Professional Documents
Culture Documents
Ánh Trăng
Ánh Trăng
Bài làm
Không biết từ bao giờ, thiên nhiên luôn là niềm cảm hứng sáng tác vô tận
cho các nhà văn, nhà thơ, và ánh trăng là một trong số đó. Xưa, Lý Bạch khi đối
diện với vầng trăng đã giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy - một
nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng góp
vào mảng thơ thiên nhiên một “Ánh trăng”. Đối diện với vầng trăng, người lính đã
giật mình thức tỉnh về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm của
một thời đã qua, một thời kháng chiến oanh liệt hào hùng, thời kì loạn lạc, bom rơi
đạn nổ. Nhưng khi nước nhà thống nhất, được sống trong thời bình, có mấy ai nhớ
đến những gian lao nghĩa tình của một thời đã qua. Chính vì vậy, Nguyễn Duy đã
cho ra đời tác phẩm “ Ánh trăng” nhằm để nhắc nhở ta về thái độ sống “ Uống
nước nhớ nguồn”, thuỷ chung ân tình với quá khứ.
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, năm sinh 1948. Quê ở Đông vệ,
Thanh Hoá. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc và trở thành một trong những gương mặt tiêu
biểu. Ông làm thơ từ rất sớm, từ khi học cấp 3. Với những vầng thơ vô cùng xuất
sắc, năm 1973 ông đạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo văn nghệ. Năm 2007,
Nguyễn Duy được nhà nước trao tặng giải thưởng Nhà nước danh giá về Văn học
và nghệ thuật. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: “Đãi cát tìm vàng”, “Bụi”,
“Mẹ và em”,… thơ Nguyễn Duy sở hữu cái ngang tàng nhưng vẫn giữ được sự
trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm, đậm tính triết lý, hướng về chiều sâu nội tâm hơn.
Trong những sáng tác của mình, ông luôn thể hiện những trăn trở, day dứt và suy
tư thông qua những hình ảnh sinh động, đậm tính ẩn dụ.
“Ánh trăng” – bài thơ hay như một câu chuyện riêng, từ câu chuyện ấy cất
lên lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính
gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ được viết vào năm
1978, 3 năm sau ngày Miền Nam được giải phóng hoàn toàn giải phóng. Bài thơ
được viết tại Thành phố Hồ Chí Minh và in trong tập “Ánh trăng”.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa hiền hậu, bình dị, gắn liền
với kỉ niệm một thời đã qua, một thời nhà thơ hằng gắn bó:
Ánh trăng gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến
tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu.
Những năm tháng gian lao nơi chiến trường, “trăng” thành người bạn tri
kỉ,gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên trên cuộc chiến ác liệt của người
lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng đường hành quân.
Vầng trăng ấy cũng là “quầng lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Trăng thành người bạn chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ và những mất mát hi
sinh, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính.“Trăng” khi đó là ánh
sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao
của cuộc kháng chiến - vầng trăng tri kỉ. Nhân vật trữ tình gắn bó với trăng trong
những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thuỷ chung, tình nghĩa.
“Trần trụi” và “hồn nhiên” là một vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, vô tư đến lạ
thường, không cầu kì, không trang sức. Hình ảnh so sánh “trần trụi”, “hồn nhiên”
đã tô đậm thêm sức quyến rũ đến lạ thường của trăng, bọc lộ rõ lối sống đơn giản,
mộc mạc, không cầu kì của các anh chiến sĩ nơi chiến trường. Qua đó cũng thể
hiện rõ được sự gắn bỏ tha thiết với vầng “trăng” , mọi vui sướng, gian khổ, vất vả
đều gắn bó với “trăng”. Chính vẻ đẹp ấy đã khiến nhân vật trữ tình phải thốt lên
"ngỡ không bao giờ quên / cái vầng trăng tình nghĩa". Câu thơ như một lời thề
thiêng liêng giữa rừng sâu nước độc. Hai tiếng nghĩa tình vang lên khiến cho ranh
giới giữa con người với trăng tưởng chừng như mãi bền vững.
Thế nhưng từ hồi về thành phố, tình cảm của con người đã thay đổi. Vầng
trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành người dưng, người khách qua đường xa lạ
không quen biết:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt,
điều kiện sống cách biệt: Từ hồi về thành phố, người lính xưa bắt đầu quen sống
với những tiện nghi hiện đại như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của điện gương đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm
hồn con người. Trăng lướt nhanh như cuộc sống hiện đại gấp gáp, hối hả không có
điều kiện để con người nhớ về quá khứ. Và anh lính đã quên đi chính ánh trăng đã
đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên đi tình cảm chân thành, quá khứ cao đẹp
nhưng đầy tình người mà xem trăng như “người dưng qua đường”.Câu thơ dưng
dưng - lạnh lùng - nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn
thường xảy ra trong cuộc sống. Có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống
tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng?Bởi thế mà ca dao mới lên tiếng hỏi:
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của
Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của
cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý
nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “ uống nước nhớ nguồn”, ân
nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Cùng với thể thơ 5 chữ và bố cục rõ ràng, mạch
lạc, giọng điệu tâm tình tự nhiên như lời tâm sự của nhân vật trữ tình.Bài thơ như
mang đậm chất trữ tình và tự sự. Qua đó gợi ảnh thơ vừa cụ thể, vừa sinh động vừa
giàu tính biểu cảm.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng
gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị,
hiền hậu.Thể thơ 5 chữ, phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình và giọng
thơ mang tính tự bạch, chân thành sâu sắc gợi hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng”
mang nhiều tầng ý nghĩa.
Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy nói về sự vô
tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua.
Thơ của Nguyễn Duy không hề khai thác cái đẹp của trăng, nhưng ánh trăng trong
thơ ông vẫn mãi làm day dứt người đọc - sự day dứt về những điều được và mất,
nên và không, khi sống trong cuộc đời. Vẻ đẹp ấy mới chính là vẻ đẹp của văn
chương cách mạng vì thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà
còn “dạy” ta cách học làm người. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người
đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh
trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để
tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.