You are on page 1of 10

1

A – MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển chung của thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc
tế đang ngày càng trở nên phổ biến; đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay. Hoạt động đầu tư quốc tế không chỉ đem lại những thuận lợi, mà cũng đặt ra
nhiều thách thức cho cả nhà đầu tư lẫn chính phủ nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó,
mối đe dọa lớn nhất đối các nhà đầu tư nước ngoài là mối lo bị tước quyền sở hữu
tài sản. Nhóm em sẽ làm rõ vấn đề này trong vụ tranh chấp giữa ba công ty dược
Les Laboratoires Servier, Biofarma, và Arts et Techniques với Cộng hòa Ba Lan
dưới đây.

B – NỘI DUNG
I. Khái quát nguyên tắc bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài không bị
tước quyền sở hữu một cách bất hợp pháp
Tước quyền sở hữu là việc chính phủ trưng thu tài sản hoặc các quyền của tư
nhân có bồi thường thỏa đáng để phục vụ cho mục đích công cộng. Biện pháp tước
quyền sở hữu là một quyền chủ quyền của các quốc gia, song yêu cầu các quốc gia
phải đáp ứng các điều kiện nhất định để biện pháp đó được coi là hợp pháp theo
pháp luật quốc tế. Việc tước quyền sở hữu là cần thiết vì lợi ích công cộng, trên cơ
sở không phân biệt đối xử, phải có bồi thường và theo đúng quy trình mà pháp luật
quy định.
Hiện nay, hầu hết các Hiệp định đầu tư quốc tế cũng như các Hiệp định đầu tư
song phương thường quy định các biện pháp chống lại mọi hình thức tước quyền
sở hữu cũng như các biện pháp bảo đảm và bồi thường trong trường hợp tước
quyền sở hữu. Trong vụ tranh chấp Les Laboratoires Servier, S.A.A., Biofarma,
S.A.S., Arts et Techniques du Progres S.A.S. v. Poland, UNCITRAL, 14 February
2012 dưới đây, nguyên tắc bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài không bị tước
quyền sở hữu một cách bất hợp pháp được quy định tại điều 5(2) Hiệp định đầu tư
song phương Pháp – Ba Lan.
II. Phân tích vụ việc
1. Tóm tắt vụ việc
2

Vụ tranh chấp Les Laboratoires Servier, S.A.A., Biofarma, S.A.S., Arts et


Techniques du Progres S.A.S. v. Poland, UNCITRAL, 14 February 2012 xoay
quanh việc Cộng hòa Ba Lan (bị đơn) từ chối gia hạn phê duyệt tiếp thị đối với
việc bán dược phẩm của nguyên đơn là ba nhà sản xuất Servier, Biofarma, Servier
Labs, Arts et Technologies du Progress S.A.S – những công ty dược phẩm lớn của
Pháp. Khiếu nại phát sinh từ việc Chính phủ rút giấy phép tiếp thị của nguyên đơn
đối với một số loại thuốc nhất định, trong bối cảnh Ba Lan gia nhập Liên minh
Châu Âu và ban hành một loạt cải cách hành chính và lập pháp để hài hòa quy định
về dược phẩm với quy định của Liên minh Châu Âu.
1.1. Sự kiện pháp lý
2001: Ba Lan thông qua luật yêu cầu mỗi loại dược phẩm của các nhà cung
cấp nước ngoài phải nhận được giấy phép tiếp thị ủy quyền để được bán trong thị
trường nội địa của nước này.
2004: Ba Lan gia nhập Liên minh Châu Âu, ban hành một số cải cách hành
chính và lập pháp phù hợp với quy định của EU về dược phẩm.
Kết quả: một số sản phẩm do nguyên đơn sản xuất đã bị từ chối phê duyệt,
thay vào đó chính phủ cấp phép tiếp thị cho các sản phẩm thuốc thay thế thuốc gốc
do các công ty Ba Lan sản xuất.
 Servier, cùng với hai công ty dược phẩm có liên quan của Pháp, cáo buộc
rằng quyết định từ chối tiếp thị ủy quyền của Ba Lan là kết quả của sự
thông đồng giữa chính phủ với các nhà sản xuất địa phương và không có
nghi ngờ chính đáng nào về tính an toàn hoặc chất lượng thuốc của họ.
Servier sau đó bắt đầu thủ tục tố tụng trọng tài theo Quy tắc UNCITRAL
vào tháng 10 năm 2009, cáo buộc Ba Lan vi phạm Điều 5(2) về tước
quyền sở hữu theo Thỏa thuận được ký kết ngày 14 tháng 2 năm 1989 giữa
Chính phủ Cộng hòa Pháp và Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan liên
quan đến Hiệp ước Khuyến khích và Bảo vệ Đầu tư; đồng thời yêu cầu Ba
Lan bồi thường 300 triệu đô la.
1.2. Vấn đề pháp lý
- Các khoản đầu tư của Nguyên đơn có được bảo hộ theo Hiệp định đầu tư song
phương giữa Pháp và Ba Lan không?
3

- Các biện pháp mà Ba Lan áp đụng có được coi là tước đoạt quyền sở hữu bất
hợp pháp vi phạm điều 5(2) Hiệp định đầu tư song phương giữa Pháp và Ba
Lan hay không?
1.3. Luật áp dụng giải quyết tranh chấp
- Hiệp định Châu Âu năm 1991 giữa Ba Lan và cộng đồng châu Âu
- Hiệp định đầu tư song phương Pháp – Ba Lan (Hiệp ước Khuyến khích và Bảo
vệ Đầu tư)
2. Lập luận của các bên
2.1. Vấn đề pháp lý thứ nhất: Các khoản đầu tư của Nguyên đơn có được
bảo hộ theo Hiệp định đầu tư song phương giữa Pháp và Ba Lan và
pháp luật quốc gia của Ba Lan hay không?
Ba Lan khẳng định rằng để cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền xét
xử, Servier phải chứng minh rằng: (1) Các công ty của Servier có quyền tài sản
được bảo vệ theo luật Ba Lan; và (2) các quyền tài sản đó là các khoản đầu tư được
bảo vệ theo Hiệp ước được ký kết giữa Pháp và Ba Lan.
Ba Lan lập luận rằng vấn đề liệu các Nguyên đơn có giành được quyền sở hữu
đối với bất kỳ khoản đầu tư bị cáo buộc nào hay không là vấn đề của luật Ba Lan,
không phải luật quốc tế.
Ba Lan viện dẫn Điều 1 của Hiệp ước quy định: "Thuật ngữ 'đầu tư' có nghĩa
là các tài sản như tài sản, quyền và lợi ích dưới bất kỳ hình thức nào liên quan đến
một hoạt động kinh tế trong bất kỳ lĩnh vực nào, phù hợp với pháp luật của Bên ký
kết nơi có lãnh thổ...việc đầu tư đã được thực hiện..."
→ Ba Lan khẳng định rằng Hiệp ước không đưa ra bất kỳ hướng dẫn nào về
cách thức một nhà đầu tư có quyền sở hữu các khoản đầu tư được bảo hộ,
cũng như phạm vi của các quyền đó. Vì vậy, pháp luật Ba Lan bổ sung và
cung cấp nội dung cho ngôn ngữ chung của Điều 1 của Hiệp ước.
→ Một khi luật trong nước đã được sử dụng để xác định bản chất chính xác của
các quyền sở hữu, Toà án có thể xem xét liệu các quyền đó có nằm trong
định nghĩa của Hiệp ước về "đầu tư" hay không.
→ Ba Lan khẳng định Hiệp ước vốn "không cung cấp bất kỳ tiêu chí nào để
dựa vào đó có thể kiểm nghiệm khẳng định rằng một đối tượng cụ thể được
4

bảo hộ theo Điều 1(1) của Hiệp ước." Theo quan điểm của Ba Lan, "chỉ luật
quốc gia mới có khả năng lấp đầy lỗ hổng."
→ Tóm lại, Ba Lan cho rằng luật quốc gia của Quốc gia sở tại phải được áp
dụng vì Hiệp ước yêu cầu mối liên hệ lãnh thổ giữa khoản đầu tư và Quốc
gia sở tại.
Trong khi đó, nguyên đơn Servier cho rằng các khoản đầu tư của họ được bảo
vệ theo Hiệp ước, theo định nghĩa của Hiệp ước. Servier bác bỏ lập luận của Ba
Lan rằng Servier phải chứng minh rằng các khoản đầu tư của họ là các khoản đầu
tư "được luật pháp Ba Lan bảo vệ và... chứng minh phạm vi của các quyền đó theo
luật pháp Ba Lan." Bằng cách viện dẫn hai đoạn cuối của Điều 1 của Hiệp ước làm
rõ rằng không phải sự tồn tại của một tài sản, mà là tính hợp pháp của việc tiếp
nhận hoặc mua lại tài sản đó sẽ được đánh giá theo luật quốc gia.
Servier cũng phản đối lập luận của Ba Lan rằng luật quốc gia của nước sở tại
phải được áp dụng để thiết lập mối quan hệ lãnh thổ giữa khoản đầu tư và Nước sở
tại. Servier cho rằng "mối quan hệ lãnh thổ" đơn giản có nghĩa là Hiệp ước áp dụng
cho đầu tư nước ngoài, trái ngược với đầu tư trong nước, và yêu cầu nhà đầu tư
cam kết nguồn lực trong lãnh thổ của Quốc gia sở tại, trái ngược với việc bị giới
hạn hoàn toàn trong lãnh thổ của quốc gia khác.
2.2. Vấn đề pháp lý thứ hai: Các biện pháp mà Ba Lan áp đụng có được coi
là tước đoạt quyền sở hữu bất hợp pháp hay không?
Ba Lan khẳng định rằng việc đánh giá chính xác liệu một biện pháp có gián
tiếp "tước đoạt" khoản đầu tư của nhà đầu tư theo Điều 5(2) hay không cần phải
xem xét các yếu tố sau:
(a) Bản chất của các quyền của nhà đầu tư
(b) Mức độ can thiệp vào khoản đầu tư: liệu sự can thiệp của Chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư có dẫn đến việc tước quyền sở hữu hay không.
(c) Tầm quan trọng của đặc điểm của các biện pháp liên quan
(d) Các yếu tố liên quan khác: (1) mức độ ảnh hưởng của các biện pháp đến
việc Quốc gia sở tại hoặc bên thứ ba được ưu tiên thu được lợi ích từ khoản đầu
tư của nguyên đơn; và (2) liệu những biện pháp đó có đánh bại những kỳ vọng
5

hợp pháp của các nhà đầu tư được tạo ra thông qua hành vi trước đó của Nhà
nước hay không.
Đáp lại những quan điểm của Ba Lan, Servier lập luận rằng tiêu chí quan
trọng trong việc xác định liệu một sự tước đoạt gián tiếp có xảy ra theo Điều 5(2)
của Hiệp ước hay không là tác động của các biện pháp của Nhà nước đối với lợi
ích kinh tế và giá trị của khoản đầu tư: "Bất cứ khi nào tác động này là đáng kể và
kéo dài trong một khoảng thời gian đáng kể hoặc về bản chất là không giới hạn về
thời gian, nó sẽ được xác định một cách rõ ràng rằng một hành vi chiếm đoạt tài
sản đã xảy ra.” Nói cách khác, "việc trưng thu gián tiếp chỉ đòi hỏi một sự tước
đoạt 'đáng kể'... hoặc biện pháp bị thách thức đó tước đi của nhà đầu tư 'toàn bộ
hoặc một phần đáng kể việc sử dụng hoặc lợi ích kinh tế được mong đợi một cách
hợp lý' đối với sự đầu tư."
Đối với lập luận của Ba Lan rằng việc xem xét tính hợp pháp của yêu cầu
trưng thu bắt đầu bằng việc xem xét các quyền được bảo hộ của nhà đầu tư và rằng
Khoản đầu tư được yêu cầu của Servier không phải là quyền lợi hợp pháp được
luật Ba Lan bảo vệ, Servier nhắc lại rằng chính Hiệp ước, chứ không phải luật Ba
Lan, có liên quan trong việc đánh giá liệu tài sản của Servier có phải là khoản đầu
tư được bảo vệ hay không.
Về tính hợp lý của các biện pháp mà Ba Lan; liệu chúng có được thực hiện vì
mục đích công cộng hay không; Servier tuyên bố rằng không có mối quan hệ hợp
lý nào giữa việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và các biện pháp mà Ba Lan áp dụng
đối với Detralex và Eurespal Syrup. Thật vậy, Servier cho rằng các biện pháp của
Ba Lan trái ngược hoàn toàn với luật pháp, không phục vụ lợi ích sức khỏe cộng
đồng và là cái cớ để loại bỏ các sản phẩm của Servier khỏi thị trường. Việc không
có cơ sở y tế công cộng cho quyết định không gia hạn giấy phép lưu hành cũng
được thể hiện qua thực tế là vài tháng sau quyết định của mình, Bộ y tế Ba Lan đã
cấp phép lưu hành cho ba loại thuốc generic của Eurespal Syrup chứa cùng một
hoạt chất và nhằm mục tiêu giống nhau.
Thêm vào đó, Servier trình bày rằng theo luật quốc tế, việc phân biệt đối xử
bao gồm việc đối xử, mặc dù không mang tính phân biệt đối xử theo luật, nhưng
vẫn có tác động phân biệt đối xử trên thực tế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Do đó,
6

Servier tuyên bố rằng các biện pháp được Ba Lan áp dụng là phân biệt đối xử về
mặt thủ tục, thực chất và trên thực tế, bởi vì mỗi biện pháp đó đều dành sự đối xử
thuận lợi hơn cho các đối thủ cạnh tranh mang quốc tịch Ba Lan. Ngay sau khi
ngừng gia hạn giấy phép tiếp thị cho Detralex; nhà chức trách Ba Lan đã cấp giấy
phép tiếp thị cho các loại thuốc Diosminex và Pelethrocin, hai loại dược phẩm của
hai công ty địa phương để thay thế cho Detralex. Theo Servier, thủ tục mà Ba Lan
tuân theo khi quyết định cấp phép lưu hành cũng mang tính phân biệt đối xử:
Servier đã nộp đơn xin hài hòa hóa vào đầu năm 2004, không có hành động nào
được thực hiện trong hai năm và mãi đến năm năm sau mới được quyết định.
Ngược lại, (1) công ty địa phương LEK-AM nộp đơn xin cấp phép cho Diosminex
vào cuối năm 2007 và được chấp thuận trong vòng một năm; và (2) việc xem xét
ứng dụng của Pelethrocin cũng nhanh chóng tương tự. 597 Servier đệ trình thêm
rằng các cơ quan có thẩm quyền đã cấp cho LEK-AM quyền bổ sung hồ sơ đăng
ký của mình ngay cả sau khi gia hạn được cấp, nhưng Servier không được phép
như vậy. Hơn nữa, Chính quyền Ba Lan đã quyết định đăng ký các loại tương
đương chung của Eurespal Syrup (Pulneo, Elofen và Fenspogal) được sản xuất bởi
các nhà sản xuất Ba Lan dựa trên thực tế là Eurespal Syrup cũng được Servier đăng
ký dưới một tên khác (Pneumorel) tại một quốc gia thành viên EU khác, Pháp. Các
Bên đồng ý rằng thành phần, liều lượng và hình thức đã công bố đối với Eurespal
Syrup và đối với ba loại thuốc của Ba Lan là giống hệt nhau. Khi Servier nộp đơn
xin phép tiếp tục bán Eurespal Syrup ở Ba Lan, họ đã bị từ chối. Điều này cho thấy
sự phân biệt đối xử với Servier, bởi vì các nhà chức trách Ba Lan đã đưa ra các kết
luận khác nhau đối với một và cùng một sản phẩm đã đăng ký trên trên cơ sở cùng
một tài liệu.
Về tính thiện chí trong việc áp dụng các biện pháp, Servier tin rằng các nhà
chức trách Ba Lan đã không hành động một cách thiện chí trong việc tiến hành các
thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp phép tiếp thị cho Detralex. Mục đích của
quá trình hài hòa hóa được dự tính trong Hiệp ước gia nhập là để đảm bảo rằng
một loại thuốc được giao dịch trên thị trường chung châu Âu sẽ được cấp phép trên
cơ sở tài liệu đáp ứng các tiêu chuẩn của EU. Servier khẳng định rằng Detralex đã
được cấp phép tại 18 Quốc gia Thành viên EU và Eurespal Syrup cũng được cấp
7

phép tại 5 quốc gia châu Âu trước khi quyết định của Bộ y tế Ba Lan được đưa ra,
do đó, không có nghi ngờ gì về sự tuân thủ của hai loại dược phẩm với các tiêu
chuẩn của EU. Theo đó, Servier cho rằng quyết định của chính quyền Ba Lan là
một hành động không thiện chí được đưa ra dưới chiêu bài hài hòa hóa.
Đối với các yếu tố bổ sung đối với việc tước quyền sở hữu gián tiếp mà Ba lan
nêu ra ở trên như “mức độ ảnh hưởng của các biện pháp đến việc Quốc gia sở tại
hoặc bên thứ ba được ưu tiên thu được lợi ích từ khoản đầu tư của nguyên đơn”
Servier lập luận rằng cả Hiệp ước cũng như luật tập quán quốc tế đều không yêu
cầu Nhà nước hoặc "bên thứ ba ưu tiên" được hưởng lợi từ tài sản trưng thu. Việc
trưng thu gián tiếp có thể xảy ra ngay cả khi nó không mang lại lợi ích cho Quốc
gia sở tại.
Về mức độ can thiệp và hậu quả của các biện pháp, Servier nhắc lại rằng, kể
từ ngày 31 tháng 12 năm 2008, họ không còn có thể bán các lô hàng Detralex và
Eurespal Syrup mới ở Ba Lan, vì không có nguồn cung cho Detralex và nguồn
cung còn lại cho Eurespal Syrup rất hạn chế. Theo Servier, hồ sơ cho thấy rõ ràng
rằng các biện pháp của Ba Lan là vĩnh viễn và không thể đảo ngược. Tòa án hành
chính ở Warsaw đã phán quyết rõ ràng rằng việc Ba Lan từ chối gia hạn giấy phép
tiếp thị cho Detralex là vĩnh viễn và không thể hủy bỏ. Đối với cáo buộc của
nguyên đơn, Ba Lan thừa nhận rằng vì Servier đang phải gánh chịu một sự mất mát
về giá trị trong tương lai. Việc Servier phải gánh chịu những tổn thất này vĩnh viễn
là không thể tránh khỏi. Về điểm này, Ba Lan cũng đề cập đến các biện pháp bồi
thường có sẵn theo Hiệp ước, theo đó tiền bồi thường phải được xác định trước
ngày tước đoạt và được thanh toán không chậm trễ. Theo quan điểm của Ba Lan,
Servier đã tìm cách được bồi thường cho những tổn thất có thể không xảy ra và có
thể được bù đắp vào một thời điểm sau đó.
3. Lập luận của cơ quan giải quyết tranh chấp
Về các khoản đầu tư được bảo hộ theo hiệp ước
Trước hết về phạm vi bảo hộ, hội đồng trọng tài cần trả lời cho câu hỏi “Liệu
các yêu cầu bồi thường trong các thủ tục tố tụng này có liên quan đến các tài sản
mà đủ điều kiện là các khoản đầu tư được BIT Pháp-Ba Lan bảo vệ khỏi việc thoái
vốn hay không?” Đối với vấn đề này, các điều khoản định nghĩa trong Điều 1 của
8

BIT phải được đặt trong bối cảnh của mối quan hệ giữa "nhà đầu tư" và "khoản
đầu tư" được quy định trong Điều khoản BIT 5(2).
Một quốc gia ký kết không được áp dụng các biện pháp sung công hoặc quốc
hữu hóa có tác dụng loại bỏ "các nhà đầu tư của Bên kia" khỏi các khoản đầu tư
"thuộc về họ, tức là, cho các nhà đầu tư của quốc gia ký kết khác" khi các khoản
đầu tư đó được đặt "tại lãnh thổ hoặc vùng biển của quốc gia bị cáo buộc chiếm
đoạt” Thuật ngữ "thuộc về" trong ngữ cảnh của BIT này có nghĩa là quyền sở hữu
và ý thức về quyền lợi chính đáng. Đáng chú ý, BIT không chứa tiêu chuẩn của
"thuộc về" sẽ loại trừ quyền sở hữu có thể là một phần hoặc gián tiếp.
Hội đồng trọng tài đồng ý với các bên Bên rằng cơ quan quản lý và hành
chính của quốc gia sở tại các hành động phải được thực hiện với thiện chí, vì mục
đích công cộng, theo cách phù hợp với mục đích đó và theo cách không phân biệt
đối xử.
Hội đồng trọng tài cũng nhận thức rõ rằng bất kỳ việc thoái vốn nào như vậy
đều phải được bồi thường theo Điều 5.2, bất kể việc thoái vốn đòi hỏi các hành
động bất hợp pháp được đề cập bao gồm cấm một số loại thu hồi tài sản. Hội đồng
Trọng tài phải chấp nhận Điều 5(2) của BIT như dự thảo. Một phần của điều khoản
đó áp đặt một quy tắc tiêu cực rằng các biện pháp sung công hoặc quốc hữu hóa
không được thực hiện trừ khi có lý do cần thiết của cộng đồng và với điều kiện là
các biện pháp đó không phân biệt đối xử hoặc trái với một nghĩa vụ cụ thể và bất kì
thoái vốn nào cũng cần được đền bù thỏa đáng.
Về việc thoái vốn đòi hỏi những thiệt hại vượt quá những thiệt hại được quy
định tại Điều 5(2) của BIT trong hình thức bồi thường "giá trị thực"
Hội đồng Trọng tài lưu ý rằng việc tước quyền sở hữu gián tiếp, chỉ sự can
thiệp đáng kể của Nhà nước với các quyền của nhà đầu tư, theo nghĩa tước đi khả
năng của nhà đầu tư hưởng lợi từ tài sản có liên quan. Các điều khoản của BIT
Pháp-Ba Lan không yêu cầu rằng tước đoạt là vĩnh viễn theo nghĩa tiếp tục đến vô
tận.
4. Bình luận về cách giải thích, ý nghĩa của nguyên tắc trong vụ việc.
Điều kiện cần để thực hiện tước quyền sở hữu gián tiếp
9

Trong vụ việc trên, lập luận của các bên tập trung vào 3 yếu tố chính để đưa
ra các điều kiện cần đối với việc sung công trong đầu tư quốc tế:
(1) Mức độ tổn hại có liên quan (tác động ở mức tối thiểu đến việc tước đi hoàn
toàn).
(2) Lợi ích liên quan mà tổn hại đó mang lại (tác động tiêu cực đến kỳ vọng
kinh doanh, quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản).
(3) Thời gian của sự tổn hại đó (từ tạm thời đến vĩnh viễn).
Quyết định của Hội đồng Trọng tài về các vấn đề phụ này đã tạo cơ hội quan
trọng để Hội đồng cân bằng giữa lợi ích của Nhà nước và nhà đầu tư.Ttrong trường
hợp này, Tòa án Servier dường như đã ưu ái hơn cho các nhà đầu tư thay vì Chính
phủ Ba Lan trong vụ việc này. Đầu tiên, Tòa định nghĩa tác động cần thiết theo
Điều luật là tác động “đáng kể” chứ không phải tác động “tổng thể” (theo lập luận
của Chính phủ Ba Lan). Thứ hai, Tòa xác định tác động tạm thời cần thiết của biện
pháp là “hơn là tạm thời” nhưng không phải là “lâu dài hoặc không thể đảo ngược”
(như Ba Lan tranh luận).
 Tước quyền sở hữu gián tiếp và sự phát triển qua một số vụ kiện
Khái niệm tước quyền sở hữu gián tiếp được làm rõ trong án lệ Metalclad
Corp v. Mexico là một biện pháp tương đương với việc trưng thu tài sản của chính
phủ nước tiếp nhận đầu tư ảnh hưởng đến việc tước bỏ toàn bộ hay một phần đáng
kể lợi ích kinh tế của chủ sở hữu khoản đầu tư. Sau đó, cơ quan giải quyết tranh
chấp trong án lệ Saipem v. Bangladesh 2009 đưa ra quan điểm rằng tiêu chí có ý
nghĩa nhất để quyết định xem liệu một biện pháp nào đó có dẫn đến việc tước
quyền sở hữu gián tiếp đối với các khoản đầu tư hay không là biện pháp đó có tác
động đáng kể. Các chuyên gia cũng tranh luận về vấn đề quyền của nước tiếp nhận
đầu tư trong việc điều chỉnh các chính sách pháp luật đầu tư. Quan điểm thể hiện
trong án lệ BGV v. Argentina 2007, khi trọng tài đã khẳng định một quốc gia có thể
thực thi chủ quyền của mình để ban hành các quy định quản lý vì lợi ích công cộng
và những biện pháp này có thể làm ảnh hưởng đến tài sản cá nhân của nhà đầu tư
nước ngoài.
10

C - KẾT LUẬN
Qua phân tích vụ Les Laboratoires Servier, S.A.A., Biofarma, S.A.S., Arts et
Techniques du Progres S.A.S. v. Poland, UNCITRAL, 14 February 2012, nguyên
tắc bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài không bị tước quyền sở hữu một cách bất
hợp pháp để đánh giá mức độ rủi ro của địa chỉ đầu tư đã được soi rõ trong thực
tiễn, từ đó làm sâu sắc hơn ý nghĩa của việc áp dụng nguyên tắc này trong đầu tư
quốc tế.

You might also like