tương quan được bù trừ toàn bộ hoặc một phần bởi những
thay đổi trong mối tương quan khác. Điều này áp dụng cho cả tương quan xương và răng. Các thay
đổi có tính bù trừ trong bộ răng để làm cho răng vừa vặn mặc dù xương hàm thì không đã được biết
rất nhiều và thông thường là mục tiêu của điều trị chỉnh nha. Các thay đổi có tính bù trừ trong các
thành phần xương của mặt thì ít được biết đến một cách rõ ràng, nhưng cũng xảy ra thường xuyên, và
có thể dẫn đến kết luận sai nếu chỉ dựa vào số đo mà không nhận ra điều đó.
Ý tưởng căn bản của các chiều tương tác nhau mà dẫn đến kiểu mặt cực kỳ cân bằng hoặc
không cân bằng được nói lên bởi Enlow năm 1960s, trong phân tích đối chiếu của ông. Như Enlow và
cộng sự chỉ ra rằng, cả các chiều không gian và sự sắp xếp của các yếu tố sọ mặt điều quan trọng
trong việc xác định thăng bằng của mặt. Nói về các chiều trước ( Hình 6-59 ).
Hình 6-59: Phân tích đối ứng của Enlow nhấn mạnh vào cái cách mà những thay đổi trong tỷ lệ ở một bộ phận của đầu và
mặt có thể làm tăng nặng bất hài hòa xương hàm hoặc bù trừ để 2 hàm khớp vừa mặc dù có chênh lệch xương. Ví dụ, nếu
xương hàm trên dài ( đo bằng 6 units length ), sẽ không thành vấn đề nếu hàm dưới ( 7) cũng dài, nhưng sai khớp cắn sẽ xảy
ra nếu thân xương hàm dưới có chiều dài bình thường. Điều tương tự cũng xảy ra với chiều dọc phía trước khi so với chiều
dọc phía sau ( 1-3). Nếu những kích thước này tương ứng với nhau, thì sẽ không có vấn đề gì, nhưng nếu không, thì dù dài
hay ngắn, sai khớp cắn vẫn xảy ra.
Nếu chiều cao mặt trước dài, cân bằng mặt và tỷ lệ đúng được bảo đảm nếu chiều cao mặt phía sau
và chiều cao cành lên xương hàm dưới cũng tương đối lớn. Mặt khác, chiều cao mặt sau cắn có thể
dẫn đến xu hướng cắn hở nếu chiều cao mặt trước bình thường, bởi vì khi ấy tỷ lệ đã bị ảnh hưởng
rồi. Điều tương tự cũng áp dụng với chiều trước sau. Nếu cả chiều dài xương hàm trên và xương hàm
dưới bình thường nhưng nền sọ dài, xương hàm trên sẽ được đưa ra trước so với hàm dưới dẫn đến
nhô xương hàm trên. Bởi lẽ ấy, xương hàm trên bị ngắn có thể là bù trừ hoàn hảo cho nền sọ dài. Tiếp
đến là sự sắp xếp ( alignment ) cũng ảnh hưởng cả vị trí dọc cũng như trước sau của các đơn vị
xương khác nhau và có thể bù trừ cho hoặc làm tệ hơn xu hướng trở nên mất thăng bằng. Lấy ví dụ,
nếu xương hàm trên xoay xuống ở phía sau, cành lên/ thân xương dài và góc gonial nhọn sẽ bù trừ và
cho phép tỉ lệ mặt bình thường và khớp cắn bình thường, nhưng thậm chí cành lên/ thân xương hơi
ngắn một chút cũng có thể tạo nên sự xoay hàm dưới xuống dưới và ra sau và xu hướng cắn hở mặt
dài.
Một hướng để đem những quan điểm của phân tích đối chiếu vào thực hành lâm sàng là từ
việc khám tỉ lệ mặt bệnh nhân so sánh với template bình thường ( Xem hình 6-60 )
Hình 6-60: Chồng hình nền sọ của một template Bolton chuẩn đối với tuổi 14 ( đỏ ) khi phân tích phim của một bé
trai 13 tuổi. Template 14 tuổi được lựa chọn vì nó khớp với chiều đài nền sọ. Để ý sự so sánh của template với phim của bệnh
nhân, chiều cao tầng mặt dưới tăng đánh kể và sư xoay hàm dưới xuống xướng được thấy rất rõ. Và cũng dễ nhận thấy
xương hàm trên của bệnh nhây xoay xuống dưới ở phía sau. Sự so sánh của phim vẽ sọ bệnh nhân với một template có sẵn
là một phương pháp trực tiếp hướng tới mô tả mối quan hệ của các đơn vị chức năng mặt.
Một cách khác, mà đang càng ngày càng phổ biết trong những năm gần đây, là cách sử dụng
những chuẩn “ điểm trôi” cho các phép đo. Ý tưởng là sử dụng các tiêu chuẩn từ những kiểu mặt cá
nhân hơn là liên hệ các giá trị trên phim cephalometric của cá nhân với số trung bình cộng đồng, lợi
dụng sự tương quan giữa các giá trị cá nhân. Thay vì đánh giá là bất thường hay bình thường dựa trên
giá trị của một cá nhân, sự đánh giá sẽ dựa trên cách các giá trị ấy tương quan với nhau như thế nào-
một số kết hợp sẽ được coi là bình thường kể cả khi những phép đo trên cá thể ấy nằm ngoài phạm vi
chỉ số thông thường cộng đồng. Một số kết hợp khác có thể được cho là phản ánh một kiểu hình bất
thường kể cả kết quả đo nằm trong phạm vi bình thường. Đánh giá tương quan xương theo cách này
đặc biệt có giá trị với bệnh nhân được chỉ định liệu pháp can thiệp tăng trưởng hoặc phẫu thuật
orthognathic.
Trong nửa thế kỷ mà phim cephalometric đã được sử dụng trên lâm sàng, hàng tá thậm chí
hàng trăm kiểu đo đạc được xuất bản với cái tên gọi là Phân tích. Trong một số phương pháp đó, ta có
thể thấy rõ số đo đó dùng để đánh giá tương quan nào, cũng thấy rõ được tham chiếu bình thường
( normative data ) đến từ đâu. Trong các cái khác, cả phép đo, và tham chiếu phạm vi bình thường đều
dựa trên những tính chất mơ hồ.
Trừ khi bác sĩ cẩn thận, nếu không, sẽ bị lạc mất mục đích của phân tích phim: đó là ước
chừng các tương quan, theo chiều dọc và theo chiều ngang, của 2 hàm với nền sọ và so với nhau, và
mối tương quan của răng với xương ổ phía dưới. Không may mắn là, những phân tích dựa trên một
bộ số đo chuẩn hạn chế thường bị khác trong phần đánh giá cả tương quan răng lẫn tương quan
xương, thậm chí khi có lệch lạc răng mặt. Điều xảy ra bởi vì sự khác nhau giữa các mẫu mà các phân
tích sử dụng để tham chiếu, và đặc biệt bởi vì thường không kiểm soát chiều cao của mặt hướng dọc,
cái mà có một tác động riêng biệt lên các tương quan trước-sau.
Một phương pháp đề cập đến vấn đề này hiện giờ đã có mặt dành cho bệnh nhân Bắc Âu
( chủng da trắng ). Thứ nhất, hãy xác định từ phân tích gwowgn mặt xem bệnh nhân có tỉ lệ bình
thường theo chiều dọc hay không. Nếu có, đánh giá theo chiều trước sau bằng những phương pháp
và tham chiều cephalo thông thường. (Bảng 6-10) được trích từ đánh giá đường cong ROC cho các
mẫu bệnh nhân da trắng từ 10-18 tuổi có tương quan răng và mặt hài hòa ( ví dụ kiểu mặt hạng 1 với
răng hạng 1 , kiểu mặt hạng 2 với răng hạng 2, v.v.. ) và có chiều cao mặt bình thường. Phương pháp
ROC đánh giá khả năng chẩn đoán của một phép thử và là một cách khách quan để phát hiện những
thỏa hiệp giữa độ nhạy và độ đặc hiệu cho các phép đo cephalometric. Nó được sử dụng để xác định “
điểm cắt” ( giá trị cephalometric ) tại đó phân biệt tương quan xương Class I và class II hoặc class III,
đây là giá trị với xác suất hống kê tối đa, tại một điểm mà một hạng xương thay đổi thành hạng xương
khác ( ví dụ, hạng 1 chuyển sang hạng 2 ). Những phạm vi thông thường được trích xuất và xác nhận
trên những mẫu độc lập và được chứng minh là ít xung đột khi áp dụng vào những bệnh nhân da trắng
riêng rẽ. Lợi ích từ việc sử dụng những tiêu chuẩn này là một set các giá trị có thể sử dụng cho một
phép đo không cần biết đến tuổi, giới của bệnh nhân và hiệu quả sẽ bằng hoặc tốt hơn những trị số
truyền thống.
Bảng 6-10: các trị số phim ceph theo chiều trước sau dành cho nam, nữ chủng người da trắng
tuổi từ 10-18 với tỷ lệ dọc bình thường
Phép đo Phân loại Phạm vi bình thường
Phân tích Template
Trong những năm đầu mới có phân tích phim cephalometric, người ta đã nhận ra rằng việc thể
hiện giới hạn bình thường dạng đồ thị có thể làm ta dễ nhận ra hình ảnh của tương quan. Đồ thị “
Moorees mesh”, phát triển vào những năm 1960s và mới cập nhật gần đây, biểu thị sự bất cân xứng
của bệnh nhân trên nền những ô kẻ. Những năm gần đây, so sánh trực tiếp phim bệnh nhân với
template có sẵn từ nhiều nghiên cứu tăng trưởng khác nhau đã trở thành phương pháp đáng tin cậy
dùng để phân tích, với ưu điểm đáng kể là có thể quan sát trực tiếp những thay đổi xương và răng có
tính bù trừ.
Một trong những mục tiêu của phương pháp phân tích là giảm được số lượng các phép đo
xuống thành nhóm nhỏ mà ta có thể kiểm soát được và có thể so sánh với phạm vi thông thường, từ
đó cung cấp thông tin cho chẩn đoán. Từ lúc bắt đầu, người ta đã nhận ra rằng những số đo dùng để
so sánh với chỉ số thông thường cần phải có một vài đặc điểm nhất định. Cụ thể là những điểm sau
đây: ( 1) các số đo nên có tính ứng dụng lâm sàng trong việc phân loại bệnh nhân sai khớp cắn do
răng hay do xương, (2) các số đo không nên bị ảnh hưởng bởi cỡ người của bệnh nhân ( ví dụ, các tỉ
số cần được duy trì ở những cá thể nhỏ và lớn). Tức là nhấn mạnh vào các phép đo về góc hơn là các
phép đo chiều dài; và (3) các số đo không hoặc ít bị ảnh hưởng, bởi tuổi tác bệnh nhân. Nếu không,
cần phải dùng một bảng chỉ số bình thường với mỗi độ tuổi để tránh tác động của vấn đề tăng trưởng.
Theo thời gian, nhiều số đo rõ ràng đã đáp ứng tiêu chuẩn đầu tiên dùng chẩn đoán nhưng
không đáp ứng được các tiêu chuẩn thứ hai và thứ 3. Phép đo chiều dài có thể được sử dụng như tỉ
số để là chúng không bị thay đổi giá trị, nhưng ngày càng nhiều phép đo chiều dài không được sử
dụng đúng tỉ lệ tương ứng trong chẩn đoán. Ví dụ, hãy chú ý sự tăng tỷ lệ số phép đo chiều dài khi đi
từ phân tích Steiner đến phân tích Harvold/ Wits đến McNamara. Bởi vì các mẫu bệnh nhân trẻ em
tham gia vào các nghiên cứu về tăng trưởng trở nên có sẵn và được sử dụng trong việc xây dựng
tham chiếu cho phim cephalometric, người ta quan sát thấy một số tương quan mà trước đó được cho
là không thay đổi theo tuổi thực tế có thay đổi trong quá trình tăng trưởng. Dù thích hay không, cũng
không phù hợp khi so sánh phim cephalometric của bọn đứa trẻ 9 tuổi với những chỉ số của người lớn,
hoặc ngược lại. Rõ ràng có một ưu điểm khi sử dụng những số chuẩn mà thay đổi ở những độ tuổi
khác nhau, bởi vì nó cho phép một số phép đo chiều dài và đo góc cùng được sử dụng trên lâm sàng.
Bất kỳ bản vẽ cepha nào cũng có thể được biểu diễn bởi một chuỗi những điểm trên trục x và y
( đó cũng là cách phim được số hóa để có thể phân tích phim trên máy tính ). Nhưng dĩ nhiên dữ liệu
phim cepha từ bất kỳ nhóm nào cũng có thể biểu diễn dưới dạng đồ thị bằng cách tính tọa độ trung
bình của mỗi điểm mốc, sau đó nối các điểm với nhau. Kết quả trung bình hoặc composite tracing
thường được coi là template luôn.
Template loại này được chuẩn bị từ những dữ liệu của những nghiên cứu tăng trưởng lớn, cho
thấy những thay đổi trên mặt và xương hàm của bệnh nhân. Hiện tại, các templates có hai hình thức:
Schematic ( Michigan, Burlington ) và anatomically complete ( Broadbent- Bolton, Alabama ). Template
Schematic cho thấy sự thay đổi vị trí của những điểm mốc đã chọn theo tuổi trên một template.
Template anatomically complete, mỗi lứa tuổi là một template khác nhau, đặc biệt phù hợp với so sánh
trực quan trực tiếp của một bệnh nhân so với một nhóm tham chiếu mà vẫn tính đến vấn đề tuổi.
Template của Bolton, đã có ( Khoa chỉnh nha, trường Nha khoa Case-Western Reserve, Cleverland,
Ohio ) được cho là phân tích template được sử dụng nhiều nhất.
Bước đầu tiên trong phân tích template, rõ ràng, là chọn một template đúng từ một bộ của
những độ tuổi khác nhau mà biểu hiện dữ liệu tham chiếu. Hai điều cần nhớ là: (1) cỡ người của bệnh
nhân và (2) tuổi phát triển của họ. Kế hoạch tốt nhất thường là chọn template tham chiếu trước, để cho
chiều dài nền sọ trước ( đo đoạn thẳng SN để ước lượng ) là như nhau cho các bệnh nhân và giữa
các template cá nhân sau đó cân nhắc tuổi phát triển, nhanh hơn hay chậm hơn so với tuổi của
template mẫu, xem xem bệnh nhân phát triển nhanh hay chậm phát triển. Trong hầu hết các ví dụ,
chỉnh sửa sai khác giữa tuổi phát triển và tuổi trung niên cũng dẫn đến việc chọn template sao cho gần
với chiều dài nền sọ trước.
Phân tích sử dụng template dựa vào một chuỗi chồng hình vẽ phim lên template của bệnh nhân
đang được phân tích. Các bước của chồng hình như sau:
1. Chồng hình nền sọ, cho phép đánh giá tương quan xương hàm trên và xương hàm
dưới so với nền sọ ( Hình 6-60 ). Nói chung, phương pháp hữu ích nhất là chồng lên
đường SN, đặt mốc của template lên bản vẽ phim của bệnh nhân từ điểm N trước, sau
mới là S nếu có sự khác nhau trong chiều dài nền sọ. ( Với dự đoán tăng trường dùng
template, cần sử dụng các điểm chồng hình phía sau được mô tả trong phương pháp
dự đoán. Với việc phân tích, đặt SN ở điểm N được ưa chuộng hơn. )
a. Với việc giữ phim trùng với nền sọ, vị trí trước sau và theo chiều dọc của xương
hàm trên và hàm dưới có thể quan sát và mô tả. Ở giai đoạn này, cần để ý rằng
không nhìn vào vị trí răng, mà là vị trí của các điểm mốc biểu hiện đơn vị xương (
ví dụ : gai mũi trước và điểm A đối với nửa trước hàm trên, điểm gai mũi sau đối
với nửa sau hàm trên; điểm B, pogonion và gnathion đối với nửa trước hàm dưới
, điểm gonion đối với nửa sau hàm dưới ). Mục đích là đánh giá vị trí các vị trí
xương. Template được sử dụng để nhìn trực tiếp vị trí hàm của bệnh nhân khác
với chỉ số bình thường như thế nào. Sự bù trừ bên trong một kiểu xương của 1
cá thể được quan sát một cách trực tiếp:
2. Chồng hình thứ hai là lên đường viền lớn nhất của xương hàm trên để đánh giá bộ
răng hàm trên đối với xương hàm trên ( Hình 6-61 ). Một lần nữa, cần đánh giá vị trí răng theo
cả chiều dọc lẫn chiều trước sau. Template giúp cho việc nhìn xem răng sai lệch theo chiều dọc
hay không một cách dễ dàng, thông tin này thường không thấy được trên các kỹ thuật phân tích
bằng số đo.
3. Bước chồng hình thứ 3 là theo đường chính giữa của hàm dưới đi dọc theo viền phía
dưới xương, để đánh giá mối quan hệ của bộ răng hàm dưới với răng hàm dưới ( hình 6-62).
Nếu bóng của ống thần kinh hàm dưới có trên template, ta có thể đạt được hướng chính xác
hơn nếu áp bản vẽ vào đường này hơn là bờ dưới ở nửa sau xương hàm dưới. Cả vị trí theo
chiều dọc lẫn trước- sau của các răng trước và các răng sau đều nên được ghi lại/ chú ý.

Hình 6-60: Chồng hình nền sọ của một template Bolton chuẩn đối với tuổi 14 ( đỏ ) khi phân tích phim của một bé
trai 13 tuổi. Template 14 tuổi được lựa chọn vì nó khớp với chiều đài nền sọ của bệnh nhân . Để ý sự so sánh của template
với phim của bệnh nhân, chiều cao tầng mặt dưới tăng đánh kể và sư xoay hàm dưới xuống xướng được thấy rất rõ. Và cũng
dễ nhận thấy xương hàm trên của bệnh nhây xoay xuống dưới ở phía sau. Sự so sánh của phim vẽ sọ bệnh nhân với một
template có sẵn là một phương pháp trực tiếp hướng tới mô tả mối quan hệ của các đơn vị chức năng mặt.
Hình 6-61: chồng template của Bolton lên xương hàm trên ( ban đầu là đường viền khẩu cái trước ) của bệnh nhân
của hình 6-60. Hình chồng này thể hiện sự nhô ra trước rõ ràng của các răng cửa hàm trên nhưng cho thấy tương
quan dọc của răng hàm trên với xương với bệnh nhân này thì gần như lý tưởng.
Hình 6-62: chồng template của Bolton lên bản vẽ hàm dưới của bệnh nhân trong hình 6-46 cho thấy xương hàm
dưới của bệnh nhân dài hơn bình thường, nhưng thân xương thì ngắn hơn và nghiêng ra sau. Tất cả những răng
dưới đều mọc cao hơn bình thường, đặc biệt là răng cửa.

Phân tích template theo kiểu này có hai ưu điểm:


Thứ nhất, cho phép sử dụng những tiêu chuẩn liên quan đến tuổi một cách dễ dàng
Thứ hai, nó nhanh chóng đem lại một ấn tượng rõ ràng ban đầu là cấu trúc răng mặt
của bệnh nhân liên quan đến nhau như thế nào. Đôi khi, lý do làm các phép đo- vốn dùng để
biết tổng quát hình thái tương quan mặt bệnh nhân lại bị bỏ qua khi cứ chăm chăm vào những
con số. So sánh bệnh nhân với template là một cách tốt để vượt qua sự may rủi đó và phải
chắc chắn rằng bác sĩ không thể chỉ quan sát một cái cây mà bỏ qua cả khu rừng.
Phân tích template thường được cho là ít khoa học hơn là tiến hành một loạt phép đo, nhưng
thực tế thì không phải vậy. Hãy nhớ rằng, bản template chứa đựng chính xác những thông tin
của bảng số đo đều lấy từ một cơ sở dữ liệu ( đối với anatomic template, thì tương ứng với
nhiều bảng phụ khác nữa ). Chỉ là thông tin được biểu thị theo cách khác nhau. Sự khác biệt ở
phương pháp dùng template này là, nhấn mạnh nhiều hơn vào việc đánh giá bệnh nhân ở bất
kỳ chỉ số nào có thể là bất thường ở bệnh nhân và bớt nhấn mạnh tương ứng vào những tiêu
chuẩn cụ thể.
Các template dễ dàng được sử dụng nếu phân tích trên máy tích. Kỹ thuật là lưu các
template trong bộ nhớ máy tính, sau đó kéo lên những template phù hợp để so sánh với bản vẽ
phim số hóa của bệnh nhâ, và sử dụng máy tính để thực hiện chồng hình hàng loạt. Bác sĩ lâm
sàng, nhìn vào cần có đánh giá của riêng mình về tương quan giữa những thành phần khác
nhau của mặt, kết hợp với cái nhìn của phân tích đối ứng và điểm trôi.

Tổng hợp phương pháp sọ - mặt nghiêng đương đại


Trong những năm đầu, phân tích sọ- mặt nghiên được đánh giá là “ trò chơi các con số”,
làm cho điều trị chỉnh nha hướng đến việc làm sao tạo ra những con số nhất định trên phim.
Điều đó có thể có hoặc có thể không đem lại kết quả điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Ở điểm
này, quan điểm chấp nhận hoàn toàn những thoải hiệp của Steiner và đặt ra mục tiêu điều trị
chỉ để tạo ra những con số chắc chắn sẽ bị phê phán. Hiện tại, những bác sĩ có trình độ sử
dụng phân tích cephalo để hiểu rõ hơn căn bản nằm sau vấn đề sai khớp cắn. Để làm được
điều này, họ không chỉ nhìn vào những số đo của một bệnh nhân so sánh với mẫu chuẩn mà
còn nhìn vào hình thái của tương quan, bao gồm tương quan mô mềm. Bất kỳ số đo nào cũng
là để đưa đến cái đích này chứ bản thân chúng không phải cái đích.
Bất kỳ những bước sau là gì ( có thể là số đo hoặc chồng hình template ), điểm bắt đầu
phân tích cephalometric là bằng cách vẽ các mặt phẳng

You might also like