Nghệ thuật trang trí kiến trúc TK XIX có rất nhiều
hình mẫu, nhất là ở Huế. Nổi bật nhất là các hình mẫu hoa, lá, trái cây, được cách điệu thành những hoa văn trang trí phong phú. HOA • Các loại hoa: hoa đào, hoa mai, hoa bèo, hoa chanh, hoa thị, hoa quỳ. • Các motif biến hóa: mai/ đào hóa phượng; trúc/tùng hóa rồng; lan hóa rồng; cúc hóa kì lân, lá sen hóa rùa. • Một số đề tài khác: tùng lộc (cây thông và con hươu), tùng hạc (cây thông và chim hạc) -> trường sinh. Tùng hóa rồng Mai hóa rồng Mai hóa rồng Cành lá hóa đầu rồng nhìn từ chính diện Cành lá hóa rồng Cành lá hóa long giao Cành lá hóa long giao Trúc hóa rồng mẫu đơn hóa phượng lan hóa phượng lá sen hóa rùa TRÁI CÂY • Các loại trái cây: lê, lựu, đào, na, phật thủ, bí đỏ, bầu. • Motif “tứ hữu”: lê, lựu, đào, na. • Motif biến hóa: lê thành kì lân; đào thành rùa; phật thủ thành đầu rồng; na thành phượng. • Ý nghĩa: đào -> sống lâu lựu - bí đỏ - sen -> sinh sản, đông đúc con cái. bầu/ bầu rượu -> 1 trong “bát bửu”,thường đặt trên ngọn tháp, nóc chùa. Quả mãng cầu (đề tài “Bát quả) - Cung Diên Thọ CON VẬT • “Tứ linh” (ở cung đình, đền chùa): long, lân, quy, phụng. • Con vật khác: hạc, sư tử, dơi, cá. • Hình tượng con rồng: - Qua mỗi thời đại, rồng có những đặc điểm khác nhau nhưng đều có những điểm chung: có sừng, mắt dữ tợn, vẩy cá, bờm, râu ria, móng sắc, đuôi xoáy trôn ốc. Rồng uốn khúc 2 bên thành bậc thang hoặc trên nóc nhà. - “Lưỡng long chầu nguyệt”: hình tròn có ngọn lửa tượng trưng cho sấm sét trong cơn mưa -> cầu nguyện trời mưa. lưỡng long chầu nguyệt chạm khắc trên cột Mũi thuyền rồng bậc thềm cán thanh kiếm mõ đế trống đế thau đầu bình phong Rồng đắp sành sứ trên mái điện Thái Hòa, Đại Nội Huế Lưỡng long chầu nguyệt trên mái Bảo tàng Lịch sử (Thừa Thiên Huế) - “Lưỡng long tranh châu”: hai rồng ở tư thế tranh nhau, hình tròn không có tua lửa. - “Ngư long hí thủy”: rồng và cá chép đùa với sóng nước. => Hình tượng rồng thường đi với hình tượng sóng nước, ngọn lửa, cây lá cách điệu. Ngư long hí thủy khảm sành sứ - Lăng Khải Định • Hình tượng kì lân: - Được trang trí trên bình phong, trên lưng kì lân thường có “cổ đồ” (cuốn sách, cái quạt, thanh gươm) đặt giữa những giải buộc. - Thường được trang trí bờ nóc dưới, nhường cho rồng và phượng ngự trên bờ nóc cao nhất. • Hình tượng phượng: - Trang trí trên nóc đền thờ mẫu; trên bia, mộ, bình phong trước đền thờ công chúa, Kì lân biểu tượng cho sự nhân hậu. Thường được trang trí ở bình phong đền, chùa, mái đao, đỉnh trầm, lư hương (Ảnh trong cuốn L Art à Hué (Léopold Cadière ) lân đầu cột lân đỉnh trầm Cúc hóa lân phụng song phụng Long, Lân, Quy, Phụng trên bức bình phong trước Viện Cơ Mật, Huế (Kí họa Trần Văn Phênh) Đồ án trang trí hình chim phượng - loài vật tượng trưng cho phái nữ - ở cung Trường Sanh (Đại Nội - Kinh Thành Huế). Cung Trường Sanh là nơi dành cho hoàng thái hậu nghỉ ngơi, giải trí. Phượng chầu mặt trời ở chính điện cung Diên Thọ Phượng khảm sành sứ, trên nóc mái Cung Diên Thọ giá để thau • Hình tượng rùa - Bia dựng trên lưng rùa: chúc tụng những triển vọng bền lâu. - Rùa thường có “cổ đồ” trên lưng với những giải buộc, từ miệng rùa phun lên tia nước gọi là “thủy ba”. - Motif “lá sen hóa rùa” thường dụng trong chạm khắc, vẽ trang trí. quy rùa trên giá bia Rùa trên mái đao (Ảnh trong cuốn L Art à Hué (Léopold Cadière ) • Hình tượng dơi - Dơi là biểu tượng của hạnh phúc. - Dơi và chữ “Thọ”: hạnh phúc và sống lâu. - 5 con dơi: “ngũ phúc”, tượng trưng cho sự chúc tụng đầy đủ nhất. - Các đồ án hình dơi: lá hóa phúc, mai hóa phúc, sen hóa phúc, vân hóa phúc. Những cánh cửa chạm khắc đồ án này thường thấy trong cung điện, gia đình quyền quý. Họa tiết lá và dơi tượng trưng cho sự phúc lành (Ảnh trong cuốn sách L Art à Hué (Léopold Cadière ) • Hình tượng nghê - Đặc điểm: không có bờm, thân có bộ lông vẩy cá, khác với sư tử (bộ lông hình xoắn hoặc gợn sóng, đuôi dày). Một số trường hợp nghê có sừng, làm cho khó phân biệt với kì lân. • Hình tượng cá -Cá tượng trưng cho sự giàu có. - Đặc điểm: cá có đuôi vẩy lên trên nóc mái chùa, cung điện. - Đồ án “cá hóa long”: chỉ các nho sĩ đỗ đạt, thành danh, được vua ban chức tước. Họa tiết cá biểu tượng cho sự sung túc, dư giả, được trang trí trong cung điện ở Huế. cá hóa long rồng phun nước vào cá chép rồng phun nước vào cá chép • Trong trang trí chạm khắc, sơn nạm trên các chi tiết kiến trúc, nhiều đề tài động vật và thực vật kết hợp với nhau thành công thức: mai điểu, mai hạc, lan điệp, cúc điệp, trúc hổ, trúc yến, tùng lộc, đơn trĩ, liễu mã, kê ốc (gà và hạt thóc/cây lúa), đào ngưu, lựu thử (cây lựu và con chuột), lê dương (cây lê và con dê), tiêu tượng (cây chuối và con voi). tùng lộc • Các hồi văn chữ “vạn”, chữ “công”: dùng khá phổ biến, từ chạm khắc chân bàn, bờ nóc mái, quai đỉnh. • Các chữ “Phúc”, “Lộc”, “Thọ”, “Hỉ” - Chữ “Thọ”, chữ “Song Hỉ”: dùng làm cửa thông thoáng đặt vào tường gạch. - Chữ “Thọ” thường được đặt dưới hình dơi hóa lá, thấy nhiều ở kiến trúc Huế. Chữ “Vạn” “Thọ” Chữ “Thọ” trên tường chùa Báo Quốc (Huế) Chữ “Thọ” trên bình phong tiền án Cung Trường Sanh Bình phong hậu, Cung Trường Sanh “Song Hỷ” • Hình tượng “cuốn thư”: trên bình phong bằng gạch ở nhiều lăng tẩm Huế. • Hình tượng “nguyệt”: thường đặt giữa nét chạm vẽ mây, ngọn lửa, có rồng chầu 2 bên; trên nóc mái chùa, cung điện. Có thể thay mặt nguyệt bằng hình tượng trái bầu trên nóc chùa, tháp Phật giáo. • “Bát bửu” (tám vật qúy của tiên) - 8 vật trong “bát bửu” không có quy định cứng nhắc nên có thể là: 1. quả bầu, quạt, gươm, đàn, pho sách, ống bút, cây sáo, cây phất trần 2. đôi sáo, đàn tỳ bà, lẵng hoa, cái quạt, pho sách, cuốn thư, cái khánh, quả bầu (bầu rượu). - Cái chung của “bát bửu” là những đồ vật thường dùng mà tập quán đã gán cho chúng những ý nghĩa nhất định: cái gươm (sự chiến thắng), lẵng hoa (tuổi trẻ), bầu rượu (sự giàu có), cái khánh (hạnh phúc)... đôi sáo pho sách bầu rượu cuốn thư Cuốn thư chạm khắc trên con sơn gỗ của hệ kết cấu đỡ mái hiên