Professional Documents
Culture Documents
Tổng Quan Về Định Giá
Tổng Quan Về Định Giá
Định giá có thể được hiểu là việc đánh giá giá trị của tài sản phù hợp với thị
trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định.
Khoản 9 Điều 4 Luật Kinh doanh bất động sản quy định: « Định giá bất động sản
là hoạt động tư vấn, xác định giá của một bất động sản cụ thể tại một thời
điểm xác định»
Như vậy, định giá theo Luật Kinh doanh bất động sản là hoạt động tư vấn, xác định
giá của một tài sản cụ thể tại một thời điểm xác định.
Tóm lại: Định giá tài sản là việc tư vấn, định các mức giá cụ thể cho từng loại tài
sản làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản, hàng hóa, dịch vụ đó
trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá
(các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của từng loại tài sản,
hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán
phải thực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà
nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị trường làm
cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi.
Hiện nay đang tồn tại nhiều quan niệm về thẩm định giá. Song dưới góc độ pháp
lý, ở Việt Nam hiện nay, thẩm định giá được hiểu như sau:
Thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với
thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam
hoặc thông lệ quốc tế.
Thẩm định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ được hiểu là quá trình xác định giá thị
trường của tài sản (hữu hình, vô hình, động sản, bất động sản), hàng hóa, dịch vụ,
là việc đánh giá và đánh giá lại giá trị tài sản theo giá thị trường tại một thời điểm
theo một chuẩn mực nhất định. Hiểu một cách thực chất, thẩm định giá là xác định
giá cả của tài sản trên thị trường tại một thời điểm. Nó chính là việc xác định giá trị
để tìm ra giá cả của tài sản định bán trong một tập hợp giả định các điều kiện trên
thị trường nhất định. Công việc thẩm định giá do các nhà chuyên môn được đào
tạo, có kiến thức, kinh nghiệm, có tính trung thực, nghề nghiệp về giá thực hiện.
Nói cách khác, thẩm định giá do các thẩm định viên về giá thực hiện theo các tiêu
chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định. Kết quả của việc xác định giá cả do
các thẩm định viên về giá thực hiện là cơ sở để các tổ chức, cá nhân có tài sản định
ra mức giá phù hợp trong giao dịch.
Sự khác nhau giữa định giá và thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường được
thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Thứ nhất. Bản chất, mục đích định giá và thẩm định giá
Định giá là việc đánh giá giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa
điểm, thời điểm nhất định còn thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá
trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo
tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế.
Định giá thông qua các hình thức định giá cụ thể, giá chuẩn, khung giá, giá giới
hạn (giá tối thiểu, giá tối đa); thẩm định giá chỉ xác định duy nhất một mức giá tài
sản tại một địa điểm và thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá, kết quả
thẩm định giá được đưa ra chủ yếu là mang tính tư vấn.
Định giá tài sản để đưa tài sản vào lưu thông trong kinh tế thị trường, trên cơ sở đó
thúc đẩy thị trường phát triển. Thẩm định giá đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của
tài sản để tư vấn cho người có yêu cầu thẩm định giá sử dụng vào những mục đích
nhất định như mục đích bảo toàn tài sản, mua bán tài sản, thế chấp tài sản, tính
thuế, thanh lý tài sản, ...
- Định giá tài sản phải dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, tính chất, vị trí, quy mô,
thực trạng của tài sản và giá thị trường tại thời điểm định giá;
- Định giá tài sản phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân thủ pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả thẩm định
giá;
- Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ và tính trung thực, khách quan
của hoạt động thẩm định giá;
- Bảo mật các thông tin của đơn vị được thẩm định giá, trừ trường hợp đơn vị được
thẩm định giá đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác.
Định giá theo các phương pháp cơ bản như: phương pháp so sánh trực tiếp;
phương pháp thu nhập; ...
Thẩm định giá theo các phương pháp cơ bản như: Phương pháp so sánh; phương
pháp chi phí; phương pháp thu nhập; phương pháp lợi nhuận; phương pháp thặng
dư; ...
Thứ tư. Chủ thể thực hiện
Định giá do Nhà nước thực hiện với tư cách tổ chức quyền lực công, thông qua đó
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và với cả tư cách chủ sở hữu (đối
với tài sản của Nhà nước). Định giá còn do các tổ chức, các nhân thực hiện với tư
cách chủ sở hữu tài sản hoặc với tư cách người có quyền tài sản hoặc với tư cách
người cung cấp dịch vụ định giá.
Thẩm định giá phải do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện, thông qua hoạt động
của thẩm định viên về giá.
Ðịnh giá đất đai là việc người định giá căn cứ vào nguyên tắc, phương pháp định
giá đất trên cơ sở nắm chắc tư liệu thị trường đất đai, căn cứ vào những thuộc tính
kinh tế và tự nhiên của đất đai theo chất lượng, và tình trạng thu lợi thông thường
trong hoạt động kinh tế thực tế của đất đai, xem xét đầy đủ ảnh hưởng của các yếu
tố về phát triển kinh tế, xã hội, phương thức sử dụng đất, dự kiến thu lợi từ đất và
chính sách đất đai, đối với việc thu lợi từ đất, rồi tổng hợp để định ra giá cả tại một
thời điểm nào đó cho một thửa hoặc nhiều thửa đất với một quyền đất đai nào đó.
Từ đó, định giá đất được hiểu là sự ước tính về giá trị của quyền sử dụng đất bằng
hình thái tiền tệ cho một mục đích sử dụng đã được xác định, tại một thời điểm xác
định.
Nhằm xác định giá trị tài sản theo thị trường, việc sử dụng phương pháp tiếp
cận so sánh cần thể hiện rõ nhu cầu của nhóm đối tượng thông thường tham
gia thị trường tài sản định giá và dựa trên cơ sở mức giá giao dịch của tài sản
so sánh sau khi đã điều chỉnh mức ảnh hướng lên giá của các yếu tố khác
biệt.
Cơ sở giá phi thị trường
Thể hiện qua việc chủ sở hữu BĐS trả giá cao hơn cho một BĐS liền kề.
Khi ứng dụng phương pháp so sánh trong các giao dịch để ước tính mức giá
tối đa BĐS liền kể mà chủ sở hữu sẵn sảng trả, thẩm định viên phải đạt được
mức giá có thể vượt mức giá trị thị trường và nó được gọi là giá trị người
mua đặc biệt.
Cách tiếp cận này gồm hai phương pháp: phương pháp chi phí thay thế và phương
pháp chi phí tái tạo.
Thu thập thông tin về các giao dịch gần đây của tài sản tương tự
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị tài sản
Ước tính giá trị thị trường của tài sản
"Hệ thống định giá đất có sự hỗ trợ của máy tính (CAMA) là một hệ thống quản lý
thông tin tài sản (PIMS) được thiết kế đặc biệt để quản lý dữ liệu định giá và thuế
tài sản. CAMA sử dụng công nghệ máy tính để thu thập, lưu trữ, phân tích và cập
nhật dữ liệu liên quan đến bất động sản, bao gồm giá trị đất đai, đặc điểm tài sản,
và thông tin chủ sở hữu."
Xác định giá trị thị trường của bất động sản
Tính toán thuế tài sản
Phân tích xu hướng thị trường bất động sản
Quản lý danh mục đầu tư bất động sản
Tăng hiệu quả: CAMA giúp tự động hóa một số bước trong quy trình định
giá, cho phép định giá nhanh hơn và chính xác hơn.
Tăng tính đồng nhất: CAMA giúp đảm bảo rằng tất cả các bất động sản
được định giá theo cùng một phương pháp, dẫn đến việc định giá công bằng
hơn.
Cải thiện tính minh bạch: CAMA giúp cho việc truy cập thông tin định giá
dễ dàng hơn, giúp nâng cao tính minh bạch của quy trình định giá.
Định giá đất hàng loạt giúp cơ quan quản lý nhà nước về đất đai xác định được một
mức giá tiệm cận với giá thị trường dựa trên các yếu tố ảnh hưởng tới giá đất đối
với từng khu vực và địa bàn cụ thể. Phương pháp này có tính ứng dụng cao trong
việc thu thuế, tiền SDĐ hay lập bảng giá đất của nhà nước.
Hiện nay, phương pháp định giá đất hàng loạt được áp dụng ở nhiều nước trên thế
giới. Ví dụ như giá đất ở Thụy Điện bằng khoảng 75% giá trị thị trường BĐS, hay
như Mỹ, những tiêu chuẩn và quy định về quy trình định giá hàng loạt đảm bảo giá
đất luôn tiệm cận thực tế, cập nhật liên tục.
Trong quá trình định giá hàng loạt, người định giá phải hiểu và biết cách sử dụng
đúng các phương pháp và kỹ thuật định giá được công nhận cần thiết để tạo ra và
truyền đạt kết quả đánh giá hàng loạt đáng tin cậy. Nền tảng của một hệ thống định
giá hàng loạt hiệu quả được thu thập và duy trì các thông tin chi tiết về sản phẩm
BĐS và dữ liệu thị trường về sản phẩm chính xác và hiện hành. Đánh giá hàng loạt
có thể đạt tiêu chuẩn là có hoặc không có sự trợ giúp của máy tính. Mặc dù các
công nghệ máy tính đã làm việc để đánh giá hàng loạt hiệu quả hơn, nhưng nó
không làm thay đổi quy trình cơ bản.
Mục đích của AVM là cung cấp một cách hiệu quả ước tính chính xác, thống nhất,
công bằng về giá trị thị trường hợp lý. Giá trị thị trường hợp lý được xác định;
phương sai cho phép; các yếu tố được xem xét khi xác định giá trị thị trường hợp
lý; các thủ tục đánh giá được chấp nhận chung sẽ được sử dụng. “Giá trị thị trường
hợp lý” có nghĩa là số tiền mà người mua có đầy đủ thông tin có lý khi trả tiền và
người bán có đầy đủ thông tin có lý khi nhận tài sản trong một thị trường mở và
cạnh tranh, giả định rằng các bên đang hành động mà không bị ép buộc quá mức.
Tất cả các giá trị AVM nên được xem xét về độ tin cậy. Các giá trị AVM được tạo
ra tuân thủ các quy định của cơ quan chủ quản được coi là giá trị thẩm định. Các
mô hình tuân thủ các phương pháp hay nhất để xác minh dữ liệu, phân tích dữ liệu,
phân tích thị trường và đảm bảo chất lượng liên tục đưa ra các ước tính giá trị đáng
tin cậy nhất.
Độ chính xác của AVM đã được nghiên cứu trong nhiều ấn phẩm thường được áp
dụng cho một khu vực nhỏ và dễ dàng đạt được độ chính xác. Kết luận tương tự
này đã được đưa ra trong một kiểm tra rộng hơn của Rossini và Kershaw (2008),
người đã tuyên bố rằng AVM có thể đạt được kết quả rất chính xác. Mặc dù hầu
hết các nguồn phân tích độ chính xác của AVM đều thống nhất về mức độ ảnh
hưởng đáng kể đến chất lượng dữ liệu nguồn và tính thống nhất của khu vực mà
AVM được áp dụng, các yếu tố quan trọng tiềm ẩn khác đằng sau AVM dường
như là hiếm khi được kiểm tra - có thể do các chuyên gia AVM có kinh nghiệm coi
các yếu tố đó là hiển nhiên. Trong bài báo So sánh hiệu quả các mô hình định giá
tự động – Moore (2006) đã chứng minh rằng bằng cách chạy nhiều mô hình AVM
cạnh nhau, kết quả phụ thuộc rất nhiều vào các phương pháp và thông số kỹ thuật
của mô hình được người lập mô hình lựa chọn và xác nhận của IAAO tuyên bố
rằng “độ tin cậy của một AVM phụ thuộc vào dữ liệu được sử dụng và kĩ năng của
người lập mô hình tạo ra AVM”. Đây là mối quan tâm đặc biệt nếu sự luân chuyển
giữa các nhân viên chủ chốt khiến một AVM chính xác đã được kiểm tra kĩ lưỡng
bị tê liệt do thay đổi môi trường thị trường hoặc trong việc mở rộng mô hình sang
các khu vực mới hoặc ứng dụng rộng hơn.
Hiện nay, AVM được phát triển phổ biến ở Mỹ, Úc, Canada và một số nước thành
viên như Anh, Đan Mạch. Cho đến nay, ứng dụng phổ biến nhất của AVM dường
như là trong ngành thế chấp, nơi AVM được sử dụng độc lập trong đánh giá rủi ro,
đánh giá các khoản vay hiện tại, tái cấp vốn và gần đây hơn là thực hiện định giá
giao dịch trong các cuộc đàm phán cho vay mua nhà.