You are on page 1of 42

DỊCH VỤ CÔNG

1. Phân tích khái niệm, đặc trưng của dịch vụ công.


- Dịch vụ là những hoạt động mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu
cầu nào đó của con người, của xã hội.
- Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người
dân vì lợi ích chung của xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội ( trực
tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện) nhằm bảo
đảm ổn định và công bằng xã hội.
- Cung ứng dịch vụ (Sevice delivery) được hiểu “liên quan đến việc cung cấp hàng
hóa công hữu hình và bản thân các dịch vụ vô hình”
- Theo nghĩa rộng:
+ DVC là những hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước can thiệp vào việc cung cấp nhằm
mục tiêu hiệu quả và công bằng.
+ Bao gồm tất cả các hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Chính
phủ gồm: từ ban hành chính sách, pháp luật, quốc phòng, an ninh, toàn án... đến
những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng...
+ DVC là tất cả những gì do Nhà nước làm để phục vụ nhân dân.
- Theo nghĩa hẹp:
+ DVC là những hàng hóa, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và
công dân mà Nhà nước can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và
công bằng.
+ Dịch vụ công ích: phục vụ cho cộng đồng: cầu đường, đê điều, giao thông công
cộng. Vệ sinh môi trường, phóng và chữa bệnh, dạy học, phòng cháy chữa cháy,
giải trí công cộng...
+ Dịch vụ sinh hoạt công cộng: đáp ứng nhu cầu hằng này của người dân như điện,
nước, điện thoại...
+ Dịch vụ xã hội: phục vụ với mục đích nhân đạo như nuôi dạy trẻ mồ côi, hỗ trợ
người già cô đơn, người khuyết tật, cứu trợ thiên tai...
- Thí dụ :
+ Các dịch vụ được nhà nước trực tiếp cung cấp: Thủ tục cấp giấy khai sinh, thủ
tục cấp các loại giấy phép, giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, xử
phạt hành chính, thanh tra hay kiểm tra hành chính,…
+ Dịch vụ được cơ quan ngoài nhà nước thực hiện: Công chứng,…
- “ Công” :
+ Nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội và cộng đồng.
+ Là hoạt động của các cơ quan nhà nước.
( Khi nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư
nhân thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân
phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường).
Sự khác nhau giữa dịch vụ tại khu vực công và khu vực tư.
Nội dung Khu vực công Khu vực tư
Mục tiêu Đạt được sứ mệnh xã hội ( ổn định, Gia tăng sự thịnh vượng của cổ
công bằng). dông.
Mục đích Không vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận
Vị trí Quan trọng, phục vụ, cung cấp dịch Lĩnh vực hẹp hơn
vụ ở nhiều lĩnh vực.
Tính chất sở hữu Sở hữu nhà nước. Sở hữu tư nhân
Nguồn tài chính Ngân sách + lệ phí Doanh thu từ việc bán sản phẩm,
dịch vụ.
Quyền hạn của Được sử dụng quyền lực nhà nước Không được sử dụng quyền lực
người thực hiện nhà nước
Sự cân nhắc chủ Tìm ra phương thức tốt nhất để đạt sứ Tìm và khai thác tối đa nguồn lực
yếu mệnh. của doanh nghiệp bằng cách định
vị nó trong thị trường sản phẩm,
dịch vụ.

ĐẶC TRƯNG CỦA DVC.


 DVC mang tính xã hội.
- Tính xã hội của DVC thể hiện ở chỗ là các hoạt động phục vụ cho nhu cầu, lợi ích
chung của tất cả công dân, đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người dân một cách công
bằng, bình đẳng, không phân biệt giai cấp, địa vị hay tầng lớp xã hội và mục đích là
hướng đến nhu cầu chung của cả cộng đồng, đảm bảo công bằng và ổn định xã hội,
mang tính quần chúng rộng rãi.
- Phục vụ lợi ích chung là tính chất thuộc về bản chất dịch vụ công, nên nó là tiêu
chí chủ yếu để xem xét một loại dịch vụ nào đó có phải là dịch vụ công hay không.
- Tính xã hội ở đây còn được hiểu là những loại hàng hóa, dịch vụ này không chỉ
được cung cấp cho những người mua nó mà còn cho những người không phải trả
tiền cho hàng hóa này.
- Mọi công dân với tư cách là đối tượng được phục vụ của chính quyền thì đều có
quyền ngang nhau. Mọi người đều có quyền như nhau trong việc tiếp cận và sử dụng
các DVC với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Nhà nước có trách
nhiệm và nghĩa vụ cung cấp dịch vụ để phục vụ cho mọi người dân, không phân biệt
đó là người như thế nào.
- Các cán bộ trong cơ quan của nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ nhằm
phục vụ cho mọi công dân, không được phân biệt giữa các nhóm đối tượng. Từ đó
triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, quyền hạn và chức năng của cơ quan hành chính
nhà nước.
 DVC là một loại dịch vụ do Nhà nước trực tiếp cung cấp hoặc ủy quyền cung
cấp.
- Là một loại dịch vụ do Nhà nước trực tiếp cung cấp hoặc ủy quyền thực hiện dưới
sự giám sát của Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội.
- Nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện những DVC nào mà xã hội không thể làm được
hoặc không muốn làm. Nhà nước vừa đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công về
giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, đồng thời phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền
địa phương trực tiếp quản lý và thực hiện các hoạt động DVC liên quan trực tiếp
đến đời sống công dân, cộng đồng. Chính phủ, các Bộ chỉ trực tiếp thực hiện, cung
cấp những loại dịch vụ quan trọng, đòi hỏi chất lượng và trình độ cao.
- Các DVC mà xã hội có thể đảm nhận được, nhà nước thực hiện chuyển giao,
khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tư nhân thực
hiện trong sự định hướng và hỗ trợ của nhà nước. Các DVC nào sau một thời gian,
xã hội có thể hoàn toàn đảm nhiệm được và người dân có thể chấp nhận được với
giá cả thị trường thì chuyển thành các dịch vụ thông thường.
- Nhà nước là người chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân, xã hội về số lượng
dịch vụ cũng như chất lượng dịch vụ.
- Nhà nước chịu trách nhiệm đảm bảo tính công bằng, bình đẳng cho công dân trong
việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ thiết yếu trên cơ sở đó học tập, làm việc,
nâng cao mức sống của bản thân và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của xã
hội.
- Nhà nước thực hiện ủy quyền cho các doanh nghiệp tư nhân hoặc tổ chức phi
chính phủ cung ứng một số dịch vụ công mà nhà nước có trách nhiệm đảm bảo và
nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp tư nhân hay tổ chức phi chính
phủ cần tuân thủ các điều kiện do nhà nước quy định.
- Nhà nước cho tư nhân cung ứng các dịch vụ và chỉ can thiệp gián tiếp đến các
hoạt động này cũng có thể dẫn đến nảy sinh các màu thuận. Khi nhà nước ký hợp
đồng với các tổ chức tư nhân cung ứng DVC cũng khó có thể xác định được một
cách hoàn toàn chính xác các đặc điểm và chất lượng của dịch vụ cần cung cấp. Do
vậy, việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát, đảm bảo tính công bằng, đảm bảo số lượng,
chất lượng cung ứng dịch vụ là hết sức cần thiết.
 Đối tượng cung ứng là loại hàng hóa đặc biệt.
- DVC được hiểu gắn với phạm trù hàng hóa công cộng, đáp ứng nhu cầu của toàn
xã hội bất kể sản phẩm tạo ra là hiện vật hay phi hiện vật.
- Đối tượng cung ứng DVC là hàng hóa đặc biệt:
+ Đó là một loại hàng hóa mà mọi người đều phải sử dụng.
+ Sự công bằng, bình đẳng được bảo đảm. Không phân biệt giai tầng xã hội, không
phân biệt khu vực sinh sống và sắc tộc, loại dịch vụ này được cung cấp một cách
bình đẳng cho mọi người.
+ Hàng hóa được duy trì không chạy theo lợi nhuận kinh tế. Ngay cả khi không
được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn được duy trì.
- DVC là các hoạt động cung ứng cho xã hội hàng hóa công cộng. Loại hàng hóa
này mang lại lợi ích cho người mua và cả những người không phải trả tiền cho hàng
hóa này. Việc cung ứng dịch vụ giáo dục đem lại lợi ích cho người học mà còn tạo
nên mặt bằng dân trí và văn hóa cao hơn, tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế,
phát triển kỹ thuật,…Vì vậy, chính phủ có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong
việc sản xuất hoặc đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng một cách hiệu quả.
 Thể hiện rõ vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước.
- Nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong cung cấp; quản lý và kiểm tra, giám sát; điều
tiết thị trường.
- Nhà nước xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách đối với việc cung ứng dịch vụ
công làm căn cứ pháp lý để tổ chức, chỉ đạo thống nhất. Đồng thời, cũng là cơ sở để
các tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn và tham gia vào việc cung ứng các
dịch vụ công một cách hiệu quả.
- Nhà nước bảo đảm cho những dịch vụ này được duy trì, ngay cả trong trường hợp
nó không đem lại lợi nhuận mong muốn.
- Nhà nước thống nhất chỉ đạo cung cấp dịch vụ công trong toàn xã hội, theo từng
ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, thực hiện kiểm tra và can thiệp để cung cấp
dịch vụ công đáp ứng tối ưu nhu cầu của xã hội.
- Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cung ứng các dịch vụ này cho xã hội, ngay
cả khi nhà nước chuyển giao các dịch vụ này cho tư nhân thì Nhà nước vẫn phải có
vai trò điều tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối, khắc phục
các khiếm khuyết của thị trường
- Nhà nước chịu trách nhiệm cao nhất và cũng là trách nhiệm cuối cùng trong việc
cung ứng đầy đủ số lượng, chất lượng dịch vụ công bao gồm các dịch vụ công do
nhà nước tiến hành trực tiếp hay thông qua các tổ chức, cá nhân khác. Xây dựng cơ
chế, chính sách chung, thống nhất và hoàn thiện cơ chế, chính sách cho mỗi loại
dịch vụ công.
 Không tuân theo quan hệ thị trường đầy đủ.
- DVC được duy trì chủ yếu không theo các quy luật cung - cầu mà nó tồn tại dữ
trên bảo đảm của nhà nước.
- Phần lớn chi phí cho cung ứng DVC là do nhà nước đảm bảo: Hiện nay, pháp luật
quy định người dùng DVC chỉ phải nộp lệ phí dịch vụ, nghĩa là người dùng chỉ phải
hoàn trả một phần rất nhỏ so với giá thành dịch vụ, nhằm mục đích phân biệt giữa
người sử dụng và người không sử dụng và tránh tổn thất xã hội khi người dùng cố
tình sử dụng dịch vụ sang mục đích khác.
- Cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước trực tiếp cung ứng dịch vụ không
được hưởng trực tiếp từ hoạt động cung ứng mà được hưởng mức lương hàng tháng
theo quy định của nhà nước.
- Bên cung cấp nhận lợi ích chủ yếu là để thực hiện chức năng của nhà nước, đáp
ứng yêu cầu của QLNN, phục vụ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dùng.
- Việc trao đổi dịch vụ công không qua quan hệ thị trường đầy đủ, việc chi trả của
người tiêu dùng đối với các dịch vụ công được xác định là phải đảm bảo cân đối với
khả năng chi trả hợp lý của dân cư và tự cân đối thu chi của đơn vị cung ứng dịch
vụ công, dưới sự giám sát của nhà nước, đặc biệt đối với các nhà cung cấp ở khu
vực tư nhân để thu hút khu vực này vào hoạt động cung ứng các loại dịch vụ công
nhằm nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
- Theo quan hệ thị trường đầy đủ người mua phải phải thanh toán trực tiếp khoản
phí của hàng hóa, dịch vụ đó cho người bán song trong cung ứng dịch vụ công
người hưởng thụ các hàng hóa, dịch vụ của nhà nước không trả tiền một cách trực
tiếp mà thông qua hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước.
- Không phải tất cả các dịch vụ đều được miễn phí, vẫn có những dịch vụ mà người
dân phải trả một phần kinh phí nhất định hoặc thậm chí toàn bộ nhưng nhà nước
vẫn phải có trách nhiệm đảm bảo cung ứng các dịch vụ công này không vì mục tiêu
lợi nhuận.
2. Phân tích vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và cung ứng dịch vụ công.
Cho ví dụ minh họa.
- QLNN đối với cung ứng DVC được hiểu là sự tác động của các chủ thể quản lý
hành chính nhà nước đối với quá trình tổ chức cung ứng DVC nhằm bảo đảm thực
hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức một cách dân chủ, hiệu quả và công
bằng.
- Với tư cách là chủ thể chịu trách nhiệm cung ứng DVC, Nhà nước luôn giữ vai trò
quan trọng nhất trong quá trình cung ứng dịch vụ.
- Chúng ta đều biết rằng, nhà nước của bất kỳ chế độ nào cũng bao gồm hai chức
năng cơ bản: chức năng quản lý (hay còn gọi là chức năng cai trị) và chức năng
phục vụ (hay còn gọi là chức năng cung cấp dịch vụ cho xã hội). Hai chức năng này
thâm nhập vào nhau, trong đó chức năng phục vụ là chủ yếu, chức năng quản lý xét
đến cùng cũng nhằm phục vụ. Nhà nước có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ công
thiết yếu cho xã hội. Bên cạnh đó, với chức năng quản lý, nhà nước phải thực hiện
vai trò quản lý và điều tiết xã hội nói chung, trong đó có vấn đề dịch vụ công. Nhà
nước bằng quyền lực của mình, thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, để quản lý và điều tiết hoạt động cung ứng dịch vụ
công, qua đó làm tăng hiệu quả cung ứng dịch vụ công trong toàn xã hội.
- Với tư cách là chủ thể chịu trách nhiệm cung ứng dịch vụ hành chính công, Nhà
nước tham gia cung cấp dịch vụ hành chính công với tư cách trực tiếp để bảo đảm
việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ này thông qua các cơ quan, tổ chức của mình lập
ra. Về nguyên tắc, Nhà nước trực tiếp cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho đa
số trong các trường hợp mà thị trường thất bại và không bảo đảm công bằng trong
cung ứng các dịch vụ này đối với người nghèo. Đó là các dịch vụ gắn với bản chất
của Nhà nước, dịch vụ không thể xác định được các đặc tính đầu ra dịch vụ mang
tính chính trị. Với các loại dịch vụ này, Nhà nước phải trực tiếp đứng ra cung ứng
để đảm bảo bản chất của Nhà nước, tránh những hậu quả xấu về mặt chính trị. Tuy
nhiên, tuỳ theo bối cảnh chính trị của mỗi nước mà Nhà nước quyết định phạm vi
các dịch vụ cần được cung ứng trực tiếp.
- Bên cạnh đó, với tư cách là chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội về việc cung cấp
dịch vụ hành chính công, Nhà nước thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp
luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, để quản lý và điều tiết hoạt động cung ứng
dịch vụ hành chính công, qua đó làm tăng hiệu quả cung ứng dịch vụ hành chính
công trong toàn xã hội.
Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và cung ứng dịch vụ công
 Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng các yếu tố đầu vào để thực hiện hoạt
động quản lý và cung ứng DVC.
- Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý các DVC nói riêng, Nhà nước, với vai
trò thực thi quyền lực công, là chủ thể duy nhất và có đủ điều kiện cần thiết về địa
vị pháp lý, nguồn lực, vật lực để duy trì các hoạt động cung cấp DVC đảm bảo công
bằng xã hội. Đối với những dịch vụ công mà khu vực tư nhân cung cấp có thể khiến
cho một số nhóm người có thu nhập thấp, đối tượng yếu thế cần sự hỗ trợ, giúp đỡ,
quan tâm của xã hội để tiếp cận được dịch vụ thì Nhà nước có vai trò, trách nhiệm
cung cấp trực tiếp hoặc có chính sách để điều tiết, kiểm soát.
- Dịch vụ công là các dịch vụ mà nhà nước khuyến khích và bắt buộc người dân
phải thực hiện. Nhà nước tham gia quản lý ở tất cả phương diện, khía cạnh trong
nhu cầu trao đổi, giao dịch của người dân. Nhằm đảm bảo sự an toàn và trật tự của
toàn xã hội.
- Thông qua cung ứng dịch vụ công, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để đảm
bảo quyền dân chủ và các quyền hợp pháp khác của công dân.
- Thí dụ: Phổ cập giáp dục cấp I và II ( tiến tới cấp III); Cung cấp tri thức an sinh
cơ sở; Phát triển khoa học công nghệ...
+ Cơ quan chủ trì: Chính phủ.
+ Cơ quan phối hợp: Cán bộ, UBND các câp, các CQNN có liên quan.
+ Hình thức: Nhà nước và tư nhân cùng làm.
 Nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng DVC: Sự thuận tiện trong tiếp cận
DVC của người dân, tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn, tổ chức; hỗ trợ, hướng dẫn
kịp thời cho khách hàng; khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với hoạt động
cung ứng DVC; kiểm soát cung ứng DVC; giảm chi phí xã hội trong cung
ứng DVC...
- Cung ứng dịch vụ công là nhiệm vụ quan trọng, liên quan mật thiết đến chất lượng
cuộc sống của Nhân dân, sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
- Nhà nước cung ứng DVC nhằm thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho xã hội, đó là những
hàng hóa, dịch vụ quan trọng, như: điện, nước sinh hoạt, giao thông, giáo dục, chăm
sóc sức khỏe, bảo đảm an ninh an toàn xã hội.
- Nhà nước quản lý hoạt động cung ứng DVC nhằm bảo đảm về số lượng và chất
lượng hàng hóa DVC cho xã hội; bảo đảm cung ứng một cách liên tục, thông suốt,
không gián đoạn.
- DVC phục vụ hoạt động QLNN nên khi hoạt động cung ứng DVC có chất lượng
và hiệu quả cao thì chắc chắn sẽ làm tăng hiệu quả QLNN, đó là: Chi phí cho hoạt
động cung ứng DVC giảm nhiều so với trước đây; người dân, tổ chức dễ dàng và
thuận tiện trong việc sử dụng DVC nên khi người dân, tổ chức chủ động và tự giác
sử dụng DVC thì sẽ làm cho hoạt động QLNN được thuận lợi và đồng bộ hơn. Từ
đó đảm bảo tốt trật tự, an toàn và công bằng xã hội, đồng thời thực hiện hiệu quả
các mục tiêu của QLNN.
- Người dân và tổ chức muốn được sử dụng DVC với chất lượng tốt nhất và chi phí
tuân thủ thủ tục hành chính nhỏ nhất, thế nên Nhà nước luôn phải không ngừng cải
tiến và nâng cao chất lượng cung ứng DVC để đáp ứng yêu cầu QLNN và góp phần
phát triển kinh tế - xã hội.
- Thí dụ như khi nâng cao việc cung ứng các DVC sẽ giúp giảm chi phí xã hội như
việc thực hiện các thủ tục hành chính trực tuyến: Giảm chi phí tuân thủ TTHC: sẽ
có thể làm triệt tiêu hoặc giảm tối đa chi phí đi lại của người dùng, chi phí cho hồ
sơ minh chứng cũng sẽ giảm đi đáng kể vì liên thông dữ liệu trong các cơ quan nhà
nước và người dùng chỉ cần cung cấp thông tin một lần và sẽ được tự động sử dụng
cho các lần tiếp theo ... cùng với đó là thời gian cung ứng DVHCC sẽ còn rất ngắn
so với trước đây, nên người dùng sẽ giảm được tối đa chi phí về thời gian.
 Nâng cao chất lượng và sự hài lòng của người dân, tổ chức.
- Nhà nước phải đặt công dân, khách hàng vào trung tâm của sự phục vụ, cam kết
bảo đảm nâng cao sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của Nhà nước.
- Nhằm nâng cao chất lượng và sự hài lòng của người dân, tổ chức:
+ Nhà nước cần phát huy tính dân chủ, lắng nghe tiếng nói của người dân để hiểu
được mong đợi của họ đối với các dịch vụ được cung ứng.
+ Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo
chất lượng; tăng cường khả năng lựa chọn nhà cung ứng dịch vụ cho người dân,
khách hàng.
+ Nhà nước có cơ chế tạo nhiều cơ hội cho người dân có quyền lựa chọn trong tiếp
cận các DVC.
+ Tạo điều kiện tốt nhất để người dân, khách hàng tiếp cận thông tin, tham gia
đồng hành cùng nhà nước trong quản lý cung ứng DVC.
+ Thiết lập kênh tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người dân, khách hàng đối
với quá trình cung ứng dịch vụ.
- Với mục tiêu của Chính phủ tăng cao tỉ lệ hài lòng của người dùng khi sử dụng
DVC. Thế nên Nhà nước với vai trò nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng DVC,
số hóa đã cho người dùng chủ động sử dụng DVC một cách phù hợp hơn, các thông
tin hướng dẫn sử dụng dịch vụ được cung cấp đầy đủ và chi tiết thông qua các cổng
DVC và các trợ lý ảo hỗ trợ, việc chuẩn bị hồ sơ cũng đơn giản hơn rất nhiều, thậm
chí nhiều DVC người dùng chỉ cần khai báo qua các mẫu online mà không cần cung
cấp thêm bất cứ hồ sơ nào.
 Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc cải thiện năng lực cạnh
tranh của địa phương hay quốc gia, từ đó thúc đẩy đạt các mục tiêu về phát
triển kinh tế.
- Cung ứng DVC nên được xem là công việc của toàn xã hội, đặt dưới sự dẫn dắt
của xu hướng phát triển chung của thời đại và vai trò chủ động của nhà nước.
- Các quốc gia hiện nay đang tìm cách sử dụng tối đa cơ chế thị trường trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ công. Phần lớn dịch vụ công được toàn xã hội tiến hành, nhà
nước chỉ giữ lại những dịch vụ cần thiết nhất. Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng
nhất trong bảo đảm cung cấp dịch vụ công nhưng không nhất thiết phải là người
trực tiếp cung cấp tất cả các dịch vụ đó. Vai trò của nhà nước thể hiện rõ hơn trong
đẩy mạnh quản lý cung ứng dịch vụ công bằng luật pháp, chính sách và các biện
pháp mang tính hỗ trợ, kích thích.
- Xã hội hóa được hiểu là chuyển giao việc cung ứng DVC cho các khu vực ngoài
nhà nước. Xã hội hóa DVC cũng là điều kiện để giải phóng nguồn lực xã hội, giúp
chính quyền các cấp chủ động, sáng tạo trong việc phát huy tiềm năng, lợi thế trong
phát triển kinh tế – xã hội đáp ứng yêu cầu của người dân. Việc chuyển giao một số
dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước sẽ tạo môi trường cạnh tranh, tạo điều
kiện cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Qua đó, tổ
chức ngoài nhà nước có điều kiện để khẳng định chính mình, đáp ứng nhu cầu tốt
hơn và ngày càng cao của công dân. Các tổ chức này luôn phải đổi mới quản lý,
nâng cao hiệu quả để tồn tại và phát triển.
- Chuyển giao việc cung ứng DVC cho các khu vực ngoài nhà nước, huy động mọi
nguồn lực xã hội đáp ứng dịch vụ cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi người tham
gia tích cực vào hoạt động này, phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội;
khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của người dân..., nhờ đó, đa dạng hóa và
tăng nguồn cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Ngoài ra, còn huy động, động viên
sự đóng góp kinh phí của mỗi người dân cho hoạt động cung ứng dịch vụ công của
Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân sách nhà nước để tập trung nguồn lực vào
những nhiệm vụ trọng tâm khác của đất nước.
- Thí dụ:
+ Trong lĩnh vực hàng không, trước năm 1991, chúng ta chỉ có duy nhất một hãng
hàng không độc quyền khai thác là Vietnam Airline, với số lượng tàu bay ít, cũ kỹ
và lạc hậu, chủ yếu là loại máy bay Tu-134B, Yak-40, Fokker-70, ATR-72… khả
năng chuyên chở yếu, chất lượng dịch vụ thấp, giá thành cao. Khi các hãng hàng
không tư nhân được thành lập, đặc biệt là Vietjet Air (tháng 11/2007) đã tạo sự đột
phá trong phát triển của ngành Hàng không Việt Nam, đem lại lợi ích to lớn cho
người dân, Nhà nước và xã hội.
+ Trong lĩnh vực giáo dục, trước năm 1999, ở nước ta chỉ có một loại hình nhà
trường duy nhất do các cơ quan, tổ chức nhà nước thành lập. Đến nay, đã đa dạng
hóa các loại hình nhà trường (trường công lập, tư thục, bán công, chất lượng cao,
quốc tế, nội trú, trường chuyên…). Năm 2020, trên phạm vi cả nước đã có 3.191 cơ
sở giáo dục (giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục đại học), với số lượng học
sinh, sinh viên đang theo học là 1.514.678 người.
+ Trong lĩnh vực y tế, thực hiện chủ trương xã hội hóa DVC, năm 2020, cả nước có
13.547 cơ sở y tế, (trong đó có 47 bệnh viện tuyến trung ương, 470 bệnh viện tuyến
tỉnh, 947 cơ sở y tế tuyến huyện, 11.100 cơ sở y tế tuyến xã, phường, thị trấn, 755
cơ sở y tế của các bộ, ngành và 228 bệnh viện do khu vực tư thành lập). Tổng số
giường bệnh của toàn ngành Y tế năm 2020 là 341.4032.
 Làm gia tăng các giá trị của nền HCC phục vụ nhân dân, đặt nhân dân vào
trung tâm của sự phục vụ, gia tăng các giá trị phục vụ của cán bộ, công chức,
viên chức và cơ quan HCNN.
- QLNN đối với cung ứng DVC cần phải hướng đến cải thiện hiệu quả phục vụ
nhân dân nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu này càng cao của nhân dân. Nhà nước bảo
đảm cơ hội tiếp cận cung ứng DVC cho các thành phần trong xã hội đều như nhau.
Tất cả công dân đều có quyền được tiếp cận hàng hóa DVC do Nhà nước hoặc tổ
chức bên ngoài nhà nước cung ứng.
- Mọi công dân với tư cách là đối tượng được phục vụ của chính quyền thì đều có
quyền ngang nhau. Mọi người đều có quyền như nhau trong việc tiếp cận và sử dụng
các DVC với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Nhà nước có trách
nhiệm và nghĩa vụ cung cấp dịch vụ để phục vụ cho mọi người dân, không phân biệt
đó là người như thế nào.
- Nhà nước luôn cố gắng hướng đến đặc tính không cạnh tranh và không loại trừ đối
với người sử dụng dịch vụ. Chỉ cung ứng dịch vụ không vì mục tiêu lợi nhuận, cho
nên chỉ nhà nước mới có thể đảm bảo cho mọi người đều có quyền ngang nhau
trong việc tiếp cận và sử dụng các DVC với tư cách là đối tượng phục vụ của nhà
nước. Từ đó làm gia tăng các giá trị của nền HCC phục vụ nhân dân, đặt nhân dân
vào trung tâm của sự phục vụ, gia tăng các giá trị phục vụ của cán bộ, công chức,
viên chức và cơ quan HCNN.
- Các cán bộ trong cơ quan của nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ nhằm
phục vụ cho mọi công dân, không được phân biệt giữa các nhóm đối tượng. Từ đó
triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, quyền hạn và chức năng của cơ quan hành chính
nhà nước.
- Như các dịch vụ cấp các loại giấy phép để góp phần kiểm soát và chống lại các
hoạt động tùy tiện của mỗi chủ thể mà có thể làm phương hại đến lợi ích chung của
cộng đồng; các dịch vụ cấp giấy chứng nhận, xác nhận để góp phần đảm bảo quyền
sở hữu tài sản của mỗi chủ thể hoặc công nhận các quan hệ đã phát sinh trong thực
tiễn.
3. Phân tích ưu, nhược điểm của các mô hình cung ứng dịch vụ công hiện nay.
Theo anh (chị) Việt Nam nên áp dụng mô hình nào?
Các mô hình cung ứng dịch vụ công hiện nay
 Mô hình "Nhà nước cung ứng tài chính và Nhà nước tổ chức cung ứng HH-
DVC”
Cơ chế này đã từng được áp dụng phổ biến ở Việt Nam và nhiều nước xã hội
chủ nghĩa (XHCN) khác trước đây, khi phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp. Hiện nay, trên những nét tổng thể và cơ bản, cơ chế này vẫn còn
được áp dụng ở một vài nước như Cuba, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên...
ƯU ĐIỂM
- Ở mô hình này, Nhà nước bỏ vốn ra tạo lập, tiến hành hoạt động sản xuất, cung
ứng HH-DVC trên cơ sở kế hoạch Nhà nước giao, theo cơ chế bao cấp (lãi nộp
ngân sách nhà nước, lỗ sẽ được Nhà nước bù lỗ).
- Do đó, hoạt động sản xuất này không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà nhằm hoàn
thành các kế hoạch, chỉ đạo đã được Nhà nước xây dựng chi tiết trước đó, đảm bảo
mọi điều kiện cần thiết cho các hoạt động xã hội.
- Việc xây dựng các kế hoạch sẽ được Nhà nước cân nhắc, cân đối việc sản xuất,
cung ứng các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội. \ NHƯỢC
ĐIỂM
- Chính vì vai trò tuyệt đối của Nhà nước trong mô hình này đã dẫn tới sự gia tăng
áp lực vốn không ngừng cho ngân sách Nhà nước cũng như sự quá tải của Nhà nước
trong việc cung ứng tất cả các HH-DVC.
- Kết quả tất yếu, chất lượng của các HH-DVC không được đảm bảo, ảnh hưởng tới
hiệu quả đầu tư, sản xuất trong các mặt hàng này.
- Không có sự phân định, phân loại giữa loại hình DNNN hoạt động công ích và
DNNN hoạt động kinh doanh. Điều này xuất phát từ triết lý quản lý cho rằng, Nhà
nước có vai trò vạch ra kế hoạch chi tiết và cân đối việc sản xuất cũng như cung
ứng các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của xã hội và đảm bảo các điều
kiện cho việc thực hiện kế hoạch ấy. Tất cả mọi ngành, mọi địa phương, mọi xí
nghiệp, mọi hoạt động đều phải phục tùng một mục tiêu thống nhất và chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Nhà nước.
 Mô hình "Khu vực tư cung ứng tài chính và khu vực tư tổ chức cung HH-
DVC”
ƯU ĐIỂM
- Mô hình này là hình thức cung ứng trong đó Nhà nước dành phần lớn (nếu không
muốn nói là “hầu hết”) việc cung ứng HH-DVC cho khu vực tư trực tiếp sản xuất
và cho xã hội.
- Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân được phát triển mạnh mẽ,
ngay cả trong lĩnh vực “công”.
- Khu vực tư nhân sẽ dựa trên những cân đối cung – cầu đối với các mặt hàng trên
để tổ chức sản xuất. Tuy không cung ứng mặt hàng trên nhưng Nhà nước đóng vai
trò rất quan trọng trong việc điều tiết việc cung ứng của HH-DVC trên. Sự điều tiết
này được thể hiện qua các công cụ như thuế suất, các chính sách ưu đãi, khuyến
khích hay trợ giá, đặt hàng, … đối với khu vực tư nhân để đảm bảo các doanh
nghiệp khu vực này có thể bù đắp chi phí sản xuất hoặc có lãi khi tham gia hoạt
động này.
- Việc hạch toán kinh tế đối với các HH-DVC do các DNNN sản xuất và cung cấp
không phải dựa trên sự điều tiết của giá cả thị trường.
NHƯỢC ĐIỂM
- Mô hình này được triển khai ở nhiều nước, điển hình như ở Mỹ, số lượng DNNN
rất hạn chế và nếu có, chỉ chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất, cung ứng HH-
DVC.
- Chính phủ Mỹ lại có tác động lớn đối với các quyết định sản xuất và cung cấp các
HH-DVC thông qua sự điều tiết bằng thuế, đơn đặt hàng hoặc trợ giá để có thể làm
thay đổi hành vi của các doanh nghiệp tư nhân (DNTN).
- Do không có giá thị trường để đánh giá những mặt hàng này, HH-DVC phải được
đánh giá theo chi phí đầu vào làm ra chúng.
- Ở Mỹ, các DNNN chủ yếu là các doanh nghiệp công ích, hoạt động không nhằm
mục tiêu lợi nhuận. Số lượng các doanh nghiệp loại này không nhiều, nên các công
ty tư nhân đảm nhận cung ứng phần lớn các HH-DVC cho xã hội.
 Mô hình “Nhà nước và khu vực tư nhân cùng liên kết cung ứng tài chính và
cung ứng HH-DVC”

- Mô hình này, cả Nhà nước và tư nhân đều có thể liên kết, hợp tác sản xuất, cung
ứng HH-DVC cho xã hội.

- Cùng với sự khuyến khích khu vực tư đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế,
Nhà nước cũng muốn có một số doanh nghiệp của mình như là một công cụ điều
tiết trực tiếp việc sản xuất, cung ứng một số HH-DVC quan trọng mà Nhà nước
thấy cần thiết.

- Mô hình này được tiến hành phổ biến ở New Zealand, Singapore… Trong nền
kinh tế này thường xuất hiện các hình thức cung ứng chủ yếu sau:
Một là, hình thức "Nhà nước cung ứng tài chính và khu vực tư nhân tổ chức
cung ứng HH-DVC”. Đây là hình thức được nhiều người gọi là mô hình hợp đồng
giữa Nhà nước và các tổ chức tư nhân trong việc cung ứng HH-DVC do Nhà nước
tài trợ.
+ Toàn bộ kinh phí đảm bảo phục vụ cho cung ứng đều được Nhà nước đảm nhận
chi trả.
+ Chi phí của Nhà nước vừa đảm bảo cho việc hoàn thành sản phẩm HH-DVC,
đồng thời đảm bảo cho doanh nghiệp có lãi để bù đắp và phát triển hoạt động cung
ứng.
+ Ví dụ, để làm một con đường theo nhu cầu xã hội và chủ trương của Nhà nước,
Nhà nước có thể kêu gọi các DNTN, tổ chức đấu thầu, đặt hàng và doanh nghiệp
trúng thầu sẽ nhận kinh phí từ ngân sách nhà nước và tiến hành xây dựng con
đường đó.
+ Hình thức này đặc biệt phát triển, phù hợp với các quốc gia có chủ trương phân
định rõ ràng về chức năng của Nhà nước và chức năng của xã hội trong cung ứng
HH-DVC. Nhà nước không ôm đồm, đặc biệt trong xã hội đã có những doanh
nghiệp thuộc khu vực tư có đủ năng lực đảm bảo tiến độ và chất lượng hoàn thành
xây dựng con đường nói trên.
Hai là, hình thức “Khu vực tư nhân cung ứng tài chính và Nhà nước cung
ứng HH-DVC”. Đây là hình thức được áp dụng để cung ứng những loại HH-DVC
thường gắn liền với đời sống dân sinh mà DNNN có thể được nhân dân (người trực
tiếp thụ hưởng) chọn (thông qua đấu thầu, đặt hàng…) trực tiếp đứng ra tổ chức
cung ứng.
+ Tài chính phục vụ cho việc tổ chức xây dựng cung ứng do người dân đảm nhiệm
chi trả cho doanh nghiệp. Trên cơ sở số tài chính đó, doanh nghiệp sẽ tổ chức cung
ứng.
+ Hình thức này thường được vận dụng ở những địa bàn người thụ hưởng có mức
sống thuận lợi, khá đồng đều và lĩnh vực hoạt động phù hợp.
+ Ví dụ như ở một số địa bàn dân cư, người dân có thể bàn bạc, thoả thuận cùng
thống nhất góp tài chính và kêu gọi một doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước
(DNNN) mà người dân tin tưởng đặt hàng hoặc tổ chức đấu thầu làm các con đường
trong khu dân cư.
Ba là, hình thức “Nhà nước và khu vực tư nhân cùng đầu tư (góp) vốn cùng
cung ứng HH-DVC”. Đây là hình thức cung ứng HH-DVC dựa trên nguyên tắc
bình đẳng giữa các nhà đầu tư, trong đó có Nhà nước.
+ Trong mối quan hệ này, Nhà nước đóng vai trò là một nhà đầu tư, thành viên hay
cổ đông công ty. Các thành viên (cổ đông…) này cùng góp vốn, cùng hưởng lợi và
chịu trách nhiệm về hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp mà mình tham gia.
+ Với tính chất là Nhà nước và khu vực tư nhân cùng đầu tư (góp) vốn cung ứng
HH-DVC, thông thường, hệ quả của hình thức này là sự ra đời các hình thức hợp
tác, liên kết kinh doanh giữa Nhà nước với các tổ chức thuộc khu vực tư nhân hoặc
sự ra đời các công ty hoạt động trong lĩnh vực công mà trong đó, Nhà nước và các
nhà đầu tư thuộc khu vực tư nhân là những cổ đông hoặc thành viên công ty…
+ Hình thức này được thực hiện rộng rãi, khá thành công trên một số ngành, lĩnh
vực của các quốc gia như: dịch vụ hàng không, điện thoại, vận tải biển, tài chính -
ngân hàng… trong giai đoạn 1988 - 1994 ở New Zealand...
1.4. Mô hình "lấp chỗ trống”
- Mô hình này được áp dụng nhằm giải quyết những xung đột lợi ích giữa khu vực
tư nhân và Nhà nước. Do đặc điểm không hướng tới lợi nhuận của các HH-DVC
nhiều doanh nghiệp tư nhân không sẵn sàng hoặc không đủ khả năng tham gia vào
hoạt động cung ứng các mặt hàng trên. Tuy nhiên, đây lại là những mặt hàng đảm
bảo mức độ sinh hoạt tối thiểu của cộng đồng và đảm bảo độc lập quốc gia, vì vậy
với vai trò đặc biệt của mình, Nhà nước sẽ thay thế khu vực tư nhân cung ứng các
hàng hóa, dịch vụ trên. Mô hình này được xây dựng nhằm đảm bảo sự cung ứng đầy
đủ các HH-DVC cần thiết cho xã hội và được áp dụng tại một số nước phát triển
nền kinh tế thị trường xã hội như Đức, Pháp, Thụy Điển…
- Cung ứng HH-DVC có đặc trưng rất cơ bản là khả năng tìm kiếm lợi nhuận rất
khó khăn, nếu như không muốn nói là không có lợi nhuận, bởi những hoạt động này
luôn có sự quản lý tương đối chặt chẽ của Nhà nước với tính chất là phục vụ, đảm
bảo duy trì sự phát triển bình thường và ổn định của đời sống xã hội.
- Mục đích tối thượng, chủ yếu của nó là đảm bảo mức độ sinh hoạt tối thiểu cho
cộng đồng xã hội, bảo vệ sự tồn vong của quốc gia, do vậy, mục tiêu thu lợi trong
cung ứng dường như không đặt ra hoặc có đặt ra thì chỉ ở mức độ thấp, thứ yếu.
- Trong khi đó, bản chất và mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khi được thành lập là tìm kiếm lợi nhuận.
- Vĩ lẽ đó, doanh nghiệp của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là của khu vực tư,
thường không quan tâm đến các lĩnh vực hoạt động thuộc khu vực công mà sản
phẩm làm ra cung ứng cho xã hội là HH-DVC kể cả/mặc dù pháp luật của quốc gia
đó vẫn thừa nhận, cho phép hay khuyến khích các doanh nghiệp thuộc khu vực tư
có quyền đầu tư, cung ứng.
- Hầu hết các hoạt động cung ứng HH-DVC của các nước luôn thiếu sự đầu tư của
các doanh nghiệp thuộc khu vực tư, vì lý do khu vực này không thể làm hay không
dám làm vì không có đủ vốn hoặc không có lợi nhuận hay lợi nhuận thấp.
- Vì lý do đó, Nhà nước với tư cách là một là tổ chức đặc biệt của quyền lực công -
có đủ tư cách đại diện cho một quốc gia, đủ tài chính và trách nhiệm thực hiện chức
năng, vai trò xã hội của mình - phải đứng ra cáng đáng, thực hiện vai trò, sứ mệnh
để xã hội phát triển an toàn, bình thường, tích cực, lành mạnh bằng cách thực hiện
cung ứng HH-DVC thay thế các doanh nghiệp thuần tuý khác.
- Mô hình "lấp chỗ trống” được hình thành, phát triển và đề cập đến nhiều, đặc biệt
ở các nước phát triển nền kinh tế thị trường xã hội như Đức, Pháp, Thuỵ Điển… Ở
các quốc gia này, DNNN có mặt chủ yếu để “lấp chỗ trống” trong sản xuất, cung
ứng HH-DVC mà các DNTN không làm vì các lý do trên.
Một số nhận xét về các mô hình cung ứng hàng hóa, dịch vụ công
Việc cung ứng HH-DVC hiện nay được thực hiện chủ yếu theo ba mô hình sau:
- Thứ nhất, Nhà nước trực tiếp cung ứng thông qua hoạt động của các DNNN hoặc
các đơn vị sự nghiệp. Nhà nước đương nhiên nắm đại đa số các hoạt động công ích,
đặc biệt trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng… và sử dụng công cụ của mình (ở đây
là các DNNN) để thực hiện những công việc đó vì lợi ích của nhân dân, giữ vững an
ninh và chủ quyền quốc gia.
+ Ngoài ra, Nhà nước thường nắm một số loại dịch vụ công quan trọng phục vụ nhu
cầu chung của cả cộng đồng nhưng không một tư nhân nào muốn cung ứng vì nó
không mang lại lợi nhuận hoặc vì tư nhân không đủ quyền lực và vốn để cung ứng.
+ Nhà nước cũng nắm một phần cơ bản các dịch vụ mang tính chất sự nghiệp như
dịch vụ giáo dục, y tế… vì mục tiêu phát triển của quốc gia cũng như các mục tiêu
xã hội.
+ Do mọi hoạt động cung ứng HH-DVC nói riêng và hàng hóa dịch vụ (HH,DV)
nói chung thường nằm trong tay các tổ chức kinh tế của Nhà nước (hoặc tập thể do
Nhà nước chỉ huy) nên việc tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đó chưa thực
sự được quan tâm.
+ Hoạt động kinh tế của các tổ chức kinh tế nhà nước thường kém hiệu quả nhưng
cũng thiếu cơ chế để kiểm tra sự kém hiệu quả đó. Sự thất thoát tài sản nhà nước,
nạn tham ô, tham nhũng xảy ra khá phổ biến, để lại hậu quả cho nền kinh tế.
- Thứ hai, Nhà nước không trực tiếp cung ứng mà uỷ nhiệm cho các tổ chức khác
thực hiện. Ngoài những loại dịch vụ mà Nhà nước phải trực tiếp nắm giữ, một phần
các hoạt động công ích khác được Nhà nước chuyển giao cho những tổ chức ngoài
quốc doanh thực hiện.
+ Phạm vi các hoạt động công ích được chuyển giao cho các tổ chức ngoài quốc
doanh đang ngày càng mở rộng. Tuy nhiên điều cần lưu ý là, khác với việc tư nhân
hoá những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, việc chuyển giao hoạt động công ích
cho các tổ chức ngoài quốc doanh vẫn bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành của Nhà nước
bằng các biện pháp can thiệp gián tiếp đến việc cung ứng các HH-DVC này. Các
biện pháp can thiệp gián tiếp bao gồm:
+ Nhà nước sử dụng các quy chế để điều tiết và kiểm soát các doanh nghiệp và tổ
chức tư nhân trong việc cung ứng HH-DVC theo yêu cầu của Nhà nước.
+ Chẳng hạn, Chính phủ cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cung ứng
điện, nước… cho nhân dân, song sử dụng những quy chế bắt buộc đối với các
doanh nghiệp này như đòi hỏi doanh nghiệp phải cung cấp điện cho những vùng xa
xôi, hẻo lánh; cung cấp thường xuyên, đầy đủ, đồng thời điều tiết mức giá cung ứng
điện, nước.
+ Nhà nước sử dụng biện pháp miễn giảm thuế hoặc trợ cấp cho những tổ chức
ngoài quốc doanh cung ứng các dịch vụ công ích.
+ Ở đây, Nhà nước dùng những biện pháp miễn thuế hoặc trợ cấp, trợ giá với mục
tiêu là một phần lợi ích này sẽ được chuyển lại cho người tiêu dùng qua mức giá
thấp hơn.
+ Để đảm bảo cung ứng một số dịch vụ công cộng cần thiết cho xã hội, như quét
dọn vệ sinh, thu gom rác thải, Nhà nước có thể trợ cấp cho các tổ chức ngoài quốc
doanh trong hoạt động này. Nhà nước có thể miễn thuế cho những doanh nghiệp
ngoài quốc doanh cung ứng nước sạch cho các vùng nông thôn, hoặc phạt hay thu
thuế cao đối với những doanh nghiệp nào làm ô nhiễm không khí, nguồn nước.
+ Nhà nước trợ cấp cho những người tiêu dùng qua thuế hoặc trợ cấp trực tiếp. Ví
dụ, Nhà nước trợ cấp bằng học bổng cho những sinh viên đang học đại học; trợ cấp
hoặc miễn thuế cho những chương trình nghiên cứu cơ bản; trợ cấp cho bệnh nhân
qua giá bán thuốc thấp ở các bệnh viện công.
+ Cho phép tổ chức ngoài quốc doanh cung ứng HH-DVC dưới sự điều tiết của Nhà
nước để đảm bảo cho các tổ chức này hoạt động theo đúng hướng mong muốn. Nhà
nước có thể dùng biện pháp ký hợp đồng trực tiếp với tổ chức để mua lại các HH-
DVC đó và giữ quyền phân phối HH-DVC, hoặc Nhà nước ký hợp đồng với tổ
chức ngoài quốc doanh để cho các tổ chức này tự cung ứng các HH, DV theo các
điều khoản nhất định.
- Thứ ba, Nhà nước và khu vực tư nhân cùng liên kết cung ứng tài chính và cung
ứng HH-DVC. Đây là mô hình cung ứng HH-DVC đang phát triển phổ biến và
mạnh mẽ trên thế giới.
+ Mô hình này có tính kinh tế và hiệu quả xã hội tương đối cao do tính năng động,
sự uyển chuyển và mềm dẻo của việc cung ứng.
+ Mô hình này giúp Nhà nước và khu vực tư có thể liên kết, hợp tác sản xuất, cung
ứng HH-DVC cho xã hội, đa dạng hoá các hình thức cung ứng và phát huy những
mặt tích cực của các thành phần kinh tế.
+ Đồng thời đây cũng là mô hình có khả năng hạn chế, loại trừ những khiếm khuyết
của hoạt động đầu tư bởi sự có mặt của cả Nhà nước và công dân với những thế
mạnh và tiềm lực khác nhau, qua đó bù đắp cho nhau những khiếm khuyết, yếu kém
và phát huy ưu điểm, thế mạnh của mỗi thành phần trong cung ứng HH-DVC; thực
hiện có hiệu quả chức năng kinh tế và vai trò xã hội của Nhà nước và của doanh
nghiệp.
=> Như vậy, các mô hình cung ứng HH-DVC nói trên đều giữ vai trò hết sức quan
trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Một
trong những nguyên tắc quan trọng trong việc lựa chọn mô hình cung ứng HH-DVC
là trong mỗi ngành, lĩnh vực hay địa bàn cần đưa ra hay xác định thứ tự ưu tiên lựa
chọn mô hình.
Ví dụ trong điều kiện phát triển của Việt Nam hiện nay, nếu căn cứ vào tính
chất và tầm quan trọng của HH-DVC, có thể xác định thứ tự ưu tiên các loại hình
cung ứng như: 1) HH-DVC trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và chủ yếu do Nhà
nước cung ứng; 2) HH-DVC thiết yếu về an sinh (liên quan đến ăn, mặc, ở, đi lại ở
mức tối thiểu…) do Nhà nước, nhân dân có thể làm hoặc Nhà nước và nhân dân
cùng làm; 3) HH-DVC nâng cao chất lượng sống (giao thông, công viên, nhà ở chất
lượng cao, tư vấn…) có thu phí; 4) HH-DVC khác (có thể có thứ tự ưu tiên khác
trong điều kiện kinh tế – xã hội khác). Bên cạnh đó, người làm chính sách, pháp
luật cũng không tuyệt đối hoá một cách cứng nhắc sự tối ưu của một loại mô hình
nào. Nguyên tắc “hoàn cảnh nào, mô hình đó” giúp Nhà nước xây dựng chính sách,
pháp luật cũng như các quyết định đúng, phù hợp khách quan, mềm dẻo, hiệu quả.
 Việt nam nên áp dụng mô hình

4. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ công ở
Việt Nam hiện nay.
Thuật ngữ “dịch vụ công” lần đầu tiên được Nghị quyết Hội nghị Trung ương
7 (khoá VIII) (năm 1999) chính thức ghi nhận và đến Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX (năm 2001), thuật ngữ này lại được cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng
khẳng định lại; tiếp sau đó Quốc hội khoá XI đã thống nhất sử dụng thuật ngữ này
trong việc quyết định các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Chính phủ và hệ
thống hành chính nhà nước khi thông qua Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001. Lần
đầu tiên Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định: Chính phủ có nhiệm vụ cơ
bản “Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển
văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công” và bộ, cơ quan
ngang bộ có chức năng “quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh
vực”.
Đặc điểm lớn nhất trong đổi mới việc cung cấp dịch vụ công ở nước ta là
chuyển từ mô hình Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền và có trách nhiệm đáp
ứng mọi nhu cầu về dịch vụ công của xã hội sang mô hình Nhà nước cùng phối hợp
với khu vực tư nhân để thực hiện vai trò này dưới sự chi phối mạnh mẽ của cơ chế
thị trường. Sự chuyển đổi này làm thay đổi tận gốc nhiều quan điểm và giá trị trong
cung cấp dịch vụ công, mặc dù Nhà nước vẫn là người duy nhất chịu trách nhiệm
trước xã hội về vấn đề này để bảo đảm một trong những giá trị truyền thống cao
nhất trong dịch vụ công là sự công bằng, không chỉ đơn giản công bằng về mặt cơ
hội; và hơn nữa là bảo đảm cho xã hội phát triển bền vững.
 Một số kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về cung ứng dịch vụ công
- Thiết lập được khuôn khổ pháp lý QLNN về cung ứng DVC. Các văn bản luật
chuyên ngành, các nghị định của Chính phủ và các thông tư, quyết định của các bộ,
ngành đã cụ thể hóa chủ trương quản lý và cung ứng DVC, làm căn cứ và nền tảng
cho việc huy động các nguồn lực trong xã hội phát triển dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ
y tế, giáo dục. Các quy định hiện hành không chỉ cho phép mà còn có cơ chế, biện
pháp khuyến khích cụ thể đối với các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, cung ứng
DVC.
+ Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về
Chính phủ điện tử. Nghị quyết này đã đưa ra nhiều mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm
nhằm thúc đẩy phát triển chính phủ điện tử tại Việt Nam.
+ Xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý,
cung ứng DVC, như: Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật Giáo dục năm
2019, Luật Môi trường năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014…, tạo hành lang pháp lý
thuận lợi, thông thoáng cho hoạt động quản lý, tạo động lực sản xuất, cung ứng
cũng như đa dạng hóa các chủ thể trong sản xuất
- Xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả cung ứng DVC, như: chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo;
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; phát
triển mạng lưới giao thông, vận tải,… Những chiến lược này được tổ chức thực hiện
có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của người dân trong giai đoạn mới. Đồng thời, ban
hành các hệ thống chính sách nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
cung cấp các DVC, như: chính sách phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới, xây dựng hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; chính sách xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội và chính sách bảo hiểm,
y tế…
- Thời gian qua, đối với tổ chức bộ máy nhà nước về cung ứng DVC được kiện
toàn, tinh giản biên chế được đẩy mạnh và đạt kết quả toàn diện, phù hợp hơn với
yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Đã giảm 3 đầu mối trực thuộc trung
ương, 61 đầu mối trực thuộc cấp tỉnh, 485 đầu mối trực thuộc cấp huyện. Giảm hơn
4.100 đơn vị sự nghiệp công lập, gần 15.200 cấp trưởng, phó, tinh giản 97.900 biên
chế.
- Nhà nước đã đóng vai trò tích cực trong đầu tư, cung ứng DVC và bảo đảm công
bằng xã hội. Nhà nước đã sử dụng một lượng lớn trong ngân sách để đầu tư và cung
ứng DVC. Hằng năm, Chính phủ đều dành khoảng 21% tổng chi đầu tư ngân sách
cho lĩnh vực giáo dục, y tế và khoa học công nghệ, môi trường. Đồng thời, Nhà
nước cũng thực hiện chức năng bảo đảm công bằng xã hội thông qua các chính sách
hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong
xã hội, như cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách;
miễn giảm học phí cho trẻ em dân tộc thiểu số…
- Huy động đa dạng các nguồn lực trong xã hội đầu tư cho dịch vụ sự nghiệp công,
mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ trong xã hội. Việc cho phép các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư và cung ứng DVC để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng
phong phú và đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Trong thời gian qua, mạng lưới các
cơ sở cung ứng DVC đã phát triển mạnh đặc biệt là ở các thành phố lớn, như: Hà
Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, bao gồm cả cơ sở trong nước và nước
ngoài. Trong đó, mô hình liên kết, dân lập và tư thục… bổ sung vào mạng lưới sẵn
có các cơ sở công lập, góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ.
- Đa dạng hóa các dịch vụ sự nghiệp công, phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của các
bộ phận dân cư trong xã hội. Sự tham gia của các cơ sở công lập và ngoài công lập
đã tạo ra sự cạnh tranh trong việc cung ứng DVC để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
và phong phú trong xã hội, đặc biệt là những nhu cầu về dịch vụ gia tăng. Nhà nước
đã bảo đảm cung ứng các dịch vụ thiết yếu và dịch vụ cơ bản; đồng thời Nhà nước
tạo điều kiện để khu vực tư thực hiện cung ứng dịch vụ gia tăng, dịch vụ chuyên
biệt.
- Chất lượng dịch vụ từng bước được nâng cao, đạt dần với các chuẩn mực quốc tế.
Thêm vào đó, sự tham gia của các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, liên kết, hợp tác
cung ứng dịch vụ đã tạo ra cầu nối giữa trình độ phát triển trong và ngoài nước, từ
đó nâng cao chất lượng dịch vụ, mà điển hình là nhiều kỹ thuật khám, chữa bệnh
tiên tiến trên thế giới đã được ứng dụng và phổ biến tại Việt Nam thời gian gần đây,
hay các mô hình đào tạo tương tác, theo chuẩn quốc tế cũng đã ứng dụng trong
nhiều trường học ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
- Việc thực hiện triển khai chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, cung cấp DVC
trực tuyến được đẩy nhanh, làm việc trực tuyến, xử lý hồ sơ công việc trên môi
trường điện tử; cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa quốc gia, một cửa
ASEAN tiếp tục được duy trì, mở rộng, cải thiện về chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Việt Nam hiện đang xếp thứ 88/193 về chính phủ điện tử trực tuyến và thứ 59/193
quốc gia về chỉ số DVC trực tuyến. Đến hết năm 2020, cả nước có trên 56.800 dịch
DVC, trong đó có 45.281 DVC mức độ 3 và 11.519 DVC công mức độ 42.
 Một số hạn chế trong quản lý nhà nước về cung ứng dịch vụ công cần khắc
phục.
- Việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch, chương trình sản xuất và cung ứng DVC
còn nhiều bất cập, mạng lưới cơ sở cung ứng DVC chưa bảo đảm tính hài hòa, cân
đối giữa các vùng, miền, các đơn vị hành chính lãnh thổ. Hiện nay, việc cung ứng
DVC tập trung phần lớn ở các đô thị, một số địa phương có sự phát triển về kinh tế
– xã hội. Mạng lưới cung ứng DVC còn cồng kềnh, chồng chéo chức năng nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy chưa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
- Hệ thống thể chế, chính sách quy định về phân cấp, trao quyền, quản lý và kiểm
tra, giám sát trong tổ chức cũng như hoạt động cung ứng DVC còn chưa hoàn thiện,
nhất là các chính sách tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Chính sách
tạo động lực thu hút các nhà đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực
xây dựng hạ tầng.
- Quan điểm về thị trường DVC chưa thống nhất. Hiện nay, mặc dù những nhân tố
cơ bản của thị trường DVC đã hình thành, như bên cung, bên cầu, các tổ chức tư
vấn, trung gian hỗ trợ thị trường, chi phí/giá cả dịch vụ… nhưng các quy định chưa
nhất quán trong thừa nhận đây là một thị trường đặc biệt, trong đó Nhà nước đóng
vai trò hết sức quan trọng từ khâu tổ chức cung ứng, xác lập các loại hình dịch vụ,
đến phân loại và hỗ trợ một số nhóm người sử dụng dịch vụ; tổ chức kiểm tra, giám
sát thị trường.
- Còn có nhận thức khác nhau về vai trò của Nhà nước trong tổ chức và cung ứng
DVC. Về vai trò của Nhà nước, nhiều ý kiến lo ngại rằng xã hội hóa sẽ làm giảm
vai trò của Nhà nước trong “bảo đảm” cung ứng DVC, đẩy gánh nặng sang khu vực
tư nhân và người dân. Vấn đề này cần được làm rõ để thống nhất nhận thức, theo
đó, để nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận DVC.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập đã được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
nhưng nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào Nhà nước. Quy định hiện
hành đã cho phép và buộc các đơn vị sự nghiệp công phải tự chủ trong hoạt động
của mình, nhưng rất ít các đơn vị thực sự độc lập trong tổ chức và hoạt động. Thực
trạng này xuất phát từ cả phía bản thân cơ sở và cũng từ phương thức quản lý của
Nhà nước. Cụ thể là: mặc dù được giao quyền tự chủ, nhưng quản lý nhân sự, quản
lý tài chính vẫn phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan chủ quản, dẫn đến tính chủ động và
sáng tạo cũng như khả năng sẵn sàng chịu rủi ro trong thị trường bị hạn chế. Bản
thân các đơn vị do còn có sự hỗ trợ của Nhà nước từ nhiều mặt (đầu tư, chi phí hoạt
động, cơ chế giao nhận công việc, uy tín là một cơ sở công lập…) làm cho hầu hết
các đơn vị không muốn tách ra khỏi cái “bóng” của Nhà nước để tổ chức hoạt động
theo cơ chế cạnh tranh bình đẳng của thị trường.
- Nguồn lực của nhiều đơn vị tổ chức và cung ứng DVC vẫn chủ yếu dựa vào ngân
sách nhà nước mặc dù đã có cơ chế huy động. Các cơ chế khuyến khích vẫn chưa
đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia xây dựng các cơ sở cung ứng dịch vụ. Bên
cạnh đó, Nhà nước chưa quyết liệt dừng tài trợ các dịch vụ mà thị trường đã thực
hiện tốt, để dành nguồn lực đầu tư cho các vùng còn khó khăn và tập trung cho
những loại dịch vụ thiết yếu và cơ bản – vốn thuộc chức năng cung ứng của Nhà
nước.
- Các thiết chế phụ trợ bảo đảm cho sự vận hành của thị trường DVC chưa hoàn
chỉnh. Trong quá trình hoạt động các thiết chế này vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập,
như bảo hiểm y tế trong nhiều trường hợp còn dàn trải, trong khi nhiều dịch vụ,
thuốc chữa bệnh vẫn không được tiếp cận, hay hiệu lực bảo hộ về sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam rất thấp, không khuyến khích các cá nhân phát minh, sáng chế… Một số
thiết chế, như: tổ chức đánh giá tín nhiệm các cơ sở giáo dục, các tổ chức kiểm định
chất lượng cơ sở y tế… cũng cần bổ sung.
 Một số giải pháp đề xuất nhằm đổi mới quản lý nhà nước về cung ứng dịch
vụ công
QLNN về cung ứng dịch vụ sự nghiệp công phải theo các nguyên tắc bảo
đảm công bằng xã hội theo định hướng XHCN. Trên cơ sở thực trạng quản lý và
yêu cầu khách quan của xã hội, đổi mới QLNN về cung ứng DVC, cần thực hiện
một số giải pháp, như sau:
- Một là, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật về quản lý và
cung ứng DVC. Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành
pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh theo hướng: Nhà nước xác
định rõ ranh giới và phạm vi cung ứng dịch vụ; khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư cung ứng DVC. Cụ thể: các biện pháp khuyến khích về tài chính,
đầu tư, như: giảm, miễn tiền sử dụng đất, tiếp cận tín dụng ưu đãi, miễn giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp… đối với các cơ sở dịch vụ sự nghiệp công phi lợi nhuận.
Đối với dịch vụ thiết yếu, như: giáo dục tiểu học, y tế dự phòng, khoa học cơ
bản, nhà nước sẽ chi trả 100% kinh phí đầu tư và hoạt động của các cơ sở này. Thực
hiện việc tài trợ trực tiếp cho người sử dụng, thay vì thông qua đơn vị cung ứng
dịch vụ như hiện nay. Khi đó, sử dụng dịch vụ ở đâu thì Nhà nước chi trả phí dịch
vụ ở đó, không phân biệt công lập hay ngoài công lập. Thực hiện cơ chế đấu thầu
cung ứng dịch vụ giữa các đơn vị công lập và ngoài công lập, như: nghiên cứu, đào
tạo, cung cấp điện, nước, giao thông công cộng, cảnh quan đô thị và môi trường…
- Hai là, Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, cơ chế
phân bổ nguồn lực đầu tư cho cung ứng DVC theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền
sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người
dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử dụng cơ chế, các nguồn lực,
công cụ… phân phối, phân phối lại để thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.
- Ba là, các bộ, ngành thực hiện chức năng QLNN đối với lĩnh vực mình phụ trách,
ban hành chính sách, cơ chế, quy định, kiểm tra… tiến tới bỏ cơ chế chủ quản đối
với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Thay vào đó, các cơ sở này hoạt động bình
đẳng với các cơ sở ngoài công lập và chịu sự QLNN của các cơ quan hành chính.
Thành lập mới các tổ chức nhằm thúc đẩy sự phát triển dịch vụ sự nghiệp công, như
tổ chức đánh giá chất lượng dịch vụ giáo dục, bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp… Ban
đầu tổ chức này có thể có sự tham gia của Nhà nước, song về lâu dài nên là tổ chức
của các chuyên gia uy tín, độc lập.
- Bốn là, cải cách hành chính về cung ứng DVC theo hướng hiện đại, dựa trên đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo,
phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp. Thực
hiện QLNN chủ yếu bằng điều chỉnh gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm tối đa
rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp. Xây dựng và
đưa vào vận hành hệ thống tích hợp số liên thông các cơ sở dữ liệu về dân cư, y tế,
giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho đời
sống của người dân.
- Năm là, các cơ quan quản lý ngành từ cấp trung ương đến địa phương tổ chức việc
cung ứng dịch vụ đầy đủ và bảo đảm chất lượng. Nhà nước đầu tư và bảo đảm cung
ứng đối với các dịch vụ thiết yếu; tham gia đầu tư và cung ứng đối với dịch vụ cơ
bản; khuyến khích và hỗ trợ đầu tư đối với dịch vụ gia tăng và dịch vụ khác. Căn cứ
vào loại hình dịch vụ thiết yếu, cơ bản hay gia tăng mà Nhà nước đầu tư trực tiếp
toàn bộ hay một phần hoặc khuyến khích đầu tư vào các cơ sở cung ứng dịch vụ.
Tiến tới lựa chọn các dự án tốt, cần thiết, hiệu quả của các cơ sở cung ứng dịch vụ
để đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, không phân biệt đơn vị tiếp nhận đầu tư là
công lập hay ngoài công lập.
- Sáu là, từng bước cổ phần hóa các cơ sở cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Ngoại
trừ các cơ sở cung ứng dịch vụ thiết yếu, do Nhà nước đầu tư 100%, các cơ sở cung
ứng dịch vụ cơ bản và dịch vụ gia tăng, dịch vụ khác từng bước tiến hành cổ phần
hóa. Đối tượng có thể xem xét cổ phần hóa trước là các bệnh viện, trường học, cơ
sở nghiên cứu khoa học đang tự chủ bảo đảm một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt
động. Trường hợp không cổ phần hóa được thì cũng áp dụng mô hình quản trị
doanh nghiệp vào các cơ sở này.
- Bảy là, cơ quan thanh tra chuyên ngành phải thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra
thường xuyên và liên tục nhằm nâng cao hiệu quả QLNN trong lĩnh vực mình quản
lý. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp và tiếp nhận thông tin từ các tổ chức xã
hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức dân sự và mỗi cá nhân để xử lý vi phạm của các cơ
sở cung ứng dịch vụ, nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và bảo đảm thị trường
phát triển lành mạnh. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức
chính trị – xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và
giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Kết luận
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam như hiện nay, việc làm rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong quản
lý và tổ chức cung ứng DVC là một nhiệm vụ quan trọng.
Đổi mới thể chế một cách mạnh mẽ, theo đó, các cơ chế, chính sách của Nhà
nước phải được xây dựng lại với nhận thức xuyên suốt dựa trên bản chất “công” của
từng loại DVC được cung cấp. Phân định rõ chức năng của Nhà nước và thị trường
ở từng khâu của quá trình tổ chức cung ứng DVC. Cơ chế phân bổ nguồn lực, các
phương thức tài trợ trong tổ chức và cung ứng DVC cần được dựa trên cơ chế cạnh
tranh và kết quả đầu ra. Bên cạnh đó, cần nhìn nhận đúng vai trò cũng như có cơ
chế khuyến khích hơn nữa sự tham gia của xã hội trong cung ứng DVC, đặc biệt là
ở công tác kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng. Cần tạo dựng cơ chế để kiến tạo
thị trường DVC phát triển, ở đó có sự bình đẳng giữa các cơ sở cung ứng nhằm bảo
đảm khả năng tiếp cận và lựa chọn tốt nhất của các đối tượng thụ hưởng đối với
từng loại DVC. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, mặt trận và các
đoàn thể để thi đua phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây
dựng chính quyền các cấp để đáp ứng yêu cầu phục vụ Nhân dân.
5. Phân tích quan điểm, yêu cầu và phương hướng đổi mới hoạt động cung ứng
và quản lý dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay.
 Sự cần thiết phải đổi mới hoạt động cung ứng và cung ứng DVC ở Việt Nam.
- Hiệu quả cung ứng DVC thấp
+ Số lượng, chất lượng, năng lực quản lý, điều hành.
+ Tình trạng độc quyền ( quan liêu, cửa quyền, Nhà nước bao bọc).
+ Tiêu cực trong việc hưởng trợ cấp ưu đãi của Nhà nước.
+ Đời sống Kinh tế - xã hội, mức sống của người dân nâng cao => nhu cầu thay đổi
( dịch vụ đa dạng, chất lượng).
=> Đổi mới là nhu cầu tự thân.
- Bộ máy hành chính còn nhiều bất cập
+ Mang nặng dấu ấn cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.
+ Chức năng, nhiệm vụ chưa phù hợp, phân cấp chưa rõ ràng.
+ Phương thức, thủ tục cung ứng DVC rườm rà => có dịch vụ.
+ Đội ngũ CBCC còn nhìu yếu kém.
=> Đổi mới mang tính tất yếu.
- Thiếu hụt ngân sách trong cung ứng DVC.
+ Ngân sách chung eo hẹp.
+ Ngân sách phân bổ cho DVC ( Đơn vị sự nghiệp) tăng nhưng chưa đáp ứng nhu
cầu thực tế.
+ Chế độ thu phí mang tính chất bình quân.
- Xu thế dâm chủ hóa sâu rộng và mạnh mẽ.
- Tiến trình đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ.
 Quan điểm đổi mới hoạt động cung ứng DVC ở VN.
- Đề cao vai trò, trách nhiệm của nhà nước trong quản lý và cung ứng DVC cho
người dân và xã hội.
+ Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng đối với việc cung cấp dịch vụ công, đặc
biệt trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng, phong
phú trên nhiều lĩnh vực; từng bước mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ
công, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc cung cấp các dịch vụ này
cũng là một trong những điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt nhất các quyền con
người, quyền công dân ở Việt Nam trong tình hình mới.
+ Nhà nước chịu trách nhiệm cao nhất và cũng là trách nhiệm cuối cùng trong việc
cung ứng đầy đủ số lượng, chất lượng dịch vụ công bao gồm các dịch vụ công do
nhà nước tiến hành trực tiếp hay thông qua các tổ chức, cá nhân khác. Xây dựng cơ
chế, chính sách chung, thống nhất và hoàn thiện cơ chế, chính sách cho mỗi loại
dịch vụ công.
+ Nhà nước cung ứng DVC nhằm thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho xã hội, đó là
những hàng hóa, dịch vụ quan trọng, như: điện, nước sinh hoạt, giao thông, giáo
dục, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm an ninh an toàn xã hội.
+ Nhà nước quản lý hoạt động cung ứng DVC nhằm bảo đảm về số lượng và chất
lượng hàng hóa DVC cho xã hội; bảo đảm cung ứng một cách liên tục, thông suốt,
không gián đoạn.
+ Nhà nước bảo đảm cơ hội tiếp cận cung ứng DVC cho các thành phần trong xã
hội đều như nhau. Tất cả công dân đều có quyền được tiếp cận hàng hóa DVC do
Nhà nước hoặc tổ chức bên ngoài nhà nước cung ứng.
+ Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp cung ứng DVC hoặc định hướng, khuyến
khích tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia thông qua việc xây dựng các
chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án.
- Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính sách, pháp luật về DVC.
+ Được gọi chung là dịch vụ công, nhưng nó gồm nhiều loại và trong mỗi loại lại
có nhiều hình thức dịch vụ cụ thể mang những tính chất riêng. Tham gia vào cung
ứng các dịch vụ đó trong điều kiện xã hội hiện đại, gồm nhiều chủ thể khác nhau:
nhà nước, thị trường, các tổ chức xã hội, các cá nhân... Ngay trong khu vực nhà
nước cũng gồm nhiều chủ thể khác nhau: cơ quan hành chính, tổ chức đơn vị sự
nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước. Việc cung ứng dịch vụ của các chủ thể nhằm
những mục đích khác nhau. Chính vì vậy, Nhà nước phải xây dựng một hệ thống cơ
chế chính sách đối với việc cung ứng dịch vụ công làm căn cứ pháp lý để tổ chức,
chỉ đạo thống nhất. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để các tổ chức xã hội và công dân
có thể lựa chọn và tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công một cách hiệu quả.
+ Việc xây dựng, hoàn chỉnh, đồng bộ và thống nhất chính sách về dịch vụ công
còn là để đảm bảo sản phẩm hàng hóa dịch vụ công đến tận tay người được hưởng
thụ, khắc phục sự thất thoát từ những tổ chức thực hiện dịch vụ.
- Phân biệt quản lý nhà nước về DVC với hoạt động cung ứng DVC.
Cung ứng DVC Quản lý nhà nước
Mqh giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị
Mqh giữa người cung ứng và khách hàng
quản lý
Là giao dịch cụ thể giữa người cung ứng Quan hệ tương tác giữa các CQHCNN
và khách hàng trong thực thi nhiệm vụ
Từ yêu cầu của tổ chức, cá nhân Từ yêu cầu của BMNN
Được thu tiền trực tiếp từ khách hàng đối Không thu tiền trực tiếp của khách hàng,
với một số dịch vụ theo quy định của PL được bù đắp hoàn toàn từ ngân sách
- Nhà nước tiếp tục đầu tư ngân sách hợp lý cho DVC, đồng thời, thu hút mạnh mẽ
các nguồn lực xã hội tham gia cung ứng DVC.
+ Việc đổi mới hoạt động cung ứng DVC cho các khu vực ngoài nhà nước, huy
động mọi nguồn lực xã hội đáp ứng dịch vụ cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi
người tham gia tích cực vào hoạt động này, phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng
trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của người dân..., nhờ đó, đa
dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Ngoài ra, còn huy động,
động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người dân cho hoạt động cung ứng dịch vụ
công của Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân sách nhà nước để tập trung nguồn
lực vào những nhiệm vụ trọng tâm khác của đất nước.

- Đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch, dân chủ và hiệu quả trong quản lý và
cung ứng DVC.
+ Nhà nước, một trong những chức năng chủ yếu là cung cấp dịch vụ hành chính
(dịch vụ công) cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp. Hoạt động này mang tính chất
phục vụ nhân dân nhiều hơn, hiệu quả của hoạt động hành chính xét dưới góc độ
cung cấp dịch vụ công được đánh giá bằng mức độ hài lòng của người dân và chất
lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ.
+ Khi chất lượng và hiệu quả hoạt động cung ứng DVC được nâng cao thì mức độ
hài lòng của nhân dân cũng tăng lên, điều đó phụ thuộc vào mức độ công khai,
minh bạch trong hoạt động hành chính.
+ Ngược lại, khi sự công khai, minh bạch không được đề cao, quá trình xây dựng
thể chế sẽ có chỗ cho hiện tượng “mua, bán chính sách”, thủ tục hành chính không
rõ ràng là cơ hội để cán bộ công quyền nhũng nhiễu, hạch sách người dân, là môi
trường để những hành vi tham nhũng, tiêu cực nảy sinh. Việc được tiếp cận với các
thông tin cho phép công dân chất vấn, chỉ trích và cản trở các hành động của chính
quyền mà họ không đồng tình, cũng như cho phép họ tìm cách uốn nắn các hành vi
sai trái của các quan chức. Công khai gắn liền với minh bạch. Nhà nước công khai,
minh bạch phải có trách nhiệm tạo điều kiện để người dân có thể tiếp cận được với
các văn bản và thông tin của chính quyền.
- Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức cung ứng DVC.
+ Nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện những DVC nào mà xã hội không thể làm được
hoặc không muốn làm. Nhà nước vừa đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công về
giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, đồng thời phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền
địa phương trực tiếp quản lý và thực hiện các hoạt động DVC liên quan trực tiếp
đến đời sống công dân, cộng đồng.
+ Các DVC mà xã hội có thể đảm nhận được, nhà nước thực hiện chuyển giao,
khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tư nhân thực
hiện trong sự định hướng và hỗ trợ của nhà nước. Các tổ chức cung ứng DVC khi
đảm nhận nhiệm vụ cung ứng các DVC được giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm.
+ Tuy nhiên, các đơn vị sự nghiệp công lập đã được giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, nhưng nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào Nhà nước.
Quy định hiện hành đã cho phép và buộc các đơn vị sự nghiệp công phải tự chủ
trong hoạt động của mình, nhưng rất ít các đơn vị thực sự độc lập trong tổ chức và
hoạt động. Thực trạng này xuất phát từ cả phía bản thân cơ sở và cũng từ phương
thức quản lý của Nhà nước. Cụ thể là: mặc dù được giao quyền tự chủ, nhưng quản
lý nhân sự, quản lý tài chính vẫn phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan chủ quản, dẫn đến
tính chủ động và sáng tạo cũng như khả năng sẵn sàng chịu rủi ro trong thị trường
bị hạn chế.
- Xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền trong quản lý và cung ứng
DVC.
+ Hệ thống các cơ quan nhà nước theo nhiều tầng nấc đòi hỏi có sự phân định rõ
ràng về trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cấp. Việc phân chia quyền lực nhà nước
cho các cơ quan nhà nước khác nhau là cách thức để quyền lực nhà nước được sử
dụng hiệu quả nhất, tránh lạm dụng quyền lực nhà nước để phục vụ cho lợi ích
riêng.
+ Nhà nước thống nhất chỉ đạo cung cấp dịch vụ công trong toàn xã hội, theo từng
ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, thực hiện kiểm tra và can thiệp để cung cấp
dịch vụ công đáp ứng tối ưu nhu cầu của xã hội.
+ Việc phân cấp, phân quyền trong quản lý và cung ứng DVC từ đó phát huy tính
chủ động, sáng tạo, xác định rõ tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn
với kiểm soát quyền lực.
 Phương hướng đổi mới hoạt động cung ứng DVC tại VN.
Nghị quyết số 19 - NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6, BCHTW
Đảng khóa XII đã đề ra mục tiêu:
- Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các Đơn vị sự nghiệp công lập,
bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường DVSNC.
- Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tin
giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức.
- Cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao.
- Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho Đơn vị sự
nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao
thu nhập cho CB, CC, VC trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần
kinh tế tham gia phát triển dịch vụ ĐVSN.
6. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cung ứng
dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay.
 Đổi mới nhận thức về chức năng phục vụ của Nhà nước.
- QLNN đối với cung ứng DVC hướng đến xây dựng nền hành chính dân chủ, pháp
quyền; quyền con người, quyền công dân.
- QLNN đối với cung ứng DVC hướng đến mục tiêu phục vụ nhân dân, đặt người
dân vào trung tâm của sự phục vụ là tư tưởng xuyên suốt.
- QLNN đối với cung ứng DVC gắn liền với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo
của người dân.
 Hoàn thiện về hệ thống VBQPPL về cung ứng DVC.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách
nhiệm giải trình của tất cả các chủ thể liên quan trong quản lý và cung ứng DVC.
- Nhà nước có 4 nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Ban hành khung pháp lý và cơ chế QLNN về DVC, cơ chế quản lý đối với hoạt
động của tất cả các chủ thể liên quan.
+ Đảm bảo nguồn lực chủ yếu để sản xuất và cung ứng DVC.
+ Ban hành cơ chế cung ứng DVC phù hợp đối với từng lĩnh vực.
+ Ban hành cơ chế, chính sách thực hiện các chính sách xã hội trong cung cấp các
DVC.
 Tách biệt hoạt động cung ứng DVC ra khỏi hoạt động QLNN.
- Phân định rõ hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp công ích của
Nhà nước cung ứng DVC với hoạt động của các CQHCNN.
=> Khắc phục tình trạng cơ quan QLNN các cấp can thiệp quá sâu vào hoạt động
của các cơ sở cung ứng DVC.
 Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công
- Xây dựng và ban hành tiêu chí phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, giải thể
các ĐVSN công lập theo ngành, lĩnh vực.
- Xây dựng Đề án tổng thể sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập,
nhằm giảm mạnh đầu mối ( giảm 10% đến nắm 2021 và 20% đến năm 2025): giải
thể, sáp nhập, chuyển địa phương...
- Xây dựng quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp theo ngành, lĩnh vực và của
các bộ, ngành, địa phương.
 Xã hội hóa hoạt động cung ứng DVC
- Lợi ích cả XHH DVC:
+ Sự thay đổi cơ bản về nhận thức => ý thức trách nhiêmh, hiểu biết về quyền và
nghĩa vụ công dân.
+ Huy động nguồn lực, giảm gánh nặng cho NSNN, tạo nguồn thu cho NSNN.
Xã hội hóa DVC nhằm để huy động mọi nguồn lực xã hội đáp ứng dịch vụ
cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt động này,
phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, chủ
động, tích cực của người dân... nhờ đó đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch vụ
công cho xã hội. Ngoài ra còn huy động, động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi
người cho hoạt động cung ứng dịch vụ công cho Nhà nước; làm giảm gánh nặng
ngân sách cho Nhà nước để Nhà nước tập trung ngân sách vào những nhiệm vụ
trọng tâm của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
+ Hạn chế một số hiện tượng tiêu cực, thay đổi thái độ ứng xử và cung cách phục
vụ.
+ Tạo ra sự cạnh tranh => nâng cao hiệu quả.
Việc chuyển giao một số dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước sẽ tạo ra
môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng
những dịch vụ tốt nhất. Qua đó, tổ chức ngoài Nhà nước có điều kiện để khẳng định
chính mình, đáp ứng nhu cầu tốt hơn và ngày càng cao của công dân. Các tổ chức
này luôn phải đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả để tồn tại và phát triển.
- Bất lợi của XHH DVC:
+ Người nghèo khó tiếp cận đến DVC cơ bản.
Qua hoạt động này, nhu cầu của các tổ chức và công dân được đáp ứng nhiều
hơn, giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước; phát huy được tiềm lực chủ động
sáng tạo của nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động này, Nhà nước phải quản lý chặt chẽ
thông qua các hoạt động chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các dịch vụ tư, đảm bảo nhu
cầu của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, công bằng hơn.
+ Mất cân đối ngành nghề, vùng miền.
+ Chất lượng dịch vụ khó kiểm soát.
+ Sự đối xử không công bằng giữa cơ sở công lập và tư nhân cùng cung ứng DVC.
+ CQNN lợi dụng buông xuôi trách nhiệm.
+ Tư nhân chi phối thị trường về dịch vụ công cơ bản, thiết yếu.
+ Lãng phí nguồn lực.
+ Chảy máu chất xám.
+ Lợi dụng gây ảnh hưởng an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Nội dung hoạt động xã hội hóa DVC
+ Xây dựng danh mục sự nghiệp công của các ngành, lĩnh vực do NSNN bảo đảm
( vùng sâu, xa, khó khăn).
+ Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài
công lập, xây dựng chính sách và thúc đẩy thực hiện xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp
công.
+ Ban hành Nghị định về cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo
ngành, lĩnh vực.
+ Xây dựng cơ chế kết hợp công - tư về nhân lực và thương hiệu; cơ chế hợp tác
đầu tư liên doanh, liên kết giữa công và tư.
+ Chuyển một số dịch vụ cong cho các tổ chức xã hội, doanh nghiệp thực hiện.
 Nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công.
- Sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong từng ĐVSN công theo hướng tinh gọn,
giảm đầu mối, ứng dụng công nghệ thông tin và các tiêu chuẩn, chuẩn mực quản trị
quốc tế.
- Tổ chức đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo quản lý để nâng cao năng lực quản trị
ĐVSN công.
 Hoàn thiện cơ chế tài chính
- Xây dựng khung giá dịch vụ công; từng bước tinh dùng, tính đủ chi phí theo hỗ trợ
trực tiếp cho đối tượng sử dụng; nhà nước giao nhiệm vụ, đặt hàng.
Đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị cung ứng DVC
- DVC hành chính :
+ Mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ kinh phí do NSNN
cấp.
- DVC sự nghiệp:
+ Mức độ tự chủ lớn hơn nếu tự bảo đảm được một phần hay toàn bộ chi phí
thường xuyên.
- DVC công ích:
+ Hoạt động theo luật doanh nghiệp, với nguồn kinh phí được cấp theo kế hoạch,
đặt hàng hoặc đấu thầu từ NSNN.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về cung ứng DVC trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cần quan tâm tới một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về quản
lý, cung ứng DVC. Việc rà soát tập trung theo hướng giảm bớt sự chồng chéo,
vướng mắc trong quản lý, tổ chức cung ứng DVC, nhất là trong lĩnh vực: (1) Sản
xuất điện, nước; (2) Xây dựng hạ tầng, nhà ở; (3) Thông tin – truyền thông; (4)
Giáo dục; (5) Y tế.

Hai là, tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý cung ứng DVC cho chính
quyền địa phương; tăng cường tính kỷ luật, kỷ cương hành chính; phát huy tính chủ
động, linh hoạt cũng như tiềm năng, lợi thế của địa phương trong quản lý, xây dựng
chính sách. Đồng thời, cần đẩy mạnh xã hội hóa trong sản xuất, cung ứng DVC,
nhất là trong lĩnh vực: môi trường, hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế,
thông tin – truyền thông.

Ba là, thực hiện có hiệu quả chiến lược Chương trình tổng thể cải cách hành chính
giai đoạn 2021 – 2030; tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất,
chế biến, lưu thông và cung ứng sản phẩm, hàng hóa DVC. Tổ chức thực hiện có
hiệu quả các dịch vụ hành chính công trực tuyến ở mức độ 3, 4 theo Nghị định số
43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin
và DVC trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử và Quyết
định số 249/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Chương trình “Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030”.

Bốn là, hoàn thiện chiến lược, quy hoạch mạng lưới các tổ chức, đơn vị cung ứng
DVC trên phạm vi cả nước. Tổ chức rà soát các tổ chức, đơn vị sản xuất, cung ứng
DVC theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập.

Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế nhà nước theo tinh
thần của Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 về chuyển doanh nghiệp
nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước đầu tư 100%
vốn thành công ty cổ phần.

Năm là, cần tiếp tục đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát và thanh tra
việc cung ứng DVC. Vì cung ứng DVC là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
đất nước, liên quan mật thiết đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội cũng như
phát triển đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi các cấp, các ngành cần phải nỗ lực hơn
nữa trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cung ứng DVC trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay.

Kết luận

Để nâng cao chất lượng hiệu quả trong cung ứng DVC, cần nâng cao chất lượng
giải quyết TTHC được thực hiện thực chất. Vì vậy, các cấp, các ngành cần tập trung
đẩy mạnh cải cách TTHC, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, bảo đảm
tính nghiêm túc, hiệu quả trong công tác cải cách TTHC, tạo thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp.

Một là, việc tổ chức thực hiện dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường phải bảo
đảm cơ sở chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam.
Do đó, nâng cao năng lực quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với
dịch vụ công nói riêng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các thể chế, thúc đẩy
kinh tế thị trường phát triển đã và đang là một trong những nội dung quan trọng của
cải cách hành chính nhà nước nhằm giải quyết tốt những yêu cầu, nhiệm vụ về phát
triển kinh tế - xã hội; bảo đảm nhu cầu thiết yếu của công dân, tổ chức và toàn xã
hội. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực
hiện hoạt động cung cấp dịch vụ công phù hợp với mỗi loại hình, phương thức cung
ứng dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy,
xác định rõ trách nhiệm của đơn vị cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Cụ thể: “Tiếp
tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị
trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả
các dịch vụ công cơ bản”(6) và “Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp
xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất
lượng, hoạt động hiệu quả”(7).

Hai là, việc tổ chức, thực hiện các hoạt động về dịch vụ công phải được tiến hành
trên cơ sở pháp luật; bảo đảm pháp luật công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước đối
với dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ
những cơ sở chính trị, pháp lý, các dịch vụ công được tổ chức, thiết lập thể chế và
những cơ chế vận hành nhất định, từng bước tạo điều kiện để các dịch vụ công đi
vào nề nếp theo trật tự nhất định.

Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện
nhiều nhu cầu về dịch vụ công, đòi hỏi phải tiếp tục mở rộng các dịch vụ công, ứng
dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học, công nghệ nhằm giải quyết kịp
thời, chính xác các trình tự, thủ tục cho người dân, tổ chức tham gia các thủ tục này,
bảo đảm phục vụ tốt những nhu cầu, lợi ích, nghĩa vụ của công dân, tổ chức là chủ
thể thụ hưởng những dịch vụ được cung cấp, tăng cường cải thiện, mở rộng các lĩnh
vực, ngành nghề cung cấp dịch vụ công, đa dạng hóa và xã hội hóa mạnh mẽ việc
cung cấp dịch vụ.

Để giải quyết tốt những yêu cầu, nhu cầu của cá nhân, tổ chức đối với việc phục vụ,
cung ứng các dịch vụ công, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước, cần tiếp tục phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý, cung cấp dịch vụ
công, huy động mọi nguồn lực trong xã hội, tạo điều kiện để mọi cơ quan, tổ chức,
cá nhân đủ điều kiện đều được tham gia cung cấp các dịch vụ công và được tiếp
cận, sử dụng dịch vụ công được thuận lợi, dễ dàng, chất lượng và hiệu quả hơn.

Ba là, cùng với việc hoàn thiện các thể chế, thiết chế của nền kinh tế thị trường, bảo
đảm để các dịch vụ công phát triển nhanh, mạnh, bền vững, cần khẩn trương đánh
giá, tổng kết và phân loại đúng đắn các loại hình, phương thức của dịch vụ công.
Trên cơ sở kết quả phân tích, khảo sát, đánh giá về kết quả và hạn chế của việc cung
cấp dịch vụ công thời gian qua, căn cứ yêu cầu, đòi hỏi đặt ra hiện nay và xu thế
trong thời gian tới để phân loại dịch vụ nào phải do Nhà nước đảm nhiệm trong quá
trình quản lý để thực hiện thẩm quyền; dịch vụ nào do Nhà nước phối hợp cung cấp
theo hình thức công - tư; dịch vụ nào cần xã hội hóa, mức độ chuyển giao cho khu
vực tư nhân, cơ chế hoạt động và sự điều tiết của Nhà nước đối với dịch vụ công do
khu vực tư nhân đảm nhiệm hoàn toàn… Nhà nước chịu trách nhiệm điều tiết, kiểm
soát thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách cụ thể để hình thành cơ chế
quản lý phù hợp, hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục phân định rõ dịch vụ công theo tính chất, tác dụng của
từng loại dịch vụ để sắp xếp, tổ chức khoa học, phù hợp với thực tiễn của đời sống
xã hội như: dịch vụ hành chính công (gắn với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
quản lý của Nhà nước), được tiến hành bởi các chủ thể thực hiện quyền hành pháp
(trong một số hoạt động như đăng ký, cấp phép, lập và cấp một số giấy tờ cần thiết
cho cá nhân, tổ chức…); dịch vụ sự nghiệp công, được cung cấp bởi các đơn vị sự
nghiệp công lập, tổ chức xã hội và từ khu vực tư (cá nhân, tổ chức) nhằm cung cấp
các dịch vụ công trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học, thể dục - thể thao…;
dịch vụ công ích, cung cấp các hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thiết yếu
bảo đảm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân, tổ chức và cộng đồng xã hội như
thu gom, xử lý nước thải, rác thải, dịch vụ vệ sinh môi trường, cung cấp nước
sạch… Chủ thể thực hiện cung cấp các dịch vụ này bao gồm các doanh nghiệp nhà
nước hoặc doanh nghiệp tư nhân được Nhà nước ủy quyền thực hiện.

Bốn là, cần nghiên cứu chuyên sâu về việc tách hoạt động cung ứng dịch vụ công ra
khỏi hoạt động quản lý nhà nước; làm rõ các yêu cầu đặt ra đối với việc cung cấp
các dịch vụ công quan trọng, đặc thù, những yếu tố tác động đến cung ứng dịch vụ
công… để xác định mối tương quan giữa khu vực công với khu vực tư trong cung
cấp dịch vụ công đối với xã hội; phân cấp quản lý phù hợp, bảo đảm tính khách
quan, khoa học trong hoạt động quản lý và hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đây
cũng là cơ sở để Nhà nước ban hành pháp luật, xây dựng cơ chế, hoạch định chính
sách và thực thi chính sách, pháp luật đối với dịch vụ công.

Năm là, cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên
chức cũng như lực lượng cung cấp dịch vụ công trong khu vực tư nhằm nâng cao
trình độ chuyên môn, kỹ năng trong hoạt động cung ứng dịch vụ công. Đồng thời,
thường xuyên chỉ đạo, điều hành, giám sát, thanh tra, kiểm tra để ngăn chặn, phát
hiện và xử lý kịp thời những sai sót, vi phạm trong tổ chức thực thi chính sách pháp
luật về dịch vụ công. Tăng cường sự đánh giá, phản hồi của cá nhân, tổ chức sử
dụng dịch vụ công đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ công.

Sáu là, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, cung cấp thông tin đến người dân; tiếp tục
cải cách hành chính; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, áp dụng công nghệ thông
tin… để phát huy ưu điểm, lợi thế của loại hình dịch vụ công điện tử (dịch vụ công
trực tuyến) nhằm rút ngắn thời gian, giảm chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân, tổ chức sử dụng các dịch vụ công dễ tiếp cận và góp phần nâng cao chất lượng
phục vụ Nhân dân.

Hiện nay, nhu cầu tiếp cận, sử dụng dịch vụ công gia tăng đã khẳng định tầm quan
trọng của việc cung cấp dịch vụ công bởi Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Hoạt động
cung cấp dịch vụ công không chỉ do Nhà nước đảm nhiệm mà được ủy nhiệm,
chuyển giao cho khu vực tư theo xu hướng xã hội hóa nên sẽ ngày càng phong phú,
đa dạng về chủ thể phục vụ, dịch vụ được cung cấp nhanh chóng, chính xác, thuận
lợi; không ngừng được cải thiện và nâng cao chất lượng; bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các chủ thể tham gia, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa./.

You might also like