Professional Documents
Culture Documents
4.tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong điều trị ngoại trú tại việt nam
4.tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong điều trị ngoại trú tại việt nam
ChủC đề:
Đánh giá tình trạng sử dụng kháng sinh tại
Việt Nam trong điều trị ngoại trú.
Nhóm thực hiện: Nhóm 2 – Lớp D116A - K9
CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 2
1 1700878 Nguyễn Thị Hậu
2 1700931 Đoàn Thạch Hiền
3 1700905 Hoàng Thu Hiền
4 1700864 Nguyễn Thi Thu Hiền
5 1700974 Phạm Trung Hiếu
6 1700925 Nguyễn Thị Huế
7 1700966 Phạm Bùi Lan Hương
8 1700904 Phạm Văn Huy
9 1700910 Vũ Ngọc Huy
10 1700940 Trần Thị Thu Huyền
11 1700977 Vũ Thị Ngọc Huyền
12 1700963 Nguyễn Đức Khiêm
13 1700923 Phạm Minh Khôi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây tình hình vi khuẩn kháng kháng sinh đối với các kháng sinh hiện
có ngày càng gia tăng và trở thành mối quan ngại của toàn cầu. Việc kê đơn điều trị cho
bệnh nhân được quan tâm rất nhiều ở các cơ sở khám chữa bệnh, sử dụng kháng sinh không
hợp lý dẫn đến không có hiệu quả trong điều trị, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người
bệnh, làm tăng đáng kể chi phí cho người bệnh, mà còn là nguyên nhân làm gia tăng kháng
kháng sinh của vi khuẩn đối với các kháng sinh hiện có.
MỤC TIÊU
Khảo sát tình hình kê đơn kháng sinh điều
trị ngoại trú, phân tích tình hình phù hợp
giữa kháng sinh được chỉ định trong đơn
điều trị ngoại trú, đánh giá các chỉ số kê
đơn kháng sinh cho bệnh nhân điều trị
ngoại trú tại 3 bệnh viện trên cả nước đại
diện cho 3 miền Bắc, Trung, Nam từ đó có
thể đánh giá tổng quát tình trạng sử dụng
kháng sinh trong điều trị ngoại trú ở Việt
Nam.
Đại diện miền Bắc là bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), đại diện miền Trung là bệnh viện Đa
khoa huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), đại diện miền Nam là bệnh viện Chợ Rẫy (TP. Hồ Chí
Minh). Từ đó đánh giá khái quát chung về tình trạng sử dụng kháng sinh trong điều trị
ngoại trú tại Việt Nam.
Sử dụng kháng sinh chưa hợp lý
Tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh
trong kê đơn điều trị ngoại trú hiện đang là
vấn nạn không chỉ riêng nước ta mà còn phổ
biến ở nhiều nước trên thế giới.
Một số nghiên cứu cho thấy lượng kháng
sinh sử dụng ở nước ta chiếm tới 40% giá trị
thuốc tiêu thụ, trong khi chỉ số này trên thế
giới theo thống kê chỉ ở mức 10%.
Theo nghiên cứu, 248 trường hợp (64,6%) chỉ định sử dụng kháng sinh ngoại trú chưa
hợp lý. Trong số các trường hợp kê đơn chưa hợp lý, có 09 trường hợp (2,3%) không có
bằng chứng về lâm sàng cũng như cận lâm sàng để làm căn cứ chỉ định kháng sinh. Dạng
chỉ định kháng sinh chưa hợp lý chiếm tỷ lệ cao nhất là sai về thời gian sử dụng kháng
sinh (32,6%), kế đến là sai liều (18,5%), tiếp theo là sai loại kháng sinh (11,4%).
Tại bệnh viện Bạch Mai, kết quả Số đơn sử Số đơn Tỷ lệ
STT Khoa dụng kháng nghiên (%)
nghiên cứu về tỷ lệ kê đơn kháng sinh cứu
sinh sử dụng cho điều trị ngoại trú 1 Toàn bệnh viện 23,249 80,175 29.00
của một số khoa lâm sàng thuộc 2 Khám bệnh theo yêu 5,439 20,144 27.00
Bệnh viện Bạch Mai thông qua cầu
3 Khám bệnh 7,415 28,521 26.00
nghiên cứu 80.175 đơn thuốc ngoại 4 Mắt 482 720 66.94
trú được trình bày ở bảng 2. 5 Ngoại 629 969 64.91
6 Da liễu 648 1,248 51.92
Tỷ lệ đơn thuốc kê kháng sinh 7 Răng-Hàm-Mặt 334 360 92.78
cho điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 8 Tai-Mũi-Họng 3,149 4,632 67.98
9 Tiêu hóa 332 3,024 10.98
Bạch Mai là 29%. Trong đó, một 10 Dị ứng 399 2,352 16.96
số khoa có tỷ lệ kê đơn kháng sinh 11 Hô hấp 528 1,320 40.00
12 Sản 665 864 76.97
cho bệnh nhân điều trị ngoại trú 13 Thận tiết niệu 594 1,850 32.11
khá cao 14 Chống độc 47 144 32.64
15 Các khoa khác 2588 14027 18,45
Bảng 2: Tỷ lệ kê đơn kháng sinh cho điều trị ngoại
trú của một số khoa lâm sàng (năm 2013)
Về sử dụng kháng sinh: Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy: Tỷ lệ đơn thuốc kê sử
dụng kháng sinh cho điều trị ngoại trú của toàn bệnh viện là 29%, Tỷ lệ này tuy có thấp
hơn so với kết quả nghiên cứu về kê đơn điều trị nội trú (43%) và đã thấp hơn kết quả
nghiên cứu năm 2011 (32,3%) nhưng vẫn là con số tương đối cao so với giới hạn báo động
của WHO. Đặc biệt, một số khoa có tỷ lệ kê đơn kháng sinh cho bệnh nhân điều trị ngoại
trú khá cao: Răng-Hàm-Mặt (92,78%), Khoa Sản (76,97%), Khoa Tai-Mũi-Họng (67,98%),
Khoa mắt (66,94%). Khoa Da liễu (51,92%), Khoa Hô hấp (40%)... Thực tế này có lẽ chưa
hợp lý bởi lẽ năm 2008, WHO vẫn khuyến cáo về thực trạng kê đơn kháng sinh đáng lo
ngại trên toàn cầu: Hiện có khoảng 30-60% bệnh nhân tại các cơ sở y tế đang được kê đơn
kháng sinh và WHO nhận định tỷ lệ này cao gấp đôi so với nhu cầu lâm sàng; Khoảng 60-
90% bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh không phù hợp. WHO cũng cho rằng ngay tại
Canada và Australia vẫn còn tới 50-90% bệnh nhân được kê đơn kháng sinh không phù
hợp.
Tại bệnh viện Hương Sơn, liều của 16 loại - Trong các đơn thuốc đều không ghi
kháng sinh trong 483 lượt được kê so sánh với rõ số đo cân nặng thể trọng của bệnh
liều khuyến cáo. Kết quả thống kê sự phù hợp nhân nên việc đánh giá tỷ lệ thuốc kê
của liều dùng kê theo liều khuyến cáo được liệt đúng liều được đánh giá trên tỷ lệ
kê trong bảng sau: thuốc được kê đúng theo liều khuyến
Chỉ tiêu Số lượt
Tỷ lệ cáo.
(%)
Thuốc KS được kê theo liều
449 92,96 - Kết quả chỉ rõ: có tới 92,96% thuốc
khuyến cáo
được kê đơn phù hợp với liều
Thuốc KS được kê không theo liều
khuyến cáo
34 7,04 khuyến cáo theo hướng dẫn sử dụng
và chỉ có 7,04% lượt kê đơn không
Tổng cộng 483 100,00
phù hợp theo liều khuyến cáo.
20.00
44.98 Beta - lactam Quinolon
Aminozid Imidazol
7.02
3.00
Macrolid KS khác
14.01
Nhận xét: Các β-lactam là nhóm kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất (44,98%), tiếp
theo là nhóm macrolid (20%) và nhóm quinolon (14,01%)
c. Tại bệnh viện Hương Sơn
Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ sử dụng các nhóm kháng sinh được trình bày cụ thể ở bảng sau:
Nhóm aminosid
1%
sử dụng trong điều trị phân
Aminoglycosid
4%
chủ yếu ra thành 06 nhóm,
Macrolid
nhóm β-lactam bao gồm
Quinolon penicillin và nhóm
Imidazol cephalosporin. Trong đó,
Khác
β-lactam là nhóm kháng
76%
sinh được sử dụng phổ
biến nhất (75,76%)
- Trong nhóm β-lactam thì các cephalosporin được sử dụng nhiều nhất 43,06% trong
đó đặc biệt là cephalosporin thế hệ 3 (cụ thể ở đây là Cefixim 22,78%)
- Việc kết hợp giữa β-lactam và các chất ức chế β-lactam không được sử dụng phổ
biến 0,41%
2. Phối hợp kháng sinh trong đơn thuốc cho bệnh nhân ngoại trú
a. Tại bệnh viện Chợ Rẫy
- Trong mẫu khảo sát, có 96 bệnh án (chiếm 25%) có đơn thuốc phối hợp kháng sinh,
trong đó phối hợp 2 kháng sinh là 83 trường hợp và phối hợp 03 kháng sinh là 13 trường
hợp.
- Trong số 83 trường hợp phối hợp 02 kháng sinh thì kiểu phối hợp penicillin +
macrolid (clarithromycin) chiếm 30,1% (25 trường hợp), kế đến là kiểu phối hợp
penicillin + quinolon là 26,5% với 22 trường hợp, tiếp theo là kiểu phối hợp penicillin +
lincosamid (14,5%) với 12 trường hợp. Ngoài ra các kiểu phối hợp khác như lincosamid
+ cephalosporin, quinolon + metronidazol, quinolon + linezolid cũng có gặp nhưng với
tỷ lệ thấp.
- Với kiểu phối hợp 03 kháng sinh thì chủ yếu là kết hợp penicillin + macrolid +
metronidazole với 10/13 trường hợp, đây chính là kết hợp chuẩn để điều trị nhiễm H.
pylori.
b. Tại bệnh viện Bạch Mai
Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ sử dụng kết hợp kháng sinh trong đơn thuốc được trình bày ở bảng
8 sau đây: Bảng 8. Tỷ lệ sử dụng kết hợp kháng sinh trong đơn thuốc
44 Sử
Sử dụng
dụng kết
kết hợp
hợp 3
3 KS
KS 500
500 5.80
5.80 Tổng
Tổng số
số đơn
đơn kết
kết hợp
hợp KS
KS
Clorpheniramin –
10 2 Tăng tác dụng an thần gây ngủ
Diazepam
Chuyển hóa Codein bị ức chế (nồng độ codein trong
11 Codein – Cimetidin 5
huyết tương tăng)
12 Doxycyclin – Magnesi hydroxyd 1 Giảm hấp thu
Doxycyclin
13 Ibuprofen - Nifedipin 4 Đối kháng với tác
dụng giảm huyết áp
Tổng số 61
Nhận xét:
Kết quả tra cứu tương tác thuốc trong mẫu nghiên cứu là 15,35%. Tỷ lệ này ở mức
trung bình, tuy nhiên về phía bệnh viện cũng cần có những biện pháp cần thiết để
làm giảm tối thiểu tình trạng tương tác trên
Giải pháp
- Xây dựng các hướng dẫn quốc gia về kháng sinh dựa trên bằng chứng khoa học như
một phần nội dung của hướng dẫn điều trị chuẩn (STGs) thường xuyên cập nhật và
điều chỉnh theo tình hình thực tế tại cơ sở về dịch tễ học và thực trạng kháng kháng
sinh.
- Thực hiện công tác kiểm tra các bác sĩ/khoa phòng để đánh giá việc tuân thủ các hướng
dẫn và thực hành đúng về sử dụng kháng sinh. Để sử dụng kháng sinh hợp lý, kháng
sinh được sử dụng cần đúng loại, đúng liều, đúng thời gian cũng như tránh được các
tương tác ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc.
- Xây dựng bài thông tin cơ bản quy định sử dụng một số nhóm kháng sinh tại bệnh
viện.
- Xây dựng tiêu chí về sử dụng kháng sinh.
- Xây dựng danh mục kháng sinh cần hội chẩn khi kê đơn.
- Xây dựng danh mục kháng sinh cần phê duyệt trước khi sử dụng; phiếu yêu cầu kê đơn
và quy trình phê duyệt đối với các kháng sinh này.
- Xây dựng phòng vi sinh có đủ chức năng làm kháng sinh đồ để kiểm soát chặt chẽ việc
sử dụng kháng sinh và hạn chế tình trạng kháng kháng sinh.
- Giám sát sử dụng kháng sinh: Giám sát sử dụng kháng sinh cần được thực hiện định
kỳ, liên tục
• Trước khi triển khai chương trình QLSDKS: giúp cung cấp các thông tin quan trọng về
mô hình kê đơn sử dụng kháng sinh trong bệnh viện cũng như trên các nhóm bệnh
nhân/nhóm khoa phòng đặc thù khác nhau. Kết quả giám sát sẽ giúp nhận diện được
các nguy cơ tiềm tàng của việc sử dụng kháng sinh không hợp lý, từ đó định hướng các
hoạt động, chiến lược của chương trình QLSDKS phù hợp.
• Định kỳ trong quá trình triển khai chương trình QLSDKS (thường mỗi 6 tháng một lần
hoặc mỗi 1 năm 1 lần): giúp theo dõi việc sử dụng kháng sinh tại bệnh viện và hiệu quả
của các chiến lược hoạt động trong chương trình QLSDKS.
- Tổ chức đào tạo, tập huấn liên tục cho bác sỹ, dược sỹ, điều dưỡng về chương trình
quản lý sử dụng kháng sinh bao gồm việc tuân thủ các hướng dẫn, quy định, cách thức
làm việc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý sử dụng kháng sinh tại bệnh viện.
⁃ Triển khai các can thiệp tại Khoa lâm sàng
Đây là các can thiệp trực tiếp trên bệnh nhân tại Khoa lâm sàng, thực hiện bởi nhóm chuyên
trách của Ban QLSDKS. Các can thiệp có thể liên quan đến tất cả các khía cạnh của việc sử
dụng kháng sinh. Một số can thiệp ưu tiên gợi ý phía dưới đây:
• Can thiệp 1: Tối ưu chế độ liều
Liều dùng của kháng sinh cần được tối ưu hóa dựa trên đặc điểm cá thể bệnh nhân, vị trí
nhiễm khuẩn, đặc tính PK/PD kháng sinh, vi sinh vật và tính nhạy cảm của vi sinh vật với
kháng sinh; kết quả giám sát nồng độ thuốc trong máu (với một số thuốc).
• Can thiệp 2: Can thiệp xuống thang kháng sinh
Liệu pháp xuống thang bao gồm: (1) Xem xét điều chỉnh phác đồ kháng sinh theo kinh
nghiệm thành phác đồ điều trị hướng theo đích trên vi sinh vật gây bệnh đã được xác định
thông qua kết quả phân lập, định danh và kháng sinh đồ; (2) Ngưng phác đồ kháng sinh kinh
nghiệm khi không có đủ bằng chứng nhiễm khuẩn và (3) Ngưng các kháng sinh sử dụng
đồng thời trong phác đồ kháng sinh khi không còn cần thiết.
• Can thiệp 3: Can thiệp chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống
KẾT LUẬN
Để đảm bảo kháng sinh cho bệnh nhân điều
trị ngoại trú được sử dụng hiệu quả, an toàn,
kinh tế và đặc biệt không “tập dượt” cho vi
khuẩn “rèn luyện” khả năng kháng thuốc thì
cần thiết phải điều chỉnh những tồn tại như
đã nêu. Do vậy, trong quá trình điều trị, cần
thường xuyên cập nhật tình hình dịch tễ và
độ nhạy cảm của vi khuẩn tại địa phương để
lựa chọn được kháng sinh phù hợp, đảm bảo
sức khỏe cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phân tích thực trạng kê đơn thuốc kháng sinh trong điều trị ngoại trú tại bệnh viện
đa khoa huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh năm 2015 (Trần Thị Anh).
2. Khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh trong điều trị ngoại trú tại bệnh viện Bạch
Mai năm 2013 (Trần Nhân Thắng).
3. Khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh trong điều trị ngoại trú tại bệnh viện Chợ
Rẫy năm 2017 (Nguyễn Quốc Bình, Châu Thị Ánh Minh).