Professional Documents
Culture Documents
Hệ Altai
Hệ Altai
NAM
KHOA NGOẠI NGỮ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÓM 10
% THAM KÝ XÁC
STT MSSV HỌ TÊN
DỰ NHẬN
-Proto-Altaic: Một số nhà ngôn ngữ học thừa nhận sự tồn tại của một ngôn ngữ Proto-
Altaic giả định, được sử dụng bởi các dân tộc du mục cổ đại trong khu vực bao gồm
Trung và Đông Bắc Á ngày nay. Theo lý thuyết này, các nhánh ngôn ngữ khác nhau
như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Mông Cổ và tiếng Tungusic đã phát triển từ một ngôn
ngữ tổ tiên chung thông qua các quá trình thay đổi ngôn ngữ, di cư và tiếp xúc.
-Liên hệ ngôn ngữ: Trong suốt lịch sử, nhiều nhóm dân cư khác nhau ở Trung và
Đông Bắc Á đã tham gia vào hoạt động buôn bán, chinh phục và di cư, dẫn đến sự
trao đổi và vay mượn ngôn ngữ rộng rãi. Kết quả là, sự tương đồng về ngôn ngữ giữa
các ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ và Tungusic có thể là do hiện tượng tiếp xúc gây
ra hơn là mối quan hệ di truyền.
-Sự tiến hóa bên trong: Trong các họ ngôn ngữ Altaic riêng lẻ, chẳng hạn như tiếng
Thổ Nhĩ Kỳ hoặc tiếng Mông Cổ, các quá trình thay đổi và tiến hóa ngôn ngữ bên
trong đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự phát triển ngôn ngữ.
Theo thời gian, những ngôn ngữ này đã trải qua những thay đổi về âm vị, hình thái và
từ vựng do các yếu tố như sự thay đổi văn hóa, sự di chuyển dân cư và sự tiếp xúc
ngôn ngữ với các nhóm lân cận.
-Tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ: Trong lịch sử gần đây, sự phát triển của các dạng ngôn ngữ
Altaic tiêu chuẩn đã bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, xã hội và giáo dục. Các
chính phủ và các tổ chức ngôn ngữ đã đóng vai trò hệ thống hóa các tiêu chuẩn viết,
thúc đẩy khả năng đọc viết ngôn ngữ và định hình các chính sách ngôn ngữ, dẫn đến
sự xuất hiện của các biến thể tiêu chuẩn hóa hiện đại của ngôn ngữ Altaic.
1.4. Phân bố và số lượng người nói:
Ngữ hệ Altai là một nhóm gồm năm ngữ hệ riêng biệt với hơn 50 ngôn ngữ, được sử
dụng bởi hơn 135 triệu người và có nguồn gốc từ các vùng phía nam của Đông Bắc Á.
Sự mở rộng ngôn ngữ trong vài thiên niên kỷ qua đã đưa những ngôn ngữ này theo
các hướng khác nhau trên lục địa Á-Âu, bao gồm Quần đảo Nhật Bản ở phía đông,
Siberia ở phía bắc, một phần cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng ở phía nam và toàn bộ
vành đai Trung Á ở phía tây, kéo dài từ phía đông và phía tây Turkestan đến sơn
nguyên Iran, Afghanistan, Anatolia và một phần phía đông châu Âu.
Câu hỏi trong bài
Câu 1: Ngữ hệ Altai còn được gọi là gì:
A. Austronesian
B. Indo-European
C. Transeurasian
D. Austroasiatic
Câu 3: Trong lịch sử gần đây, sự phát triển của các dạng ngôn ngữ Altaic tiêu chuẩn đã
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố:
A. Chính trị, xã hội và giáo dục.
B. Chính trị, xã hội và văn hoá.
C. Xã hội, văn hoá và giáo dục.
D. Chính trị, văn hoá, giáo dục.
Câu 4: Phe phản đối học thuyết Altai cho rằng những điểm tương đồng giữa các ngôn
ngữ Altai là do:
A. Ảnh hưởng lẫn nhau.
B. Quan hệ họ hàng.
C. Văn hoá giống nhau.
D. Có nhiều quốc gia đa dân tộc.
Tiếng Manchu:
Tiếng Mãn Châu hay Tiếng Mãn, thuộc ngữ hệ Tungus, là tiếng mẹ đẻ của người
Mãn Châu ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và từng là một trong những ngôn ngữ chính
thức của triều đại nhà Thanh (1636-1912).
Thời Thanh, tiếng Mãn còn được gọi là Thanh ngữ hay Quốc ngữ, được xem là ngôn
ngữ chính thức[3], vì vậy đến nay vẫn còn lưu lại rất nhiều văn hiến tiếng Mãn. Giai
đoạn đầu, văn thư của nhà Thanh toàn bộ đều sử dụng tiếng Mãn để ghi chép. Sau khi
nhập quan bắt đầu sử dụng song song Mãn - Hán. Vì giao lưu văn hóa mà tiếng Mãn
xuất hiện rất nhiều từ mượn từ tiếng Mông Cổ hay tiếng Hán, đồng thời cũng có một
bộ phận từ ngữ nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác.[4]
Đến thời Thanh mạt, một bộ phận lớn người Mãn chỉ biết tiếng Hán, còn tiếng Mãn
dần dần suy thoái. Hiện nay, hầu hết người Mãn Châu nói tiếng Quan Thoại. Chỉ có
chưa đến 70 người dùng tiếng Mãn Châu như tiếng mẹ đẻ hoặc pha trộn trong tổng số
gần 10 triệu người Mãn Châu. Mặc dù tiếng Tích Bá, có 40.000 người sử dụng, được
xem là giống với tiếng Mãn Châu, nhưng người nói tiếng Tích Bá lại sống ở miền viễn
tây Tân Cương và là dân tộc khác với người Mãn Châu.[5][6][7] Tiếng Mãn Châu đang
có nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]
Thời Thanh trung hậu kỳ, người Mãn bắt đầu chuyển sang sử dụng tiếng Hán. Hiện
nay, người thông thạo tiếng Mãn rất ít, chỉ còn một số người lớn tuổi ở Hắc Long
Giang và các chuyên gia ngôn ngữ học có thể sử dụng ngôn ngữ này. Trong Đại học
Hắc Long Giang có sở nghiên cứu tiếng Mãn.
Nhiều người cho rằng tiếng Daur (Đạt Oát Nhĩ) là tiếng Mãn, đây là nhận định sai
lầm. Tiếng Đạt Oát Nhĩ thuộc hệ Mông Cổ, không thuộc hệ Mãn - Tangus như tiếng
Mãn. Tiếng Xibe (Tích Bá) là một phương ngôn của tiếng Mãn.
Những năm gần đây, nhờ rất nhiều sự nỗ lực, nghiên cứu tiếng Mãn trở thành một
khoa trọng điểm của Đại học Hắc Long Giang. Các lớp dạy tiếng Mãn cũng bắt đầu
xuất hiện ở một số thành phố và trên Internet.
Ngày 1 tháng 10 năm 2005, Hội nghiên cứu ngôn ngữ Mãn - Tangus (Học sinh xã
đoàn) ở Đại học Công trình Cáp Nhĩ Tân đăng ký thành lập. Ngày 23 tháng 10 cùng
năm, bắt đầu kì học đầu tiên bắt buộc học lớp tiếng Mãn sơ cấp ở Đại học này. Tháng
11, giáo sư tiếng Mãn Triệu A Bình của Đại học Hắc Long Giang nhận lời mời đến
Đại học Công trình mở tọa đàm về tiếng Mãn. Ngày 4 tháng 9 năm 2006, bắt đầu kì
học thứ hai bắt buộc lớp tiếng Mãn sơ cấp.
Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Hội sinh viên yêu thích Mãn ngữ của Đại học Nông
Nghiệp Đông Bắc đăng ký thành lập. Ngày 27 tháng 5 bắt đầu kì học đầu tiên giáo
dục bắt buộc Mãn ngữ sơ cấp.
Tháng 6 năm 2008, Học viện Khoa Học Kỹ Thuật của A Thành, Cáp Nhĩ Tân đưa
Mãn ngữ chuyên nghiệp vào phạm vi tuyển sinh. Trở thành học viện đầu tiên của
Trung Quốc mở lớp dạy Mãn ngữ chuyên nghiệp, kỳ đầu tiên chiêu sinh 30 người.[8]
Tháng 6 năm 2010, Đại học Sư Phạm Đông Bắc mở Hiệp hội Mãn văn Thư pháp, hội
viên của hiệp hội là 70 người.
Đài Loan
Hậu duệ người Mãn ở Đài Loan sử dụng tiếng Mãn khá ít.
Ngữ âm
Chữ Mãn nguyên bản có tất cả 6 nguyên âm, 19 phụ âm. Nguyên âm phân làm 3 loại
là âm, dương và trung tính. Những nguyên âm cùng loại thì phối hợp hài hòa với
nhau. Cách viết tiếng Mãn đối với tiền tố, trung tố và hậu tố có sự khác biệt.
Phụ âm
c
Âm Âm bật hơi p /pʰ/ t /tʰ/ k /kʰ, qʰ/
(q) /ʧʰ/
bật và
Âm không bật
Âm tắc b /p/ d /t/ j /ʧ/ g /k, q/
hơi
xát
Phụ âm xát f /f/ s /s/ š (x) /ʃ/ h /x, χ/
Âm rung r /r/
Âm tiếp cận w /w/ l /l/ y /j/
Trong đó âm ngạc mềm và âm lưỡi gà trong tiếng Mãn không đối lập (/kʰ, k, x/ ghép
với e, i, u, /qʰ, q, χ/ ghép với a, o, ū (v)), nhưng trong tiếng Trung lại đối lập (/kʰ, k,
x/ có thể ghép với a, o, ū (v), chuyển thành k῾ (kʼ), g῾ (gʼ), h῾ (hʼ)). Ngoài ra còn có 3
phụ âm vay muọn là: ts' (c) /ʦʰ/, dz (z) /ʦ/ và ž (rʼ) /ʒ/.
Nguyên âm
Giữ
Trước Sau
a
i /i/ u /u/
a /ɑ/ o /ɔ/