You are on page 1of 2

Nhận định sau đúng hay sai Giải thích vì sao

Hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC và hợp đồng đầu tư theo phương thức đối
tác công tư (PPP) có sự khác biệt cơ bản.
Nhận định này là đúng. Hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC (Business Cooperation Contract) và
hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) có những khác biệt cơ bản về chủ
thể và mục tiêu, cơ sở pháp lý của hợp đồng:
 Chủ thể tham gia:
o Hợp đồng BCC: Chủ thể hoàn toàn là các nhà đầu tư, các doanh nghiệp tư nhân
có nhu cầu hợp tác với nhau để cùng tìm kiếm lợi nhuận
o Hợp đồng PPP: Có sự tham gia của chủ thể đặc biệt là Nhà nước, bên cạnh các
nhà đầu tư tư nhân
 Mục tiêu của hợp đồng:
o Hợp đồng BCC: Nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản
phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế
o Hợp đồng PPP: Thường liên quan đến các dự án cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ
công, nơi Nhà nước cần sự tham gia của khu vực tư nhân để chia sẻ rủi ro và
nguồn lực
 Cơ sở pháp lý:
o Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC): Được quy định tại Điều 4 Luật Đầu
tư 2020.
o Hợp nhất đầu tư theo phương thức đối tác tư (PPP): Được quy định tại
Điều 27 Luật Đầu tư 2020.

Theo công ước viên 1980 chấp nhận chào hàng có hiệu lực là chấp nhận chào
hàng vô điều kiện hoặc Chỉnh sửa một số điểm nhưng không làm thay đổi các
nội dung cơ bản của chào hàng
Nhận định này là sai. Theo Điều 18 Công ước Viên Liên Hợp Quốc về Hợp đồng Mua
bán Hàng hóa Quốc tế năm 1980 (CISG), chấp nhận chào hàng có hiệu lực khi đáp
ứng các điều kiện sau:
 Thể hiện sự đồng ý: Chấp nhận phải thể hiện sự đồng ý rõ ràng của người được
chào hàng đối với các điều khoản trong chào hàng.
 Được gửi đến người chào hàng: Chấp nhận phải được truyền đạt đến người
chào hàng theo cách thức phù hợp (ví dụ: qua thư, email, v.v.).
 Đúng thời hạn: Chấp nhận phải được gửi đến người chào hàng trong thời hạn
quy định trong chào hàng hoặc trong một thời hạn hợp lý, tùy thuộc vào trường
hợp cụ thể.
Chấp nhận chào hàng có hiệu lực không chỉ đơn thuần là đồng ý vô điều kiện với tất cả
các điều khoản trong chào hàng. Người được chào hàng có thể đề xuất một số thay
đổi, nhưng những thay đổi này không được làm thay đổi các nội dung cơ bản của chào
hàng. Nếu người chào hàng đồng ý với những thay đổi được đề xuất, thì hợp đồng sẽ
được hình thành dựa trên các điều khoản đã được sửa đổi.

Hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại quốc tế là hợp đồng cung ứng dịch vụ
thương mại có yếu tố nước ngoài trong đó yếu tố nước ngoài được xác định
tương tự như trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nhận định trên là đúng.Yếu tố nước ngoài trong hợp đồng cung ứng dịch vụ thương
mại quốc tế được xác định tương tự như trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bao gồm:
 Theo Công ước La Haye (1964) và được ghi nhận trong Pháp lệnh trọng tài
Thương mại (2003), thì được coi là yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một trong
các nhân tố:
o Các bên chủ thể có trụ sở Thương mại tại các quốc gia khác nhau;
o Hàng hóa được dịch chuyển qua biên giới;
o Căn cứ để xác lập hợp đồng phát sinh ở nước ngoài.
 Theo Công ước viên (1980), yếu tố nước ngoài được xác định theo trụ sở
Thương mại của các bên chủ thể. Theo đó, được coi là yếu tố nước ngoài khi
các bên chủ thể hợp đồng có trụ sở Thương mại ở các quốc gia khác nhau.

You might also like