Professional Documents
Culture Documents
Ánh Trăng
Ánh Trăng
Trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy của nền văn học Việt
Nam. Đến với trăng,khó ai có thể kìm lòng trước vẻ đẹp của nó. Đến với ''Ánh Trăng'' của Nguyễn Duy,
ta lại bắt gặp một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Trăng ở đây là quá khứ thuỷ chung, bất diệt; là người bạn
nghĩa tình, tri kỉ; là bài học thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc.
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Thế hệ này
từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao hi sinh lớn lao của đồng đội nói
riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm
1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, là để giãi bày những cảm xúc và suy tư của mình
trước thực tế có người còn ghi nhớ những mất mát hi sinh năm xưa, có người lại lãng quên quá khứ.
Bao trùm cả bài thơ là một nỗi day dứt, ăn năn cứ kéo dài triền miên khôn nguôi. Ở ngay cái tên bài thơ
cũng đủ để ta thấy được chủ đề của cả bài thơ. Tại sao Nguyễn Duy không đặt nhan đề là ''vầng trăng'',
''ông trăng'' mà lại là '' ánh trăng''? Bởi lẽ, khác với ''vầng trăng''và ''ông trăng'' là những hình ảnh cụ thể
thì ''ánh trăng'' là những tia sáng. Tia sáng ấy đã soi rọi vào góc tối của con người, đánh thức lương tâm
của con người, làm sáng bừng lên cả một quá khứ đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương.
Từ lâu, trăng và người đã trở thành những đôi bạn tri kỉ, thân thiết:''Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng
ngần'' thì đến ''Ánh trăng'' quy luật ấy vẫn không hề thay đổi,trăng và người, người và trăng, họ vẫn vậy,
vẫn gắn bó không rời. Trong khoảng thời gian hồi nhỏ, trăng gắn liền với nhân vật trữ tình trong những
mối quan hệ hồn nhiên, chan hòa với đồng, với sông, với bể. Như vậy, trong Ánh trăng, thời gian này
hàm chứa và gợi mở những hình ảnh và xúc cảm trong trẻo, tràn đầy chất thơ với thiên nhiên của nhân vật
trữ tình. Hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỉ niệm, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng
trong quá khứ:
Thế rồi, chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được cải thiện. Và như một
lẽ thường tình, hoàn cảnh sống thay đổi, lòng người cũng dễ dàng đổi thay. Khổ thơ tiếp theo đã đưa
người đọc trở về hiện tại với những biến đổi trong mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình với vầng trăng xưa
kia:
Thế nhưng ''sông có khúc, người có lúc'' đâu phải cuộc đời con người lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió.
Phải có những biến động, những bất ngờ đó mới chính là cuộc sống. Và ở đây cũng vậy, ta sẽ bắt gặp một
tình huống bất ngờ xảy ra làm thay đổi cảm xúc của nhân vật trữ tình:
Trăng xưa bỗng chốc quay trở lại với nhân vật trữ tình tạo cho anh một cảm xúc mãnh liệt như được trở
về quá khứ, bao kỉ niệm xưa bỗng chốc ùa về:
''Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông là rừng''
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng, có phần thành kính: ''ngửa mặt lên nhìn mặt''.
Nếu cái đối diện của Hồ Chí Minh là sự say đắm trước vẻ đẹp của đêm trăng, là một khát khao mãnh liệt
được chạm tới trăng, được hoà mình vào trăng,vào thiên nhiên:
Chỉ qua bài '' ánh trăng'' ta cũng đủ để thấy được tài hoa trong nghệ thuật viết thơ của Nguyễn Duy. Điều
đặc biệt, cả bài thơ ''ánh trăng'' chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng dòng hồi tưởng của
Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi. Hơn nữa, bài thơ còn gây xúc
động bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, thủ thỉ, lời nhắc nhở chân tình, giọng thơ trầm tĩnh, sâu
lắng, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua đó, Nguyễn Duy cũng muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về lẽ
sống ngàn đời của dân tộc'' ân tình, thuỷ chung''; ''uống nước nhớ nguồn''; hãy sống trước sau như một,
đừng thay lòng đổi dạ và quên đi cội nguồn của mình.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, "Ánh trăng" của Nguyễn Duy như một lời
tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước
bình dị, hiền hậu. Điều đặc biệt, cả bài thơ ''Ánh trăng'' chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng
dòng hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi mà lại
đầy sâu lắng. Qua đó, Nguyễn Duy cũng muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về thái độ sống "ân
tình, thuỷ chung'', ''uống nước nhớ nguồn'' của không chỉ riêng những người lính thời kỳ kháng chiến
chống Mĩ cứu nước mà còn của tất cả mọi người, mọi thời - trong đó có chúng ta.
Bài thơ “Ánh trăng” sử dụng thể thơ năm chữ, chủ yếu là tự sự. Nhưng khi đến cao trào thì trữ tình, dù
dung lượng ít, vẫn làm bật lên những cảm xúc mới mẻ và tư tưởng sâu sắc. Ngôn từ giản dị nhưng được
sử dụng đắc địa, có giá trị chuyển tải thành công tình cảm và triết luận của nhà thơ. Một đề tài cũ, những
không gian tưởng chừng như đã quá quen, nhưng thi pháp mới với cái nhìn, quan niệm mới của Nguyễn
Duy về ánh trăng thể hiện trong những điểm nhìn độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp riêng, rất riêng của “Ánh
trăng”.
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG:
“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm nổi bật trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và
“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm tiêu biểu nhất trong truyền kì mạn lục. Truyện đã thể
hiện được những giá trị sâu sắc mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật Vũ Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nội dung
chính của tác phẩm kể về cuộc đời của Vũ Nương - người con gái quê ở Nam Xương. Nàng không chỉ
xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến,
xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là một người hay ghen, nàng
luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời
ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng
giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người
lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Truyện được bắt đầu bằng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương …” Tên tuổi, quê quán của
nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng như thế. Nhân vật chính trong tác phẩm Vũ Nương - là người
duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên, danh tính. Nhưng nàng lại chỉ là một người đàn bà bình
thường, thuộc giới nghèo hèn “vốn con kẻ khó”. Nhưng ở nàng lại hội tụ đầy đủ những nét đẹp về công -
dung - ngôn - hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh một người
phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên
ngoài mà còn mang những nét đẹp bên trong tâm hồn. Đó là một người vợ hết mực hiểu chuyện, lễ nghĩa.
Biết chồng có tính hay nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi thân mà cố gắng
sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách
mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc
áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Người vợ nào
mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng
bình yên trở về. Đó chính là một khát khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn
có được hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ nhưng lại gánh vác trách
nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ
chồng ốm đau vì nhớ con trai, nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót,
phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con dâu nào được như
Vũ Nương. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ.
Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây
cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Trương Sinh nghe
tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành:
“Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi
ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến Trương Sinh nghĩ rằng
vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân
nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch
của mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc mệnh. Chỉ vì lời ngây thơ của
con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải tìm đến cái chết.
Ông trời đã phụ lòng mong mỏi của một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Công lao nuôi con dưỡng mẹ,
làm tròn bổn phận con dâu đều đổ xuống sông xuống biển, tới mức “không còn có thể lại lên núi Vọng
Phu nữa”. Đáng buồn hơn cả là mọi oan ức lại bắt nguồn từ hình ảnh cái bóng. Vì nhớ chồng, con lại xa
cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản. Và lòng nàng cũng xem nó là chồng.
Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là sự thật. Và cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng
đến mẹ Đản đi cũng đi Mẹ Đản ngồi cũng ngồi. Trương Sinh nghe lời con thơ, cho rằng vợ mình thất tiết.
Bi kịch từ đó nối tiếp nhau kéo đến. Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Cuộc đời của Vũ Nương, cũng là đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội xưa, vốn không được lựa
chọn tình yêu, hôn nhân. Mà nàng phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương
Sinh cũng gặp nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh cũng góp
phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến nàng phải tìm đến
cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất.
Góp phần làm nên thành công của tác phẩm không chỉ có nội dung sâu sắc. Mà đó còn là nghệ thuật xây
dựng nhân vật tài tình, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, sáng tạo được chi tiết quan trọng thúc
đẩy toàn bộ câu chuyện.
Có thể thấy, với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” chính là tác phẩm nổi bật nhất trong
“Truyền kì mạn lục” của nhà văn Nguyễn Dữ với nhân vật Vũ Nương - tiêu biểu cho người phụ nữ trong
xã hội xưa.
Ngợi ca vẻ đẹp của "người con gái Nam Xương", Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm hứng ngợi
ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương của Nguyễn Dữ ta còn có thể
kể đến chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ của Đặng Trần Côn và
Đoàn Thị Điểm,...
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi
quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn.
Chính cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm đã giúp "Chuyện người con gái Nam Xương" của ông đi suốt
những năm tháng lịch sử thăng trầm của dân tộc.
CHỊ EM THÚY KIỀU:
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, là danh nhân văn hóa thế giới. "Truyện
Kiều" là kiệt tác của Nguyễn Du và là quốc hồn quốc túy của Việt Nam. Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nằm
ở phần đầu tác phẩm đã giới thiệu và miêu tả vẻ đẹp của hai người con gái.
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong “Đoạn trường tân thanh” tức
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã
vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân
dung quý phái của Thuý Vân:
Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông
không muốn là người thợ vẽ vụng về:
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại
đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc
lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc
đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho
thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng
những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các
biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH:
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi,
tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở
lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh
vật.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm
tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật
tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là
tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây
dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong
nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi
nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.
Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên
lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh
cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong
tâm hồn nàng.
Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ
đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu
với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều
băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính
mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương.
Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.
Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa,
bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp
ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng
hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u
uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm
cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì
thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.