You are on page 1of 23

1

GIÁ TRỊ HỢP LÝ– MỘT XU HƯỚNG MỚI CỦA ĐỊNH GIÁ
TRONG KẾ TOÁN 1

Lê Vũ Ngọc Thanh

Xác định giá trị có vai trò quan trọng trong công tác kế toán nhằm cung cấp
những thông tin hữu ích cho người sử dụng báo cáo tài chính. Hiện nay, giá trị hợp
lý là một xu hướng mới để định giá các đối tượng kế toán. Bài viết này sẽ trình bày
các vấn đề về định giá nói chung và sau đó làm rõ hơn về quá trình phát triển, bản
chất cũng như nội dung của giá trị hợp lý để hiểu rõ hơn về xu hướng này.

1.1. VẤN ĐỀ ĐỊNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN

1.1.1. Khái niệm định giá trong kế toán

Định giá (còn gọi là đánh giá, tính giá) là “xác định giá trị bằng tiền tệ cho các
đối tượng hoặc sự kiện liên quan đến doanh nghiệp”2. Định giá diễn ra thường
xuyên trong hoạt động kinh tế của doanh nghiệp như khi giao dịch, mua bán, sản
xuất.

Định giá trong kế toán

Trong kế toán, với chức năng “thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”3 thì
định giá trong kế toán là xác định giá trị tiền tệ khi phản ánh các đối tượng và các

1
Trích Luận Văn Thạc sĩ Kinh tế: Định hướng việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt
Nam, Học viên: Lê Vũ Ngọc Thanh, bảo vệ tại Trường ĐHKT TPHCM, tháng 1.2006.
2
Eldon S. Hendriksen, Accounting theory, xuất bản lần thứ tư, trang 75
3
Luật Kế toán Việt Nam, năm 2003, điều 4.
2

nghiệp vụ của kế toán. Đối tượng của định giá trong kế toán tài chính là đối tượng
phản ánh của kế toán, bao gồm: tài sản, nợ phải trả, doanh thu, chi phí …

Xét trong mối quan hệ với nghiệp vụ và giao dịch thì định giá trong kế toán
bao gồm hai loại :

- Định giá ban đầu : là xác định giá trị của đối tượng kế toán ngay khi nghiệp
vụ kinh tế phát sinh để ghi nhận vào sổ sách kế toán.

- Định giá sau ghi nhận ban đầu: là xác định lại giá trị của các đối tượng kế
toán sau một kỳ nhất định, xuất phát từ sự thay đổi giá trị của các đối tượng
này như hao mòn, đánh giá lại…

1.1.2. Tầm quan trọng của định giá trong kế toán

Định giá là một công việc quan trọng trong kế toán tài chính bởi vì :

(1). Định giá là một phương pháp cơ bản của kế toán

(2). Định giá ảnh hưởng đến quyết định của người đọc báo cáo tài chính

Chính vì tầm quan trọng này mà các chuẩn mực kế toán thường dành một phần
lớn nội dung để bàn về vấn đề định giá các khoản mục trên báo cáo tài chính.

1.1.3. Các giả thiết, nguyên tắc kế toán hưởng đến việc định giá

IAS framework đề cập đến hai giả định (cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục) và
bốn đặc điểm chất lượng (có thể hiểu được, có thể so sánh được, thích hợp và đáng
tin cậy). Trong đó những giả định và các đặc điểm chất lượng có ảnh hưởng rõ rệt
đến định giá là:

Giả định về tính hoạt động liên tục

Báo cáo tài chính được lập trên giả định rằng doanh nghiệp đang hoạt động và
sẽ không có ý định ngừng hoạt động trong một tương lai gần.

Giả định này ảnh hưởng quan trọng đến việc định giá. Nó là cơ sở cho phép
giá gốc được sử dụng để đánh giá và trình bày các yếu tố của báo cáo tài chính. Nếu
3

giả định này bị vi phạm thì tất cả tài sản của doanh nghiệp phải được trình bày theo
giá trị thuần có thể thực hiện.

Đặc điểm có thể so sánh được

Thông tin cần được trình bày trên báo cáo tài chính sao cho người đọc có thể
so sánh chúng với báo cáo tài chính của doanh nghiệp khác, hoặc với các kỳ trước
của chính doanh nghiệp đó.

Đặc điểm này chính là lý do để thông tin được trình bày theo hình thức tiền tệ.
Không những thế, nó còn chi phối đến phương pháp định giá: các cách định giá
khác nhau sẽ dẫn đến tình hình tài chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
khác nhau, vì vậy yêu cầu các phương pháp định giá phải được sử dụng nhất quán
giữa các kỳ.

Đặc điểm đáng tin cậy

Thông tin chỉ hữu ích khi nào chúng đáng tin cậy. Thông tin được gọi là đáng
tin cậy khi chúng không bị sai sót hay thiên lệch một cách trọng yếu.

Trong đặc điểm đáng tin cậy, nguyên tắc khách quan và nguyên tắc thận trọng
có ảnh hưởng rõ rệt đến định giá.

- Nguyên tắc khách quan

Thông tin trên báo cáo tài chính phải khách quan, không bị sai lệch một cách
cố ý.

Nguyên tắc khách quan ảnh hưởng lớn đến định giá. Nguyên tắc này yêu cầu
các loại giá được sử dụng phải có thể xác định được và có thể kiểm chứng được.
Đây cũng chính là lý do khiến cho hệ thống kế toán dựa trên giá gốc được chấp
nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Cùng với sự phát triển của hệ thống thông tin
làm cho yêu cầu có thể có được và có thể kiểm chứng được trở nên dễ dàng làm
xuất hiện nhiều loại giá khác được sử dụng: giá thay thế, giá thị trường, giá trị hợp
lý…

- Nguyên tắc thận trọng


4

Nguyên tắc thận trọng yêu cầu phải trình bày nội dung về các sự kiện, tình thế
không chắc chắn khó có thể tránh được, chẳng hạn như khả năng thu hồi các khoản
nợ khó đòi, thời gian hữu dụng của tài sản, khả năng xảy ra các khoản nợ phải trả…
Nguyên tắc thận trọng nhằm mục đích tránh thổi phồng giá trị tài sản, nhưng cũng
không có nghĩa là giấu bớt giá trị thực của tài sản.

Nguyên tắc này ảnh hưởng đến việc định giá ở chỗ : yêu cầu giá được sử dụng
không làm thổi phồng giá trị tài sản, có nghĩa là tài sản được ghi nhận không được
vượt khỏi giá trị thuần có thể thực hiện.

1.1.4. Các loại giá được sử dụng

Quá trình phát triển các lý thuyết và thực tiễn hoạt động kế toán đã dẫn đến sự
ra đời nhiều loại giá khác nhau, chúng được phân thành các loại như sau:

a. Giá đầu vào

- Giá gốc (historical cost): là số tiền hoặc tương đương tiền đã thanh toán để
có một tài sản hoặc thanh toán một khoản nợ phải trả.

Giá gốc còn được gọi là giá phí lịch sử, giá phí, giá thực tế.

- Giá thay thế (replacement cost)- chi phí thay thế: là số tiền hoặc tương
đương tiền sẽ được chi trả để nhận được tài sản tương đương có cùng giá trị
hữu dụng còn lại.

Giá thay thế được ước tính dựa vào giá thị trường, hoặc chỉ số giá đặc biệt,
hoặc sự ước lượng của nhà quản lý.

b. Giá đầu ra

- Giá trị thuần có thể thực hiện (net realizable value): là số tiền hoặc tương
đương tiền thuần sẽ thu được khi bán tài sản hoặc sẽ phải trả để thanh toán
nợ hiện tại. Giá trị thuần có thể thực hiện là giá bán ước tính trong điều kiện
kinh doanh bình thường trừ chi phí ước tính cho việc hoàn thành và tiêu thụ.
5

Giá trị thuần có thể thực hiện cũng được ước tính từ mức giá thị trường và
điều chỉnh theo giá bán ước lượng (tức là giá thị trường cộng thêm lãi mong
muốn), hoặc được ước lượng dựa vào chỉ số giá đặc biệt và sự định giá.

- Hiện giá (present value): là giá trị hiện tại của dòng tiền thuần sẽ nhận được
từ việc sử dụng tài sản hoặc sẽ trả để thanh toán nợ.

Để tính toán hiện giá phụ thuộc vào: dòng tiền mong muốn, thời gian của
dòng tiền mong muốn, số năm còn lại của tài sản hoặc nợ phải trả, lãi suất
chiết khấu phù hợp.

c. Các loại giá khác

- Giá thị trường (market value): là giá của tài sản hoặc nợ phải trả được xác
định trên thị trường hoạt động.

Điều kiện để giá thị trường phản ánh đúng giá cả của tài sản, nợ phải trả là
phải có thị trường hoạt động, trong đó người mua và người bán phải có đầy
đủ sự hiểu biết về giao dịch, mua bán không có bất cứ sự cưỡng ép nào. Vì
vậy vấn đề khó khăn gặp phải khi sử dụng giá thị trường là trong nhiều
trường hợp không có thị trường hoạt động để có thể xác định được giá thị
trường.

- Giá trị hợp lý (fair value): “là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể được
trao đổi trong một giao dịch hiện tại giữa những người tự nguyện, thông
thạo, không có mối quan hệ”4

Giá trị hợp lý là giá trao đổi mà được ước tính dựa vào hoạt động của những
người tham gia trên thị trường trong một giao dịch giả định. Trong trường
hợp có giá thị trường thì giá trị hợp lý chính là giá thị trường. Trong các
trường hợp khác thì giá trị hợp lý được xác định dựa vào việc ước tính.

Giá trị hợp lý và giá thị trường là cùng một loại giá dựa trên các thị trường
hoạt động, tuy nhiên chúng không đồng nhất hoàn toàn. Trong những trường

4
FASB, Fair Value Measurements, dự thảo, năm 2004, trang 2
6

hợp không có thị trường hoạt động thì không thể xác định giá thị trường,
nhưng giá trị hợp lý vẫn được xác định dựa trên các ước tính.

d. Ngoài ra một số khoản mục được đánh giá theo sự lựa chọn giữa một
trong hai loại giá:

- Giá thấp hơn giữa giá gốc và giá thị trường (LCM – lower of cost and
market value).

LCM thường được áp dụng trong hệ thống kế toán của Mỹ để trình bày
khoản mục hàng tồn kho.

Giá thị trường trong LCM là giá thay thế nằm trong phạm vi giá trần và giá
sàn. Giá trần là giá trị thuần có thể thực hiện; giá sàn là giá trị thuần có thể
thực hiện trừ lợi nhuận ước tính.

- Giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện

Giá này được đề cập trong chuẩn mực kế toán quốc tế để trình bày khoản
mục hàng tồn kho.

1.1.5. Các hệ thống định giá kế toán

Hệ thống định giá kế toán xuất hiện từ lý luận về vốn và bảo toàn vốn. Trong
mỗi hệ thống kế toán, các loại giá khác nhau được sử dụng phối hợp để định giá các
đối tượng kế toán.

1.1.5.1. Khái niệm về vốn và bảo toàn vốn

Khái niệm về vốn :

Theo khái niệm tài chính vốn là tiền đầu tư hoặc sức mua của vốn đã đầu tư,
vốn đồng nghĩa với tài sản thuần hoặc vốn chủ sở hữu.

Theo khái niệm vật chất vốn như là năng lực hoạt động, năng lực sản xuất của
một doanh nghiệp.

Khái niệm bảo toàn vốn


7

Dựa trên hai khái niệm về vốn làm nảy sinh hai khái niệm về bảo toàn vốn:
bảo toàn vốn tài chính và bảo toàn vốn vật chất.

Khái niệm bảo toàn vốn tài chính: lợi nhuận là phần vượt của giá trị tài sản
thuần cuối kỳ so với đầu kỳ sau khi loại trừ ảnh hưởng của các khoản góp vốn hoặc
chia lãi cho cổ đông.

Như vậy lợi nhuận chỉ xảy ra khi có sự tăng lên của giá trị tài sản thuần trong
những điều kiện trên. Theo IAS framework có hai phương pháp để xác định bảo
toàn vốn tài chính :

- Theo đơn vị tiền tệ danh nghĩa : lợi nhuận là khoản gia tăng vốn danh nghĩa
trong kỳ. Như vậy khoản gia tăng về giá cả của tài sản hiện có trong kỳ được coi là
lợi nhuận, tuy nhiên chúng chưa được ghi nhận cho đến khi tài sản đó được bán
hoặc trao đổi.

- Theo đơn vị sức mua ổn định : lợi nhuận là khoản gia tăng sức mua của vốn
trong kỳ. Như vậy chỉ có phần gia tăng giá cả của tài sản vượt quá phần tăng của
sức mua chung thì mới được coi là lợi nhuận.

Khái niệm bảo toàn vốn vật chất: lợi nhuận là phần vượt của năng lực sản xuất
vật chất cuối kỳ so với đầu kỳ sau khi trừ đi khoản góp vốn và chia lãi cho các cổ
đông.

Khái niệm bảo toàn vốn về mặt vật chất yêu cầu báo cáo dựa trên cơ sở giá
hiện hành.

1.1.5.2. Các hệ thống định giá kế toán

Các khái niệm về vốn và bảo toàn vốn ra đời xuất phát từ biến động giá trong
nền kinh tế và nó đưa ra cách thức để giải thích một cách có hệ thống việc áp dụng
các loại giá trong nền kinh tế. Tương ứng với hai quan điểm bảo toàn vốn tài chính
và vật chất đã có bốn hệ thống định giá kế toán :

- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá gốc: ghi nhận và lập báo cáo tài chính
dựa trên cơ sở giá gốc. Bảo toàn vốn về mặt tài chính theo đơn vị tiền tệ
danh nghĩa. Hệ thống này sử dụng giá gốc là chủ yếu và kết hợp với các loại
8

giá khác: giá trị hợp lý, giá trị thuần có thể thực hiện, hiện giá. Để ghi nhận
ban đầu chủ yếu là sử dụng giá gốc. Sau ghi nhận ban đầu, giá gốc của một
số khoản mục được điều chỉnh dựa trên nguyên tắc thận trọng (chỉ cho phép
điều chỉnh giảm) hoặc đánh giá lại (điều chỉnh cho cả tăng và giảm)

- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá gốc đã được điều chỉnh giá theo sức
mua của tiền tệ: giá gốc được điều chỉnh theo chỉ số giá trước khi lập báo
cáo tài chính, nhằm bảo toàn vốn tài chính theo sức mua ổn định.

- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành: với mục đích bảo toàn
năng lực sản xuất, hệ thống kế toán này đánh giá các đối tượng kế toán vào
cuối kỳ theo hiện giá, chi phí thay thế, giá trị thuần có thể thực hiện, hoặc kết
hợp giữa các loại giá.

- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành điều chỉnh theo sức mua
chung: sử dụng như giá hiện hành và điều chỉnh theo chỉ số giá trước khi lập
báo cáo tài chính, nhằm bảo toàn năng lực sản xuất và sức mua chung.

Hiện nay hệ thống định giá kế toán dựa vào giá gốc là hệ thống định giá kế
toán chủ yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ưu điểm của hệ thống giá gốc là
khách quan, thận trọng, có thể kiểm soát được, tuy nhiên thường bị lạc hậu vì giá cả
biến đổi, vì vậy làm cho tính hữu ích của thông tin không cao.

Trong những năm 70 – 80 của thế kỷ hai mươi, hệ thống định giá kế toán dựa
trên giá hiện hành được cho phép. Hệ thống giá này khắc phục được nhược điểm
của hệ thống kế toán dựa vào giá gốc, nó bảo toàn được năng lực sản xuất vật chất,
tuy nhiên nó phức tạp vì phải điều chỉnh lại doanh thu, giá vốn hàng bán, khấu
hao… nên phải điều chỉnh lại các báo cáo tài chính.

Trong bối cảnh đó, giá trị hợp lý dần dần được quan tâm và được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực, trong nhiều trường hợp.

1.2. GIÁ TRỊ HỢP LÝ – XU HƯỚNG MỚI CỦA ĐỊNH GIÁ

1.2.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý
9

a. Trên thế giới: Sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý có thể được
chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1960 đến 1990: Giá trị hợp lý bắt đầu xuất hiện và mở rộng phạm
vi sử dụng.

Trên thế giới, giá trị hợp lý xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ, được đề cập đến trong
báo cáo của Ủy ban nguyên tắc kế toán (APB). Sự hình thành giá trị hợp lý là một
quá trình lâu dài:

- Từ năm 1962 – 1969: là giai đoạn tiền đề, trong giai đoạn này giá thị trường
được sử dụng, nhưng trong một số trường hợp không có thị trường hoạt động
để có thể xác định được giá thị trường.

- Đến năm 1970 : giá trị hợp lý chính thức xuất hiện, được đề cập đến đầu tiên
trong Ý kiến của APB số 16 (APB Opinion 16), số 17, để ghi nhận lợi thế
thương mại, ghi nhận giá trị của tài sản có được do hợp nhất:

APB Opinion 16 - Hợp nhất doanh nghiệp “Tất cả tài sản, nợ phải trả có
được trong hợp nhất doanh nghiệp nên được ghi nhận tại giá trị hợp lý của
chúng tại ngày mua”

APB Opinion 17 – Tài sản vô hình – “Sự khác nhau giữa giá trị hợp lý và chi
phí sẽ được coi như lợi thế thương mại”

Sau khi xuất hiện, giá trị hợp lý tiếp tục được thừa nhận và phạm vi sử dụng
của giá trị hợp lý dần dần được mở rộng hơn. Giá trị hợp lý bắt đầu được sự quan
tâm và áp dụng của nhiều nước cũng như của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế
(IASB), được sử dụng trong nhiều lĩnh vực: dầu khí, truyền hình, ngân hàng, bảo
hiểm…Và cũng đã có những hướng dẫn hạn chế về cách xác định và trình bày giá
trị hợp lý trên báo cáo tài chính.

Nhìn chung, trong giai đoạn này giá trị hợp lý xuất hiện để áp dụng cho lợi thế
thương mại và tài sản có được do hợp nhất, sau đó giá trị hợp lý được mở rộng để
áp dụng cho một số chứng khoán và giao dịch phi tiền tệ, công cụ tài chính, thuê tài
sản.
10

Giai đoạn 1991 đến nay: Giá trị hợp lý phát triển mạnh mẽ cùng với sự hình
thành và phát triển của các thị trường hoạt động.

Đây là giai đoạn phát triển nhất của giá trị hợp lý, nó được khẳng định qua hai
giai đoạn:

- Từ năm 1991 đến 2000: sự phát triển được đánh dấu bằng hàng loạt các
chuẩn mực của Mỹ : FASB Statement 107 (năm 1991) công bố về giá trị hợp
lý của công cụ tài chính, FASB Statement 141 - hợp nhất doanh nghiệp,
FASB Statement 142 lợi thế thương mại và tài sản vô hình … các chuẩn mực
này đã đưa ra được những hướng dẫn rõ ràng hơn về giá trị hợp lý.

Lúc này chuẩn mực của Mỹ cũng như chuẩn mực quốc tế đã bắt đầu sử dụng
giá trị hợp lý cho việc đánh giá sau ghi nhận ban đầu.

Trong giai đoạn này, giá trị hợp lý được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành,
nhiều khoản mục làm xuất hiện sự lo lắng về khả năng của giá trị hợp lý do
những hướng dẫn về giá trị hợp lý vẫn chưa đạt được sự thống nhất chung và
có nhiều mâu thuẫn trong các công bố.

- Từ năm 2000 đến nay

Bắt đầu từ năm 2000 để giải quyết những lo lắng về giá trị hợp lý, FASB và
IASB đã bắt tay vào nghiên cứu sâu hơn về lý thuyết của giá trị hợp lý.

Năm 2004 sự phát triển mạnh mẽ của giá trị hợp lý được chứng minh bằng
Dự thảo Chuẩn mực về giá trị hợp lý của FASB – giá trị hợp lý bắt đầu được
nghiên cứu vào năm 2003, và sau nhiều lần tiến hành thảo luận Dự thảo được
công bố chính thức vào tháng 6 năm 2004. Bên cạnh đó, chuẩn mực kiểm
toán quốc tế số 545 - Kiếm toán xác định và công bố giá trị hợp lý hướng
dẫn kiểm toán giá trị hợp lý cho các báo cáo tài chính bắt đầu từ năm 2004
cũng đã cho thấy sự phát triển của giá trị hợp lý.

b. Tại Việt Nam

Không xuất hiện sớm như quốc tế, tại Việt Nam giá trị hợp lý ra được đề cập
đầu tiên trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số
11

149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, được sử dụng để ghi nhận ban đầu cho các
trao đổi phi tiền tệ và ghi nhận doanh thu.

Kể từ đó cho đến nay, giá trị hợp lý tiếp tục được phát triển thể hiện trong các
thông tư hướng dẫn chuẩn mực (thông tư 89/2002/TT-BTC, thông tư 105/2003/TT-
BTC, thông tư 23/2005/TT-BTC) và các quyết định ban hành chuẩn mực vào các
năm tiếp theo (quyết định 165/2002/QĐ-BTC, quyết định 234/2003/QĐ-BTC,)
cũng đã mở rộng phạm vi sử dụng giá trị hợp lý cho các khoản mục khác: thuê tài
sản, ngoại tệ.

Các chuẩn mực yêu cầu sử dụng giá trị hợp lý :

Chuẩn mực số Năm ban hành

Chuẩn mực số 3 – Tài sản cố định hữu hình 2001

Chuẩn mực số 4 – Tài sản cố định vô hình 2001

Chuẩn mực số 14 – Doanh thu và thu nhập khác 2001

Chuẩn mực số 1 - Chuẩn mực chung 2002

Chuẩn mực số 6 –Thuê tài sản 2002

Chuẩn mực số 10 - Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá hối đoái 2002

Chuẩn mực số 5 - Bất động sản đầu tư 2003

1.2.2. Nội dung của giá trị hợp lý

Hiện nay, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế chưa ban hành chuẩn mực về
giá trị hợp lý. Phần viết dưới đây dựa vào dự thảo chuẩn mực về giá trị hợp lý của
FASB.

1.2.2.1. Khái niệm giá trị hợp lý


12

Giá trị hợp lý là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể được trao đổi trong
một giao dịch hiện tại giữa những người tham gia tự nguyện, không có mối quan hệ,
có đầy đủ sự hiểu biết về trao đổi.

Các khái niệm trong định nghĩa này được hiểu như sau:

- Những người tham gia tự nguyện: là những người mua bán không có mối
quan hệ với nhau, có khả năng tài chính và khả năng pháp luật để thực hiện
giao dịch, tự nguyện tham gia giao dịch, không có sự ép buộc.

- Có đầy đủ sự hiểu biết: những người tham gia giao dịch phải có trình độ
chung của sự hiểu biết về những nhân tố, những đặc điểm của tài sản và nợ
phải trả đang giao dịch, có sự hiểu biết về giao dịch.

1.2.2.2Phương pháp xác định giá trị hợp lý

Để có thể đưa ra phương pháp xác định giá trị hợp lý thích hợp, người định giá
cần xem xét những vấn đề sau :

(1) Tiền đề định giá

Tiền đề định giá cung cấp mục đích của định giá để từ đó lựa chọn phương
pháp cho thích hợp. Tiền đề định giá bao gồm:

- Tiền đề định giá hoạt động liên tục hoặc đang sử dụng: áp dụng để xác định
giá trị hợp lý của tài sản và nợ phải trả khi: doanh nghiệp hoạt động liên tục
hoặc tài sản được xác định là để sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp.

- Tiền đề định giá trong trao đổi: tài sản được xác định không nhằm mục đích
sử dụng mà để bán, trao đổi.

(2) Cấp độ xác định giá trị hợp lý

Căn cứ vào những thông tin và những giả định đang có, người định giá sẽ xem
xét xem có thể xác định giá trị hợp lý ở cấp độ nào. Cấp độ càng cao thì ước tính
càng đáng tin cậy. FASB đã đưa ra ba cấp độ (trong đó cấp độ 1 là cấp độ cao nhất):
13

- Cấp độ 1: áp dụng trong trường hợp có giá tham chiếu trên thị trường của tài
sản và nợ phải trả y hệt như tài sản và nợ phải trả đang được định giá. Giá trị
hợp lý sẽ là giá tham chiếu đó.

Y hệt có nghĩa là: đối với tài sản: có cùng đặc điểm, cùng tính chất, cùng tình
trạng cũ - mới, cùng nước sản xuất, cùng năm sản xuất. Đối với nợ phải trả:
có cùng những điều khoản trong hợp đồng, cùng thời gian, số tiền, sự đánh
giá tình trạng tín dụng…

Nếu không đạt được cấp độ 1 thì sẽ xem xét sang cấp độ 2.

- Cấp độ 2: áp dụng trong trường hợp có giá tham chiếu trên thị trường của tài
sản hoặc nợ phải trả tương tự như tài sản hoặc nợ phải trả đang được định
giá. Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu điều chỉnh cho những khác biệt.

Nếu không đạt được cấp độ 2 thì sẽ xem xét sang cấp độ 3.

- Cấp độ 3: áp dụng trong trường hợp không có giá tham chiếu của tài sản
hoặc nợ phải trả tương tự, hoặc có nhưng mức độ khác biệt thì không đánh
giá được rõ ràng. Giá trị hợp lý sẽ được ước tính dựa vào các phương pháp:
phương pháp tiếp cận thị trường, phương pháp tiếp cận thu nhập, phương
pháp tiếp cận chi phí. Phương pháp nào sử dụng nhiều dữ liệu và giả định từ
thị trường thì phương pháp đó sẽ cho kết quả đáng tin cậy nhất. Nếu không
có những giả định và dữ liệu từ thị trường thì sẽ ước tính giá trị hợp lý dựa
vào những giả định và những ước tính nội bộ của doanh nghiệp.

(3) Phương pháp xác định giá trị hợp lý

Tùy thuộc vào từng cấp độ sẽ áp dụng phương pháp xác định phù hợp. Đối với
ước tính cấp độ 1 và cấp độ 2 thì chỉ cần sử dụng 1 phương pháp (phương pháp tiếp
cận thị trường), đối với ước tính cấp độ 3 thì cần phải sử dụng cả 3 phương pháp.
Các phương pháp được mô tả như sau:

- Phương pháp tiếp cận thị trường: áp dụng khi có giá tham chiếu trên thị
trường. Giá trị hợp lý dựa vào giá tham chiếu, điều chỉnh nếu cần thiết.

Những trường hợp phải điều chỉnh giá tham chiếu:


14

+ Giá tham khảo không lấy từ thị trường hiện tại mà là giá cũ, do vậy
doanh nghiệp nên xem xét thời gian của giao dịch thực tế, những thay
đổi trong điều kiện tín dụng, lãi suất, những nhân tố khác… để điều
chỉnh cho phù hợp.

+ Sự khác nhau của tài sản có giá tham chiếu trên thị trường và tài sản
đang được định giá thì không thể xác định rõ ràng, vì vậy cần phải
điều chỉnh giá tham chiếu.

+ Những giá mà không đại diện cho các giao dịch trên thị trường, ví dụ
như giá được lấy từ giao dịch bị cưỡng ép, giao dịch giữa các bên có
liên quan …

+ Có sự khác biệt trong đơn vị tính toán, hoàn cảnh, khu vực, hợp đồng…

- Phương pháp tiếp cận chi phí: theo phương pháp này giá trị hợp lý được ước
tính dựa vào số tiền ước tính để có được tài sản thay thế.

- Phương pháp tiếp cận thu nhập: theo phương pháp này, giá trị hợp lý được
ước tính dựa vào dòng thu nhập mong chờ. Hay nói cách khác giá trị hợp lý
chính là hiện giá của dòng thu nhập mong chờ bằng cách sử dụng lãi suất để
quy đổi dòng tiền mong chờ tương lai về hiện tại. (Xem phụ lục số 3).

Phương pháp xác định giá trị hợp lý được khái quát lại qua sơ đồ phương
pháp xác định giá trị hợp lý trong hình 1.1 dưới đây.
15

Hình 1.1: Phương pháp xác định giá trị hợp lý

SƠ ĐỒ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ HỢP LÝ

Ước tính PP tiếp cận


cấp độ 1 thị trường

có giá thị trường tham chiếu


Bắt đầu

giá tham
không
có giá chiếu
thị
trường
tham
chiếu,
Ước tính PP tiếp cận
hoặc có cấp độ 2
giá thị thị trường
trường
nhưng
không
xác
định giá tham
được chiếu đã
mức độ điều chỉnh
khác
biệt
PP tiếp cận thị
trường Lựa chọn
Ước tính kết quả
cấp độ 3 đáng tin
cậy nhất
PP tiếp cận phù hợp
thu nhập với tiền
đề định
giá
PP tiếp cận chi
phí
16

1.2.3. Bản chất của giá trị hợp lý

Việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của giá trị hợp lý trong toàn bộ
hệ thống định giá kế toán cho phép rút ra một số nhận xét sau nhằm làm sáng tỏ bản
chất của giá trị hợp lý:

So sánh với hệ thống giá gốc:

Hệ thống giá gốc được sử dụng hiện nay là hệ thống giá gốc dựa trên đơn vị
tiền tệ danh nghĩa, có điều chỉnh để khắc phục những yếu kém của giá gốc.
Tuy nhiên, trong điều kiện sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện tại, hệ
thống này bộc lộ một số nhược điểm. Giá trị hợp lý đã khắc phục các nhược
điểm này chủ yếu thông qua việc phát triển các công cụ định giá sau ghi nhận
ban đầu bao gồm:

(1) Giá trị hợp lý thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên tắc thận trọng trong việc sử
dụng giá trị thuần có thể thực hiện khi tài sản bị giảm giá. Theo nguyên tắc
thận trọng, trong các tình huống chưa rõ ràng, các phương pháp kế toán
được sử dụng theo khuynh hướng thận trọng, nghĩa là tránh thổi phồng tài
sản và thu nhập. Khi các thị trường hoạt động phát triển, khả năng định giá
theo thị trường với các thông tin đáng tin cậy tăng lên, việc áp dụng thận
trọng như trên không còn hoàn toàn thích hợp. Do đó, đối với những loại
tài sản đã có thị trường hoạt động phát triển, giá trị hợp lý có thể sử dụng
để phản ánh sự thay đổi của giá gốc, bao gồm cả sự tăng lên hay giảm đi
của giá trị tài sản mà không đe doạ yêu cầu đáng tin cậy của báo cáo tài
chính.

(2) Giá trị hợp lý cung cấp một cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc đánh giá
lại tài sản. Trước đây, một số nước và ngay cả IAS cho phép đánh giá lại
tài sản dài hạn nhưng chưa đưa ra một khuôn khổ chung cho quá trình này.
17

Giá trị hợp lý đã giải quyết bằng cách cung cấp một cơ sở lý luận và hệ
thống phương pháp đầy đủ.

Ngoài ra trong những trường hợp không có giá gốc, giá trị hợp lý được sử
dụng để định giá trong ghi nhận ban đầu. Thí dụ các trường hợp trao đổi tài
sản.

So sánh với hệ thống giá hiện hành

Hệ thống giá hiện hành dựa trên cơ sở sử dụng hiện giá, giá thay thế hoặc giá
trị thuần có thể thực hiện đưa ra một phương pháp điều chỉnh có hệ thống toàn
bộ báo cáo tài chính, không chỉ điều chỉnh giá trị tài sản và nợ phải trả mà còn
điều chỉnh tất cả các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (xem
phụ lục số 1). Do thay đổi triệt để giá gốc, hệ thống này mặc dù đưa ra một
phương pháp giải quyết có hệ thống nhưng lại quá phức tạp trong quá trình
thực hiện. Chính vì thế, khi nền kinh tế thế giới đã kiểm soát được lạm phát
trong mức độ nhất định, hệ thống giá hiện hành đã không còn được sử dụng.
So sánh với hệ thống giá hiện hành, giá trị hợp lý không phủ nhận giá gốc mà
vẫn đảm bảo việc định giá hướng về thị trường. Khi sử dụng giá trị hợp lý,
những tài sản nào có giá trị thay đổi so với giá thị trường mới cần điều chỉnh
và quá trình điều chỉnh này cũng làm phát sinh thu nhập và chi phí khi đánh
giá lại nhưng không làm thay đổi dữ liệu hoạt động kinh doanh bình thường
của doanh nghiệp (doanh thu, chi phí…)

Vậy, Bản chất của giá trị hợp lý là một phương pháp bổ sung cho giá gốc
chủ yếu tập trung vào việc định giá sau ghi nhận ban đầu trên cơ sở giá thị
trường và các thông tin có được từ thị trường. Trong một số trường hợp, giá
trị hợp lý có thể sử dụng cho đánh giá ban đầu của tài sản khi không có giá
gốc.

1.2.4. Phạm vi áp dụng giá trị hợp lý theo kế toán Mỹ, theo chuẩn mực kế
toán quốc tế, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam

1.2.4.1 Phạm vi áp dụng giá trị hợp lý theo kế toán Mỹ


18

(1) Ghi nhận và trình bày công cụ tài chính (chứng khoán thương mại và
chứng khoán sẵn sàng để bán, công cụ phái sinh)

(2) Ghi nhận tài sản và nợ phải trả có được trong hợp nhất doanh nghiệp

(3) Ghi nhận ban đầu trong trường hợp trao đổi phi tiền tệ.

(4) Ghi nhận và trình bày các khoản mục phát sinh bằng ngoại tệ.

(5) Ghi nhận ban đầu cho tài sản cố định thuê tài chính.

1.2.4.2. Áp dụng giá trị hợp lý theo yêu cầu trong các chuẩn mực kế toán
quốc tế

Chuẩn mực kế toán quốc tế đã yêu cầu áp dụng giá trị hợp lý trong những
trường hợp sau:

(1) Hợp nhất doanh nghiệp: tài sản và nợ phải trả có được do hợp nhất doanh
nghiệp được ghi nhận theo giá trị hợp lý của chúng vào ngày mua. Phần chi
phí mua vượt quá giá trị hợp lý được ghi nhận là lợi thế thương mại.

(2) Hàng tồn kho đối với nhà sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khoáng sản và
những người môi giới thì cho phép xác định hàng tồn kho của họ tại giá trị
hợp lý trừ đi chi phí để bán.

(3) Nông nghiệp: động vật, cây trồng, rừng và sản phẩm được ghi nhận tại giá
trị hợp lý cùng với sự đánh giá lại thường xuyên.

(4) Bất động sản, nhà xưởng, thiết bị: doanh nghiệp có quyền lựa chọn ghi
nhận sau ghi nhận ban đầu tại: giá gốc trừ đi khấu hao và sự giảm giá; hoặc
ghi nhận tại giá trị hợp lý với sự đánh giá lại thường xuyên.

(Các trường hợp trao đổi phi tiền tệ: ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của
tài sản nhận được)

(5) Tài sản cố định vô hình: doanh nghiệp có thể lựa chọn ghi nhận tài sản cố
định vô hình tại giá trị hợp lý - nếu có thị trường hoạt động cho tài sản đó tồn
tại.
19

(6) Tài sản cố định thuê tài chính: ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý hoặc
hiện giá của khoản tiền thuê tối thiểu phải trả.

(7) Bất động sản đầu tư: doanh nghiệp có thể báo cáo bất động sản theo: chi
phí trừ khấu hao trừ giảm giá; hoặc theo giá trị hợp lý.

(8) Các khoản mục phát sinh bằng ngoại tệ: ghi nhận và trình bày theo giá trị
hợp lý tại ngày phát sinh giao dịch và đánh giá lại theo giá trị hợp lý vào cuối
kỳ.

(9) Công cụ tài chính:

Ghi nhận và định giá: Ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của công cụ tài
chính. Ghi nhận sau ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của tất cả khoản đầu
tư trong chứng khoán vốn, một số chứng khoán nợ và tất cả công cụ phái
sinh, và bất cứ tài sản tài chính nào được giữ để trao đổi. Cũng như vậy, tại
ngày mua hoặc phát hành, bất cứ tài sản tài chính hoặc nợ tài chính được ghi
nhận theo giá trị hợp lý.

1.2.4.3. Phạm vi áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam

(1) Ghi nhận ban đầu cho một số trường hợp của tài sản cố định (TSCĐ):

- TSCĐ có được do trao đổi TSCĐ của doanh nghiệp để lấy TSCĐ khác
không tương tự,

- TSCĐ có được do được biếu tặng, tài trợ,

- TSCĐ có được bằng việc trao đổi chứng từ liên quan đến quyền sở hữu vốn
của đơn vị,

- TSCĐ thuê tài chính,

- TSCĐ vô hình hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp.

(2) Ghi nhận ban đầu cho doanh thu và thu nhâp khác
20

(3) Ghi nhận ban đầu và báo cáo các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ, hoặc
các khoản mục phi tiền tệ có gốc ngoại tệ mà được ghi nhận ban đầu theo
giá trị hợp lý

Như vậy tại Việt Nam, giá trị hợp lý chủ yếu sử dụng cho ghi nhận ban đầu.
Tại Mỹ, ngoài ghi nhận ban đầu, giá trị hợp lý còn được sử dụng cho ghi nhận sau
ghi nhận ban đầu, tuy nhiên phạm vi sử dụng hẹp hơn so với chuẩn mực quốc tế.
Trong chuẩn mực quốc tế, giá trị hợp lý còn được sử dụng cho ghi nhận sau ghi
nhận ban đầu cho các khoản mục dài hạn.

1.2.5. Những tranh luận về giá trị hợp lý

Mặc dù giá trị hợp lý được công nhận và áp dụng ở nhiều nước, ngay cả trong
các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh nó.

Những người ủng hộ giá trị hợp lý thì cho rằng: giá trị hợp lý là một giá thích
hợp vì nó đánh giá thường xuyên những ảnh hưởng của sự vận động của thị trường
cho tài sản và nợ phải trả của công ty. Giá trị hợp lý thì thích hợp hơn cho nhà đầu
tư: “không ai quan tâm đến giá trị hợp lý của máy móc cũ, nhưng phần lớn họ muốn
biết giá trị hợp lý của một công ty”5. Họ cho rằng giá gốc chỉ thích hợp và tin cậy
ngay tại ngày chúng được ghi nhận, giá gốc thì nhấn mạnh tính đáng tin cậy, còn
giá trị hợp lý nhấn mạnh tính thích hợp.

Những người chưa ủng hộ giá trị hợp lý thì cho rằng: liệu giá trị hợp lý có thể
được xác định đáng tin cậy. Giá trị hợp lý là một ước tính dựa vào giá thị trường,
trong trường hợp không có giá thị trường thì nó được ước tính dựa vào những giả
định chủ quan của chủ doanh nghiệp, của những người đinh giá, vậy nó có đáng tin
cậy? Giá trị hợp lý có bị lạm dụng trong những trường hợp không có giá thị trường?
Tiếp theo nữa, giá trị hợp lý phản ánh sự thay đổi của thị trường làm cho báo cáo tài
chính dễ thay đổi, liệu nó có làm các nhà đầu tư lo lắng?

5
David Tweedie, chủ tịch của IASB ở Luân Đôn, Phát biểu trên tạp chí CFO - A Faiwell to History ngày
1/2/2003
21

Tuy nhiên những tranh luận này được một số nhà nghiên cứu6 đưa ra những
kết luận sau:

- Xét về mặt lý thuyết thì giá trị hợp lý rất thích hợp, vì nó phản ánh những
thay đổi của thị trường. Vấn đề được tranh luận nhiều nhất đó là tính đáng tin cậy
và cách xác định giá trị hợp lý. FASB và IASB đang cố gắng nỗ lực để ban hành
các chuẩn mực để lý thuyết nhanh chóng bắt kịp thực tế đang ứng dụng rộng rãi.

- Ước tính giá trị hợp lý chứa đựng những giả định, tuy nhiên những giả định
này được yêu cầu công bố, chính vì vậy mà khả năng lạm dụng giá trị hợp lý cũng
sẽ bị hạn chế.

- Ngày nay với sự phát triển của hệ thống thông tin và sự phát triển của các thị
trường chuyên ngành thì giá trị hợp lý có thể được xác định và kiểm chứng dễ dàng,
và những giả định ngày càng mang tính khách quan hơn nên tính đáng tin cậy của
giá trị hợp lý tăng lên rất nhiều. Mặt khác, các mô hình định giá cho những trường
hợp không có giá thị trường cũng đang phát triển và hoàn thiện tạo điều kiện cho
giá trị hợp lý mở rộng phạm vi sử dụng của mình.

6
Phát biểu trên tạp chí CFO – A fairwell to history ngày 1/2/2003 của các nhà nghiên cứu:
Paul Pacter - Chủ tịch của Deloitte ở Hồng Kông
Pearl Tân - giảng viên kế toán trường Nanyang – Singapore
Rebecca Mc Enally - Chủ tịch của AIMR (Association for Investment Management and Research)
Robert H. Herz - Kế toán ở Mỹ
22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. EURO – TAP VIET (2000), Giới thiệu Luật kế toán một số nước, Nhà xuất
bản tài chính.

2. EURO – TAP VIET (2000), Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế, Nhà xuất
bản tài chính.

3. Khoa Kế toán - Kiểm toán trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Bài
giảng môn Lý thuyết kế toán (Hệ cao học).

4. Luật kế toán (2003), ban hành ngày 17/6/2003

5. Ngân hàng thế giới (2002), Các chuẩn mực kế toán quốc tế, Nguyễn Thu Hà
dịch, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

6. Pháp lệnh kế toán thống kê (1988), ban hành theo lệnh của Hội đồng Bộ
trưởng vào ngày 20/5/1998

7. Trần Thị Giang Tân (1999), Vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế để
hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế

8. Nguyễn Việt - Võ Văn Nhị (1997), Kế toán đại cương, Nhà xuất bản tài
chính.

9. Bộ tài chính, các quyết định, thông tư số:

- Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001

- Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002

- Quyết định số 234/2004/QĐ-BTC ngày 30/12/2003

- Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15/2/2005

- Thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002

- Thông tư số 105/2003/TT-BTC ngày 4/11/2003

- Thông tư số 23/2005/TT-BTC ngày 30/3/2005

- Quyết định số 38/2000/QĐ-BTC ngày 13/3/2003


23

- Quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995

- Quyết định số 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996

- Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999

- Quyết định số 24/2005/QĐ-BTC ngày 18/4/2005

- Quyết định số 77/2005/QĐ-BTC ngày 1/11/2005

- Thông tư số 107/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001

- Thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002

- Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2005

Tài liệu tiếng Anh

1. CFO magazine (2/2003), A Fairwell to History, Questions of Value

2. Eldon S. Hendriksen (1990), Accounting Theory, Fourth Edition, Toppan


Company,

3. FASB (2004), Fair Value Measurements, Exposure draft.

4. IASB (2004), International Financial Reporting Standards, including IAS


and Interpretations as at 31 March 2004,

5. International Standard on Auditing 545 (2003), Auditting fair value


mesurements and disclouses.

6. PricewaterhouseCoopers (2000), International Accounting Standards


Similarities and Differences.

7. Stevens S.S (1946), Theory of scales of measurement,

8. Wiley (1998), US GAAP 98,

You might also like