Professional Documents
Culture Documents
Những tình trạng của nhu cầu có khả năng thanh toán và những nhiệm vụ marketing
1. Nhu cầu có Thị trường ở tình trạng nhu cầu có khả năng thanh toán âm khi phần lớn
khả năng thanh thị trường không thích sản phẩm đó và thậm chí có thể chi tiền để thoát
toán âm khỏi nó. Người ta có nhu cầu có khả năng thanh toán âm về việc tiêm
chủng, nhổ răng… người chủ cảm thấy có nhu cầu thanh toán âm về
việc thuê những người đã đi tù, những người nghiện rượu. Nhiệm vụ
của marketing là phải phân tích tại sao thị trường lại không ưa sản phẩm
đó và liệu có thể thay đổi được quan niệm và thái độ của thị trường đó
bằng một chương trình marketing đặc biệt với nội dung thiết kế lại sản
phẩm, định giá thấp hơn và khuyến mãi tích cực.
2. Nhu cầu có Những người tiêu dùng mục tiêu có thể không quan tâm hay bàng quan
3. Nhu cầu có Nhiều người tiêu dùng có thể cùng có một nhu cầu bức bách mà mọi
khả năng thanh sản phẩm hiện có không thể thỏa mãn được. Ví dụ, đang có nhu cầu có
toán tiềm ẩn khả năng thanh toán tiềm ẩn lớn về thuốc lá không độc hại, khu vực
xung quanh nơi ở an toàn hơn và về những chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu
hơn. Nhiệm vụ của marketing là lượng định quy mô của thị trường tiềm
ẩn đó và phát triển những hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn được nhu cầu
này.
4. Nhu cầu có Mọi tổ chức, sớm hay muộn, cũng đều phải đương đầu với tình trạng
khả năng thanh nhu cầu có khả năng thanh toán giảm sút đối với một hay nhiều sản
toán giảm sút phẩm của mình. Nhà thờ đã phải chứng kiến số con chiên giảm sút, các
trường đại học tư đã thấy số người nộp đơn theo học ít đi. Những người
làm marketing phải phân tích những nguyên nhân làm cho thị trường
giảm sút và xác định xem liệu có thể kích thích nhu cầu có khả năng
thanh toán trở lại bằng cách tìm kiếm những thị trường mục tiêu mới,
thay đổi tính năng của sản phẩm hay triển khau công tác truyền thong
hữu hiệu hoen không. Nhiệm vụ của marketing là phải phục hồi nhu cầu
có khả năng thanh toán đã giảm sút thong qua việc tiến hành marketing
lại một cách sáng tạo về sản phẩm đó.
5. Nhu cầu có Nhiều tổ chức phải đương đầu cới nhu cầu có khả năng thanh toán thay
khả năng thanh đổi theo từng mùa, từng ngày hoặc thậm chí từng giờ, làm nảy sinh vấn
toán thất thường đề năng lực sản xuất nhàn rỗi hay quá tải. Trong ngành giao thong công
cộng vào những giờ không phải là giờ cao điểm thì có nhiều xe nhàn
rỗi, nhưng vào giờ cao điểm thì lại thiếu xe. Trong các ngày làm việc thì
các viện bảo tàng đều vắng khách, nhưng vào ngày nghỉ cuối tuần thì
lượng khách lại đông. Các phòng mổ của bệnh viện thường quá đông
bệnh nhân vào ngày đầu tuần nhưng lại có ít bệnh nhân vào ngày cuối
tuần. Nhiệm vụ của marketing, gọi là marketing thời gian, là phải tìm
cách thay đổi dạng phân bố nhu cầu có khả năng thanh toán thong qua
việc định giá linh hoạt, khuyến mãi và những hình thức khuyến khích
khác.
6. Nhu cầu có Các tổ chức gặp nhu cầu có khả năng thanh toán vừa đủ khi họ thấy hài
khả năng thanh lòng với khối lượng kinh doanh của mình. Nhiệm vụ của marketing là
toán vừa đủ phải duy trì mức độ hiện tại của nhu cầu có khả năng thanh toán trước
sự thách thức của sở thích của người tiêu dùng và tình trạng cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Tổ chức phải duy trì hay nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình và thường xuyên đánh giá sự thỏa mãn của người tiêu
dùng để tin chắc rằng mình đang đi đúng hướng
7. Nhu cầu có Một số tổ chức gặp phải một mức độ nhu cầu có khả năng thanh toán
khả năng thanh cao hơn mức mà họ có thể hay mong muốn đáp ứng. Chẳng hạn như
toán quá mức cầu Chương Dương phải chịu một mức độ giao thông cao hơn mức an
8. Nhu cầu có Những sản phẩm có hại đòi hỏi phải có những nỗ lực có tổ chức nhằm
khả năng thanh kiềm chế mức độ tiêu dùng chúng. Người ta tiến hành những chiến dịch
toán có hại không bán thuốc lá, không bán rượu mạnh, thuốc gây nghiện, phim ảnh
cấm trẻ em dưới 17 tuổi, và hạn chế gia đình đông con. Nhiệm vụ của
marketing là vận động những người nghiện hay thích một thứ nào đó từ
bỏ nó, bằng những công cụ như thong tin răn đe, nâng giá và hạn chế
cung ứng chúng.
Qua đó ta thất để đạt được mục tiêu của quản trị marketing hướng tới, thì phải thực
hiện những nhiệm vụ hết sức đa dạng nhằm làm biến đổi các trạng thái của nhu cầu để đến
trạng thái nhu cầu mà công ty mong muốn, hiểu theo nghĩa rộng, quản trị marketing phải có
nhiệm vụ tác động đến mức độ, thời điểm và cơ cấu của cầu bằng cách nào đó để đạt mục
tiêu mà công ty đề ra, thực chất của quản trị marketing là quản trị cầu.
Để thực hiện được mục tiêu của quản trị marketing, quản trị marketing phải hướng
thực hiện một chuỗi các hoạt động chức năng do những người làm marketing đảm nhận.
Hoạt động chức năng đó không phải chỉ có 4Ps, mà còn phải tiến hành nghiên cứu tìm kiếm
khách hàng, soạn thảo các chiến lược chung, tổ chức, thực hiện, kiểm tra, đánh giá các hoạt
động marketing.
1.2. Các giai đoạn phát triển quản trị marketing
1.2.1. Các giai đoạn phát triển
Quản trị marketing phát triển trải qua bốn giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: những năm đầu thế kỷ 20: giai đoạn định hướng sản xuất
- Giai đoạn 2: những năm 1930 – 1950: giai đoạn định hướng sản phẩm, định
hướng bán hàng
- Giai đoạn 3: những năm 1950 – 1970: giai đoạn định hướng bán hàng
- Giai đoạn 4: từ 1970 đến nay: định hướng theo thị trường
1.2.2. Các quan điểm quản trị marketing
1.2.2.1. Quan điểm marketing định hướng sản xuất
Quan điểm này ra đời sớm nhất khi trình độ sản xuất còn chưa phát triển, nhu cầu của
con người muốn thỏa mãn là những nhu cầu giản đơn, cơ bản thiết yếu. Doanh nghiệp đóng
vai trò trọng tâm của hoạt động xã hội, thị trường chưa được coi trọng và gần như không có
cạnh tranh. Vì vậy, người tiêu dùng sẽ ưa thích những sản phẩm được bán rộng rãi với giá
hạ. Do đó, những nhà quản trị các doanh nghiệp cần phải tập trung vào việc tăng quy mô
sản xuất và mở rộng phạm vi tiêu thụ. Họ tiến hành sản xuất hàng loạt, tìm cách hoàn thiện
quá trình sản xuất, hợp lý hóa quá trình sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm chi phí
Thị trường
Phát triển thông tin mục tiêu
Phân tích
Xác định Ghi chép Tình báo Kênh
Lập kế nhu cầu nội bộ marketing marketing
hoạch thông tin
Đối thủ
Thực hiện Phân tích Nghiên cứu cạnh tranh
Phân phối thông tin marketing
Kiểm tra thông tin marketing Môi trường
vi mô
Phương pháp nghiên cứu Quan sát Thực nghiệm Thăm dò dư luận
Các phương pháp liên hệ Qua điện thoại Bưu điện Phỏng vấn trực tiếp
với công chúng.
Các phương pháp nghiên cứu: có ba phương pháp là quan sát, thực nghiệm và thăm
dò dư luận.
- Quan sát: là một trong những phương pháp thu thập số liệu sơ cấp có thể áp dụng
khi người nghiên cứu tiến hành quan sát trực tiếp người và hoàn cảnh. Phương pháp này chỉ
nhìn thấy hiện tượng, kết quả chứ không biết được nguyên nhân nào dẫn đến những biểu
hiện, những kết quả đó.
- Thực nghiệm: đòi hỏi phải tuyển chọn các nhóm đối tượng khác nhau, tạo ra cho họ
những hoàn cảnh khác nhau, kiểm tra những thành phần biến động và xác định mức độ quan
trọng của các đặc điểm được quan sát. Mục tiêu của việc nghiên cứu này là tìm ra mối quan
hệ nhân quả bằng cách sàng lọc những lời giải thích mâu thuẫn nhau về các kết quả nghiên
cứu được. Phương pháp này cho ta những số liệu có sức thuyết phục nhất, các nhà quản trị
marketing có thể tin vào những kết luận của cuộc nghiên cứu thực nghiệm.
- Thăm dò dư luận: là một phương pháp nằm giữa quan sát và thực nghiệm. Các công
ty tiến hành thăm dò dư luận để thu được những thông tin về tri thức, chính kiến, sở thích
của con người, về mức độ thỏa mãn của họ.
Các công cụ nghiên cứu: khi thu thập số liệu gốc, các nhà nghiên cứu marketing có
thể chọn một trong hai công cụ nghiên cứu chủ yếu là phiếu điều tra và các thiết bị cơ học.
- Phiếu điều tra: là một công cụ nghiên cứu phổ biến nhất khi thu thập các số liệu
gốc. Theo nghĩa rộng phiếu điều tra là một loạt các câu hỏi mà người được hỏi cần trả lời.
Phiếu điều tra là một dụng cụ rất mềm dẻo theo nghĩa là có thể đưa ra những câu hỏi bằng
rất nhiều các phương thức khác nhau. Phiếu điều tra đòi hỏi phải được soạn thảo kỹ, thừ và
sửa những thiếu sót đã phát hiện thấy trước khi đem sử dụng nó rộng rãi
- Các thiết bị cơ học: để đo mức độ quan tâm hay tình cảm của người được hỏi khi
tiếp xúc với thông báo hay hình ảnh quảng cáo cụ thể người ta sử dụng các điều kế. Các
điều kế này ghi lại những sự bài tiết mồ hôi nhỏ nhất có them theo sự xúc động; hoặc sử
dụng những thiết bị đặc biệt để ghi lại những vận động của mắt với mục đích là xác định
ánh nhìn của người được quan sát hướng vào đâu, dừng lại bao lâu…; các thiết bị điện tử
ghi lại tất cả những lần mở ti vi và các kênh mà họ bật.
Lập kế hoạch chọn mẫu: mẫu là bộ phận dân cư có thể đại diện cho toàn thể nhân
dân. Người nghiên cứu marketing phải soạn thảo một kế hoạch lấy mẫu làm sao để nhờ đó
mà tập hợp được, tuyển chọn đáp ứng được những nhiệm vụ đặt ra cho việc nghiên cứu.
Muốn vậy cần phải cần phải có ba quyết định.
Công ty
Những người
cung ứng Môi giới Khách hàng
Các đối thủ cạnh marketing
tranh
Công chúng trực tiếp
Hình 2.3: Những lực lượng cơ bản tác dụng trong môi trường vi mô của công ty
2.2.1.1. Công ty
2.2.1.2. Những người cung ứng
Những sự kiện xảy ra trong môi trường “người cung ứng” có thể ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động marketing của công ty. Những người quản trị marketing phải chú ý
theo dõi giá cả các mặt hàng cung ứng, bởi vì việc tăng giá những vật tư mua về có thể buộc
phải nâng giá xe đạp. Thiếu một chủng loại vật tư nào đó, trong kế hoạch ngắn hạn sẽ bỏ lỡ
những khả năng tiêu thụ và trong kế hoạch dài hạn sẽ làm mất đi thiện cảm của khách hàng
đối với công ty.
2.2.1.3. Những người môi giới marketing
Những mong muốn Những loại hàng Những mặt hàng Những nhãn hiệu
cạnh tranh: cạnh tranh: cạnh tranh: cạnh tranh:
- Mua phương tiện - Xe hơi - Xe đạp thường - Thống Nhất
đi lại - Xe máy - Xe đạp đua - Delta
- Mua dàn nghe nhạc - Xe đạp - Xe đạp điện - Trung Quốc
- Du lịch Châu Âu
- Phân phối luật pháp Các đặc - Lựa chọn địa điểm
trưng
- Xúc tiến - Văn hóa riêng của Quá trình
- Lựa chọn nhãn hiệu
hỗn hợp - Khoa học người đi đến - Lựa chọn khối lượng
kỹ thuật tiêu dùng quyết - Lựa chọn thời gian
- Cạnh tranh định mua mua
…….
Hình 2.5: Mô hình chi tiết hành vi của người tiêu dùng
Mô hình chi tiết hành vi mua của người tiêu dùng được sử dụng để mô tả mối quan
hệ giữa ba yếu tố: các nhân tố kích thích, hộp đen ý thức, và những phản ứng đáp lại các
kích thích của người tiêu dùng.
Các nhân tố kích thích: là tất cả những tác nhân, lực lượng bên ngoài người tiêu dùng
có thể gây ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng. Chúng được chia thành hai nhóm
chính: nhóm 1 là các tác nhân marketing; nhóm 2 là các tác nhân kích thích không thuộc
quyền kiểm soát tuyệt đối của doanh nghiệp.
Hộp đen ý thức của người tiêu dùng: Là cách gọi bộ não của con người và cơ chế
hoạt động của nó trong việc tiếp nhận, xử lý các kích thích và đề xuất các giải pháp đáp ứng
trở lại các kích thích được tiếp nhận. Phần thứ nhất: đặc tính của người tiêu dùng. Nó có
ảnh hưởng cơ bản đến việc người tiêu dùng sẽ tiếp nhận các kích thích và phản ứng đáp lại
các tác nhân đó như thế nào, Phần thứ hai: quá trình quyết định mua của người tiêu dùng đó
là tòan bộ lộ trình mà người tiêu dùng thực hiện các hoạt động liên quan đến sự xuất hiện
Văn hóa
Xã hội
Cá nhân
Hình 2.6: Sơ đồ các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng
Các yếu tố văn hoá:
Những yếu tố về trình độ văn hoá có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc nhất đến hành vi
người tiêu dùng. Ta sẽ đi xem xét các yếu tố văn hoá ảnh hưởng như thế nào đến hành vi
mua của người tiêu dùng.
văn hoá là nguyên nhân đầu tiên, cơ bản quyết định nhu cầu và hành vi của con người. Hành
vi của con người là một sự vật chủ yếu được tiếp thu từ bên ngoài. Đứa trẻ học tập được những
điều cơ bản về giá trị, sự cảm thụ, sự ưa thích, tác phong và hành vi đặc trưng cho gia đình của
mình và những thể chế cơ bản của xã hội. Ví dụ một đứa trẻ lớn lên ở Mỹ sẽ quen thuộc hay gặp
1. Giai đoạn sống độc thân, ít gánh nặng tài chính. Những người nhiều ý kiến nhất về thời
những người độc thân trẻ sống trang. Thích nghỉ ngơi tích cực. Người mua thiết bị chủ yếu
tách khỏi bố mẹ. cho nhà bếp, đồ gỗ chủ yếu, xe hơi, đồ cưới, phiếu đi nghỉ
mát.
2. Vợ chồng trẻ chưa có con Tình trạng tài chính khá hơn so với tương lai sắp tới. Cường
độ mua sắm lớn nhất, chỉ số bình quân mua hàng lâu bền cao
nhất. Người mua xe hơi, tủ lạnh, lò bếp, những đồ gỗ thật cần
thiết và những đồ lâu bền, phiếu đi nghỉ mát.
3. “Tổ ấm đầy đủ” Đỉnh cao của việc mua nhà ở. Tiền không nhiều. Không hài
Giai đoạn 1: có con dưới 6 tuổi lòng với tình trạng tài chính và số tiền tiết kiệm. Quan tâm đến
những mặt hàng mới. Thích những mặt hàng được quảng cáo.
Mua máy giặt và rửa bát đĩa, máy sấy, ti vi, thực phẩm cho trẻ
em, thuốc ho, vitamin, búp bê, xe nôi, xe trượt tuyết, giầy
trượt băng.
4. “Tổ ấm đầy đủ” Tình trạng tài chính khá hơn. Quảng cáo ít có ảnh hưởng. Mua
5. “Tổ ấm đầy đủ” Tình trạng tài chính khá hơn nữa. Quảng cáo rất ít ảnh hưởng.
Giai đoạn 3: Vợ chồng lớn tuổi có Cường độ bình quân mua hàng lâu bền cao. Mua đồ gỗ mới,
con ở chung vói họ lộng lẫy hơn, tham gia du lịch bằng xe hơi, mua sắm máy móc
không thật cần thiết, đi chữa răng, mua báo chí.
6. “Tổ ấm thiếu vắng” Số người có nhà riêng nhiều nhất. Phần lớn thoả mãn với tình
Gai đoạn 1: vợ chồng lớn tuổi có trạng tài chính và số tiền tiết kiệm của mình. Quan tâm đến du
con sống riêng, người chủ gia lịch, nghỉ ngơi tích cực, tự học. Tặng quà và đóng góp từ
đình đi làm thiện. Không quan tâm đến những mặt hàng mới. Mua phiếu
đi nghỉ, đồ dùng xa xỉ, dịch vụ và hàng sửa sang nhà cửa.
7. “Tổ ấm thiếu vắng” Thu nhập giảm mạnh. Phần nhiều vẫn giữ lại nhà ở. Mua các
Gai đoạn 2: Vợ chồng lớn tuổi thiết bị, thuốc bồi bổ sức khoẻ, thuốc ngủ và trị bệnh tiêu hoá.
con cái ở riêng, người chủ gia
đình nghỉ hưu
8. Người goá bụa làm việc Thu nhập còn khá cao, nhưng đã có xu hướng bán nhà.
9. Người goá bụa nghỉ hưu Rất cần chăm sóc y tế và những thứ hàng như các nhóm
người nghỉ hưu khác. Thu nhập giảm mạnh. Rất cần có sự
quan tâm, tình cảm quyến luyến và sự yên ổn.
Nghề nghiệp: Nghề nghiệp có ảnh hưởng nhất định đến tính chất của hàng hóa và dịch vụ
được chọn mua. Người công nhân có thể mua quần áo, giầy đi làm, hộp đựng đồ ăn, loại đồ chơi
phù hợp với mình.Vị chủ tịch công ty có thể mua cho mình những bộ quần áo đắt tiền, đi du lịch
bằng máy bay, tham gia các câu lạc bộ dành riêng ở ngoại ô. Nhà hoạt động thị trường cần cố gắng
tách ra những nhóm khách hàng theo nghề nghiệp quan tâm đến hàng hoá và dịch vụ của mình.
Công ty có thể chuyên sản xuất những mặt hàng cần thiết cho một nhóm nghề nghiệp cụ thể nào
đó.
Tình trạng kinh tế: ảnh hưởng rất lớn đến cách thức người tiêu dùng lựa chọn hàng hoá của
họ. Nó được xác định căn cứ vào phần chi trong thu nhập, phần tiết kiệm và phần có, khả năng vay
và những quan điểm chi đối lập với tích luỹ. Những nhà hoạt động thị trường bán những thứ hàng
mà việc tiêu thụ phụ thuộc vào mức thu nhập của người tiêu dùng, phải thường xuyên theo dõi xu
thế biến động trong lĩnh vực thu nhập cá nhân, tiền tiết kiệm và tỷ xuất chiết khấu. Nếu các chỉ tiêu
kinh tế nói lên sự suy thoái thì nhà hoạt động thị trường phải thi hành những biện pháp nhằm thay
đổi kết cấu, vị trí và giá cả hàng hoá của mình, thu hẹp sản xuất và khối lượng hàng dự trữ, cũng
như làm mọi việc cần thiết để bảo vệ mình về mặt tài chính.
Lối sống: là những hình thức tồn tại bền vững của con người trong thế giới, được thể hiện ra
trong hoạt động, sự quan tâm và niềm tin của nó. Lối sống phác hoạ bức chân dung toàn diện của
con người trong sự tác động qua lại giữa nó với môi trường xung quanh. Lối sống biểu hiện nhiều
điều hơn nguồn gốc gai tầng xã hội hay kiểu nhân cách của con người. Khi biết thành phần giai
tầng xã hội của con người, ta có thể có những kết luận nhất định về hành vi dự kiến của người đó,
nhưng không thể hình dung người đó như một cá thể. Khi biết kiểu nhân cách của con người chúng
ta có thể đưa ra những kết luận về đặc điểm tâm lý của người đó, nhưng chưa chắc có thể biết được
- Nhu cầu
tự khẳng định
(tự phát triển
và thể hiện
mọi tiềm năng)
Đánh giá
Nhận biết Tìm kiếm Đánh giá các Quyết
sau khi
nhu cầu thông tin phương án định mua
mua
Hình 2.8: Sơ đồ quá trình đi tới quyết định mua của người tiêu dùng
Từ mô hình quá trình quyết định mua trên, chúng ta có thể rút ra những vấn đề cơ bản:
- Chúng ta có luận cứ để khẳng định rằng mua là một quá trình. Khi cung ứng hàng hoá cần
hiểu khách hàng tiếp cận trước khi họ tiếp xúc với sản phẩm mà chúng ta cung ứng trên thị
trường và nó còn xảy ra sau khi họ mua sản phẩm.
- Trong mỗi bước của quá trình quyết định mua thì người mua phải có những quyết định cụ
thể và nó giống như những nấc thang về ý thức liên quan đến giao dịch mà trong khi đó mua
(giao dịch) chỉ là một hành vi, một giai đoạn. Hoạt động giao dịch có biểu hiện chấm dứt
nếu ở một bước nào đó của quá trình này chúng ta không có một giai pháp Marketing đúng
đắn.
- Mô hình này sử dụng để mô tả tổng quát và đầy đủ về hành vi mua, còn trong từng tình
huống cụ thể thì mô hình này có thể có sự biến đổi. Sự biến đổi chính là cách phản ứng một
cách thực tiễn về tác nhân cụ thể tới bối cảnh mua. Những tác nhân này có thể nằm ở bên
trong bản thân khách hàng, cũng có thể tác động của kích thích bên ngoài. Vì vậy, chỉ có thể
có một mô hình quyết định mua nếu chúng ta có được liên hệ giữa các đặc tính trong hành
vi mua với những hành vi cụ thể người ta bộc lộ trong quá trình mua.
- Trong mô hình có thể cắt bớt một vài gai đoạn đây là trường hợp có thể xảy ra khi kế
hoạch và nhà cung ứng có mối quan hệ lâu dài và không có gì thay đổi.
Nhận biết nhu cầu (Xuất hiện nhu cầu)
Đây là bước đầu tiên của quá trình quyết định mua và mọi quá trình quyết định mua
đều phải có bước này. Nhận biết nhu cầu hay vấn đề nó được tính từ khi người tiêu dùng
nhận thức được nhu cầu muốn được thoả mãn song người ta chỉ hành động khi nhu cầu đó
đã trở nên bức xúc (động cơ). Đặc trưng nổi trội nhất đó là sự chuyển hoá của nhu cầu thành
động cơ để họ hành động. Nhu cầu được phát sinh bởi nhiều yếu tố kích thích cả bên trong
lẫn bên ngòai:
Các nhân tố kích thích nội tại:
- Do nhu cầu sinh lý của bản thân cơ thể con người như: đói, khát, mệt… đòi
hỏi phải ăn uống, nghỉ ngơi…
- Do không thỏa mãn với những sản phẩm hiện có: Sản phẩm lạc hậu về kỹ
thuật kiểu dáng, tiêu hao nhiều nhiên liệu và năng lượng, tính năng tác dụng
kém…
- Bản thân người tiêu dùng mong ước có được sản phẩm từ lâu.
Các nhân tố kích thích từ bên ngòai:
- Do quảng cáo hấp dẫn, kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm
Tạm thời
bỏ đi Cho mượn
Đổi cái Để dùng
khác
Sản Bỏ đi
phẩm vĩnh viễn Trực tiếp cho
Vứt bỏ người khác
Dùng vào
mục đích ban
đầu Thông qua
trung gian
Giữ lại Sửa để dung Bán đi
vào MĐ mới
Cho người
Cất vào kho trung gian
Hình 2.10: Các cách người tiêu dùng thường xử lý đối với sản phẩm
Như vậy, việc nghiên cứu hành vi mua của người mua và phân tích quá trình thông
qua quyết định mua hàng của họ giúp người làm marketing có thể xây dựng được một
chương trình marketing có hiệu lực và hiệu quả cho thị trường mục tiêu của mình.
2.3.2. Phân tích thị trường các doanh nghiệp và hành vi mua sắm của doanh nghiệp
2.3.2.1. Những điểm khác biệt với thị trường người tiêu dùng.
Những công ty bán sản phẩm cho các tổ chức khác như các nhà sản xuất, những người
bán sỉ, bán lẻ và các cơ quan nhà nước phải cố gắng hết sức mình để tìm hiểu nhu cầu của
người mua, khả năng tài chính, mục đích chính trị và thủ tục mua hàng. Cũng nhất thiết
phải chú ý đến một số điều thường không gặp trong thực tiễn Marketing tiêu dùng.
- Các tổ chức mua hàng và dịch vụ với mục đích kiếm lời, giảm bớt chi phí, thoả mãn
những nhu yếu của khách hàng nội bộ, thực hiện những nghĩa vụ xã hội hay pháp lý.
- Trong quá trình thông qua quyết định mua hàng cho nhu cầu của tổ chức, số người
tham gia hình thức đông hơn khi bàn về những việc mua hàng tiêu dùng. Thông thường
những người tham gia thông qua quyết định này có những nhiệm vụ khác nhau trong các tổ
chức và xem xét quyết định mua hàng theo những tiêu chuẩn khác nhau.
Môi trường
Hình 2.11: Những ảnh hưởng chủ yếu đến hành vi mua sắm công nghiệp
Các yếu tố tổ chức:
Mỗi tổ chức mua hàng đều có những mục tiêu, chính sách, thủ tục, cơ cấu tổ chức và
các hệ thống riêng của mình. Người hoạt động trên thị trường các doanh nghiệp phải tìm
hiểu chúng. Thường nảy sinh những câu hỏi như: có bao nhiêu người tham gia vào quyết
định mua sắm? Họ là những ai? Tiêu chuẩn đánh giá của họ như thế nào? Những chính sách
và hạn chế của công ty đối với người mua là gì?
Những người hoạt động trên thị trường các doanh nghiệp phải luôn tỉnh táo với
những xu hướng tổ chức sau đây trong lĩnh vực mua sắm:
- Nâng cấp bộ phận cung ứng: chuyển từ bộ phận cung ứng theo kiểu cũ, chỉ chú trọng đến
việc mua được rẻ nhất thành bộ phận mua sắm có nhiệm vụ tìm kiếm giá trị tốt nhất từ số
người cung ứng ít hơn và tốt hơn.
SWOT S W
O SO WO
T ST WT
Các SBU được sắp xếp trên ma trận BCG bằng các vòng tròn. Tâm của mỗi vòng tương
ứng với vị trí của mỗi SBU trên ma trận BCG, còn kích thước của vòng tròn biểu thị qui mô
(doanh thu) của SBU đó.
Tuỳ thuộc vào vị trí của SBU trên ma trận BCG, có thể chia ra thành 4 loại:
Ngôi sao (Star): Ngôi sao gồm các SBU có tốc độ tăng trưởng thị trường cao và tr trọng
thị trường lớn, là đối tượng mà doanh nghiệp cần đầu tư nguồn lực lớn cho sự phát triển để
đến lượt mình các SBU này biến thành các túi tiền tài trợ cho các SBU khác.
Bò Sữa (cash cows): bò sữa là các SBU có tốc độ tăng trưởng chậm với tỉ trọng tăng
trưởng cao, là nơi tạo ra thu nhập chính để trang trải các chi phí của doanh nghiệp và trợ
giúp cho các SBU khác đang cần đầu tư thêm.
Dấu hỏi (question mark): dấu hỏi gồm có các SBU có tỉ trọng thị trường thấp trong
những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao đòi hỏi phải chi phí để duy trì hoạt động và giữ
vững thị phần. Các nhà quản trị cần phân tích cặn kẽ để quyết định SBU nào nên đầu tư để
tương lai phát triển thành các ngôi sao, SBU nào nên loại bỏ do tính kém hiệu qủa của nó
trong tương lai.
Chú chó (dogs): chú chó là những SBU có tỉ trọng thị trường nhỏ bé trong những thị
phần có tốc độ phát triển thấp. Chúng có thể tạo ra thu nhập để duy trì hoạt động, nhưng
không phải là nơi mà doanh nghiệp cần đầu tư nguồn lực vào trừ phi có những thay đổi lớn
về thị trường tạo nên các cơ hội
Tốc độ
tăng trưởng
10%
thị trường
Con chó
Bò sữa
0,1X 1.0X
Thấp Cao 10x
Thị phần tương đối
Sau khi xác định vị trí của các đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU) trên ma trận tăng
trưởng – thị phần, doanh nghiệp tiến hành xác định danh mục kinh doanh (business
7 8 9
Thấp
Phát triển tập trung Phát triển hội nhập Phát triển đa dạng hoá
- Thâm nhập thị trường - Hội nhập phía sau - Đa dạng hoá đồng tâm
- Mở rộng thị trường - Hội nhập ngang - Đa dạng hoá hàng ngang
- Phát triển sản phẩm - Hội nhập phía trước - Đa dạng hoá kết khối
- Tình hình thị trường: trình bầy số liệu cơ bản về tình hình thị trường
mục tiêu: qui mô và mức tăng trưởng của thị trường và các phân đoạn
thị trường qua các năm, nhu cầu của thị trường, sự chấp nhận và những
xu hướng của hành vi mua sắm.
- Tình hình sản phẩm: phân tích sản lượng tiêu thụ, giá bán bình quân,
doanh thu, chi phí cố định và biến đổi, tỉ suất sinh lợi, lợi nhuận ròng
1. Hiện trạng của những sản phẩm chủ yếu và của toàn bộ doanh nghiệp.
Marketing - Tình hình cạnh tranh: phân tích những đối thủ cạnh tranh chủ yếu và
qui mô kinh doanh, thị phần, chất lượng sản phẩm, chiến lược
Marketing và những đặc điểm khác của đối thủ cạnh tranh cần thiết cho
việc hiểu rõ ý đồ và hành vi của họ
- Tình hình phân phối: phân tích hệ thống kênh phân phối, qui mô và
tầm quan trọng của từng kênh phân phối, các trung gian trong kênh phân
phối.
- Phân tích môi trường vĩ mô: phân tích những xu hướng chủ yếu trong
môi trường vĩ mô như: môi trường dân số, kinh tế, công nghệ, chính trị
– luật pháp, văn hoá - xã hội có ảnh hưởng đến tình trạng tương lai của
sản phẩm của doanh nghiệp
2. Phân tích cơ
- Phân tích môi trường vi mô: khách hàng và hành vi tiêu dùng, các
hội Marketing
trung gian trong phân phối, các đối thủ cạnh tranh để thấy được điểm
mạnh, điểm yếu trong hoạt động Marketing của doanh nghiệp.
Phân tích môi trường Marketing là cơ sở để hoạch định các mục tiêu
của chiến lược Marketing.
- Thị trường mục tiêu và vị trí sản phẩm: xác định rõ các phân đoạn thị
trường. Các phân đoạn thị trường này khác nhau về qui mô, đặc điểm
nhu cầu và sản phẩm, khác nhau về mức độ phản ứng trước các kích
thích Marketing và mức doanh lợi. Doanh nghiệp cần tập trung các nỗ
lực của mình vào những phân đoạn thị trường mà mình có thể phục vụ
tốt nhất. Cần có những chiến lược Marketing khác nhau thích ứng với
đặc điểm của từng thị trường mục tiêu.
- Chiến lược Marketing:
Theo cách tiếp cận sản phẩm – thị trường: chiến lược thâm nhập thị
trường, chiến lược mở rộng thị trường, chiến lược phát triển sản phẩm,
chiến lược đa dạng hoá.
4. Chiến lược
Marketing Theo cách tiếp cận cạnh tranh: chiến lược dẫn đầu thị trường, chiến
lược thách thức thị trường, chiến lược đi theo thị trường, chiến lược lấp
chỗ trống thị trường.
Theo cách tiếp cận về phối hợp các biến số Marketing (Marketing –
mix): chiến lược Marketing – mix, hoặc các chiến lược sản phẩm, chiến
lược định giá, chiến lược phân phối, chiến lược xúc tiến hỗn hợp.
- Marketing – mix: sự kết hợp giữa các chiến lược sản phẩm, giá cả,
phân phối và xúc tiến hỗn hợp, như xác định danh mục sản phẩm, chủng
loại sản phẩm, nghiên cứu và phát triển sản phẩm, lựa chọn và quản trị
kênh phân phối, quản trị lực lượng bán hàng, thực hiện các dịch vụ, xây
dựng các chương trình quảng cáo, khuyến mãi, tiến hành nghiên cứu
Marketing…
Các nhà quản trị Marketing cần xác định rõ những chi phí Marketing
cần thiết để đảm bảo thực hiện thành công và có hiệu quả các mục tiêu
5. Mức chi phí chiến lược Marketing. Nếu sử dụng ngân sách có hiệu quả thì mức ngân
Marketing sách dành cho Marketing càng cao, càng tạo ra nhiều doanh số. Tuỳ điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp mà lựa chọn phương pháp xác định mức
chi phí Marketing cho phù hợp.
6. Chương trình Chương trình hành động cho biết một cách cụ thể các giải pháp cần triển
hành động khai, việc bố trí nhân lực và định rõ thời gian tiến hành, chi phí cần sử
dụng để thực hiện chiến lược Marketing. Thực chất của chương trình
Dự báo kết quả tài chính khi thực hiện xong chiến lược, được trình bầy
dưới dạng một bảng dự kiến hai phần thu và chi. Bên phần thu, thể hiện
khối lượng tiêu thụ dự kiến (số lượng và giá trị tính theo giá thực dự
kiến bình quân). Bên phần chi, thể hiện tổng chi phí sản xuất và chi phí
7. Ngân sách Marketing, được phân bổ chi tiết theo các mục chi. Chênh lệch giữ hai
phần này là lợi nhuận dự kiến. Ngân sách, một khi đã được ban lãnh đạo
phê duyệt, là cơ sở để xây dựng các kế hoạch và tiến độ mua sắm, tiến
độ sản xuất, tuyển dụng nhân công và tiến hành các chương trình
Marketing.
Kế hoạch kiểm tra để theo dõi tiến trình chiển khai chiến lươc
Marketing. ở phần này, những người quản trị Marketing cần phác hoạ
những nội dung chính của công tác kiểm tra việc thực hiện chiến lược
Marketing, bao gồm: tình hình sử dụng các nguồn lực cho các hoạt động
8. Kiểm tra Marketing, tình hình và tiến độ thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu,…
Trên cơ sở kiểm tra việc thực hiện chiến lược Marketing mà những
người quản trị Marketing có thể phát hiện ra những mặt yếu kém trong
quá trình thực thi chiến lược và đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm
thực hiện thàh công chiến lược Marketing của doanh nghiệp.
Phân đoạn thị trường Lựa chọn thị trường Xác định vị trí hành hoá
mục tiêu trên thị trường
- Thứ nhất là Phân đoạn thị trường – phân khúc thị trường thành những nhóm người
mua rõ ràng. Những nhóm này có thể đòi hỏi những mặt hàng và hệ thống
Marketing – mix riêng. Công ty xác định các phương thức phân khúc thị trường thu
được và đánh giá mức độ hấp dẫn của từng khúc thị trường.
- Thứ hai là Lựa chọn các khúc thị trường mục tiêu - đánh giá và lựa chọn một hay
nhiều khúc thị trường để đưa hàng của mình xâm nhập vào
- Thứ ba là Xác định vị trí hàng hoá trên thị trường - đảm bảo hàng hoá có vị trí
cạnh tranh trên thị trường và soạn thảo chi tiết hệ thống Marketing – mix.
Trong chương này ta sẽ đi xem xét những nguyên tắc cơ bản của việc phân
khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị hàng hoá.
4.1. Đo lường và dự báo nhu cầu thị trường
Đo lường và dự báo cầu có thể coi là một kết quả cụ thể của quản trị thông tin Marketing
về việc lượng hoá thông tin để phục vụ cho việc ra các quyết định về quản trị Marketing. Nó
chỉ cần thiết phục vụ cho việc đánh giá tiềm năng thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu
mà nó còn cần thiết cho việc soạn thảo các chiến lược bộ phận khác trong hoạt động kinh
doanh của công ty. Ví dụ: là luận cứ để huy động vốn; soạn thảo chiến lược sản phẩm, dự
trữ mua sắm đầu vào (bộ phận sản xuất); tuyển dụng, đào tạo, tổ chức nhân sự.
4.1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đo lường và dự báo cầu:
Thị trường (theo quan điểm Marketing): là tập hợp những người đang mua và những
người sẽ mua một loại sản phẩm nhất đinh. Một thị trường là tập hợp những người mua và
một ngành sản xuất là tập hợp những người bán.
Như vậy, quy mô thị trường găn liền với số lượng người mua có thể có đối với một loại
sản phẩm nhất định nào đó mà người bán cống hiến cho thị trường. Những người tìm mua
bất kỳ một sản phẩm nào đó trong thị trường thường có ba đặc điểm sau: sự quan tâm, thu
nhập và khả năng tiếp cận thị trường mục tiêu. Qua đó, người làm Marketing có thể phân
chia thị trường thành:
Thị trường tiềm năng: là một tập hợp những người tiêu dùng thừa nhận có đủ mức độ
quan tâm đến một mặt hàng nhất định của thị trường.
Mức độ sẵn sàng chấp nhận Chưa biết, biết, nghe tin, quan tâm, mong muốn, có ý định mua
hóa
Thái độ đối với hàng hóa Vui mừng, tốt, bàng quan, xấu, thù ghét
Qui mô gia đình Độc thân, gia đình trẻ chưa có con, gia đình có con nhỏ dưới 6
tuổi, gia đình có con từ 6 tuổi trở lên …
Giai đoạn phát triển của gia
đình Thu nhập trung bình 1 người < 100.000 đ/tháng;
Thấp Cao
P1 P1 P1
P2 P2 P2
P3 P3 P3
M1 M2 M3 M1 M2 M3
P1 P1
P2 P2
P3 P3
Hình 4.5: Năm cách lựa chọn thị trường mục tiêu
Chuyên môn hóa có chọn lọc: công ty chọn một số khúc thị trườ n g, mỗi
khúc thị trườ n g đều có sức hấp dẫn khách quan và phù hợp với những mục tiêu và
nguồn tài nguyên của công ty. Có thể có một ít hay không có tác dụng cộng đồng
giữa các đoạn thị trườ n g đó, nhưng mỗi đoạn thị trườ n g đều hứa hẹn là nguồn sinh
lợi. Chiến lược phục vụ nhiều khúc thị trườ n g này có ưu điểm là đa dạng hóa rủi ro
của công ty. Dù cho một khúc thị trườ n g có trở nên không hấp dẫn nữa thì công ty
vẫn có thể tiếp tục kiếm tiền trong những đoạn thị trườ n g khác.
Chuyên môn hóa sả n phẩ m : công ty sả n xuấ t một loại sả n phẩ m nhất định để
bán cho một số đoạn thị trườ n g. Thông qua chiến lược này công ty tạo dựng được
danh tiếng rộng khắp trong lĩnh vực sả n phẩ m chuyên dụng. Rủi ro sẽ xuất hiện khi
có sả n phẩ m thay thế xuất hiện.
Chuyên môn hóa thị trườ n g: công ty tập trung vào việc phục vụ nhiều nhu
cầu cùng một nhóm khách hàng cụ thể. Công ty giành được tiếng tăm rộng khắp vì
chuyên môn hóa vào việc phục vụ khách hàng này và trở thành kênh cho tất cả các
sả n phẩ m mới mà khách hàng thuộc nhóm này có thể cần dùng đến. Rủi ro sẽ xảy ra
nếu như người mua gặp khó khăn về vấn đề tài chính hoặc giảm số lượng mua.
Phục vụ toàn bộ thị trườ n g: Công ty phục vụ tất cả các nhóm khách hàng tất cả
những sản phẩm mà họ cần đến. Chỉ có những công ty lớn mới có thể thực hiện chiến lược
phục vụ toàn bộ thị trường. Ví dụ IBM (thị trường máy tính). Coca – Cola (thị trường đồ
uống). Những công ty lớn có thể phục vụ toàn bộ thị trường thông qua hai cách: marketing
không phân biệt và marketing có phân biệt.
Marketing – mix 1
Đoạn thị trườ n g 1
của công ty
Marketing – mix 2
Marketing có phân biệt Đoạn thị trườ n g 2
của công ty
Marketing – mix 3
Đoạn thị trườ n g 3
của công ty
Marketing – mix
Marketing tập trung Đoạn thị trườ n g 2
của công ty
Lắp đặt
Đặc tính
Nhãn hiệu Những lợi
ích cơ bản
Hình
Chỉ tiêu Bố cục
thức
chất bên
ứng
lượng ngoài
dụng
Bảo
hành
Lợi nhuận
Lỗ và vốn đầu tư Giai đoạn thiết Giai đoạn tung ra Giai đoạn Giai đoạn
tính thành tiền kế hàng hóa thị trường phát triển chin muồi
USD
Khối
lượng
bán
Chu kỳ
đầu tiên Chu kỳ
lặp lại
Khuyến mãi
Cao Thấp
Giá Cao Chiến lược hớt váng chớp nhoáng Chiến lược hớt váng chậm
Thấp Chiến lược xâm nhập chớp nhoáng Chiến lược xâm nhập từ từ
Hình 5.3: Bốn chiến lược marketing khi tung sản phẩm ra thị trường
Chiến lược hớt váng chớp nhoáng: là tung sản phẩm ra thị trường với giá cao và
mức khuyến mãi cao. Công ty bán hàng với giá cao để đảm bảo lãi gộp trên đơn vị sản
phẩm ở mức cao nhất. Công ty chi khá nhiều cho việc khuyến mãi nhằm thuyết phục thị
trường và lợi ích sản phẩm ngay cả với giá cao. Hoạt động khuyến mãi ở mức độ cao là
nhằm tăng nhịp độ xâm nhập thị trường. Chiến lược này thích hợp trong một số trường hợp
sau:
- Phần lớn thị trường tiềm ẩn chưa biết đến sản phẩm;
- Những người biết đến đều đánh giá cao sản phẩm và có thể trả giá cao;
- Công ty đứng trước sự cạnh tranh tiềm ẩn và muốn tạo ra sự ưa thích cho
nhãn hiệu
Chiến lược hớt váng từ từ: là việc tung sản phẩm ra thị trường với mức giá cao và
mức khuyến mãi thấp. Giá cao góp phần đạt mức lãi gộp trên đơn vị sản phẩm cao nhất, còn
mức khuyến mãi thấp giữ cho chi phí marketing ở mức thấp. Cách kết hợp này có kỳ vọng
là sẽ hớt được nhiều lợi nhuận trên thị trường. Chiến lược này chỉ thích hợp khi:
- Thị trường có quy mô hữu hạn;
- Phần lớn thị trường đều biết đến sản phẩm đó;
- Người mua sẵn sàng trả giá cao;
- Sự cạnh tranh tiềm ẩn dấu hiệu sắp xảy ra.
Chiến lược xâm nhập chớp nhoáng: là việc tung sản phẩm ra thị trường với mức
giá thấp và chi phí nhiều cho khuyến mãi. Chiến lược này hứa hẹn đem lại nhịp độ xâm
nhập thị trường nhanh nhất và thị phần lớn nhất. Chiến lược này chỉ phù hợp khi:
Xa xỉ Audi, Lexus
Nhu cầu đặc biệt Volvo (An toàn), Porshe (sang trọng)
Sơ đồ này cho thấy rằng bảy mức xác định vị trí cho sản phẩm không cạnh tranh với
nhau, nhưng chỉ có cạnh tranh trong nội bộ từng nhóm. Tuy nhiên cũng có thể có sự cạnh
tranh giữa các đoạn thị trường phân theo giá và chất lượng.
Hình 6.1: Chiến lược giá/ chất lượng
Giá
Nhu cầu càng ít co giãn thì người bán sẽ càng có lợi nhiều hơn khi tăng giá. Yếu tố
nào ảnh hưởng đến tính co giãn của cầu theo giá? Nhu cầu sẽ chắc chắn ít co giãn hơn trong
những tình huống sau:
- Có ít hay không có hàng thay thế của đối thủ cạnh tranh
- Người mua không nhận thấy ngay việc tăng giá
- Người mua chậm thay đổi thói quen mua hàng và không vội tìm kiếm hàng
rẻ hơn
- Người mua cho rằng giá tăng là do tăng chất lượng, do lạm phát…
6.2.3. Xác định chi phí
Nhu cầu là yếu tố chủ yếu quyết định giá trần của giá cả mà doanh nghiệp có thể tính
cho sản phẩm của mình. Còn giá thành của công ty thì quyết định mức giá sàn của giá. Công
ty muốn tính một giá nào đó đủ để trang trải những chi phí của mình sản xuất, phân phối
tiêu thụ sản phẩm, kể cả lợi nhuận chính đáng vì phải mất công sức và gánh chịu rủi ro.
Chi phí của công ty có hai dạng là chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Chi phí cố định (chi phí chung) là những chi phí không thay đổi theo mức độ
sản xuất hay doanh số bán. Chẳng hạn công ty hàng tháng phải thanh toán
những hóa đơn thuê nhà, tiền cung ứng nhiệt, tiền lương của cán bộ điều
hành… không phụ thuộc vào sản lượng của công ty. Chi phí cố định không
thay đổi bất kể là mức độ sản xuất như thế nào.
- Chi phí biến đổi thay đổi tỷ lệ thuận với mức sản xuất.
Tổng chi phí là tổng các chi phí cố định và chi phí biến đổi đối với một mức sản xuất
nhất định bất kỳ nào. Ban lãnh đạo muốn tính giá làm sao để ít ra thì cũng trang trải được
tổng chi phí sản xuất ứng với một mức sản xuất nhất định.
6.2.4. Phân tích giá thành, giá cả và hàng hóa của đối thủ cạnh tranh
Mặc dù nhu cầu của thị trường có thể quy định trần và chi phí của công ty thì quy
định sàn cho việc định giá, giá thành, giá cả của đối thủ cạnh tranh và những phản ứng có
thể về giá của họ vẫn giúp công ty xác định xem giá của mình có thể quy định ở mức độ
nào. Công ty cần phải so sánh giá thành của mình vơi giá thành của đối thủ cạnh tranh để
biết là mình đang ở thế có lợi hay bất lợi về chi phí. Công ty cần phải biết giá cả và chất
lượng hàng hóa của các đối thủ canh tranh. Công ty có thể cử người đi mua hàng của các
đối thủ cạnh tranh để có sự so sánh. Công ty cũng có thể hỏi người tiêu dùng xem họ nhận
thức như thế nào về giá cả và chất lượng hàng hóa của từng đối thủ canh tranh.
Một công ty đã biết giá cả và hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh, thì họ có thể sử dụng
nó làm điểm chuẩn cho việc định giá của bản thân mình. Nếu hàng hóa của cônng ty tương tự
như hàng hóa của một số đối thủ canh tranh quan trọng, thì công ty định giá sát với giá của đối
thủ cạnh tranh hay sẽ bị thiệt về mức tiêu thụ. Nếu hàng hóa của công ty kém hơn thì công ty
Giá thấp Giá của các đối Đánh giá của khách Giá cao
Với giá này Giá thành thủ cạnh tranh và hàng về tính độc Với mức giá này
không thể có lời của hàng thay thế đáo của sản phẩm không thể có nhu cầu
6.2.5.1. Định giá theo cách cộng lời vào chi phí:
Đây là phương pháp định giá sơ đẳng nhất, đó là việc cộng thêm vào chi phí của sản
phẩm một phần phụ giá chuẩn.
Giả sử người sản xuất có chi phí dự kiến và mức tiêu thụ như sau:
- Chi phí biến đổi: 10.000 đ
- Tổng chi phí cố định: 300.000.000 đ
- Số lượng dự kiến tiêu thụ: 50.000 sản phẩm
Yêu cầu: xác định mức giá dự kiến của người sản xuất?
- Chi phí đơn vị sản xuất
Ví dụ: (tiếp tục với tình huống trên) giả sử nhà đầu tư đã bỏ 1 tỷ đồng cho kinh
doanh và muốn ấn định giá làm sao để đảm bảo kiếm được ROI bằng 20%, tức là
200.000.000 đ. Giá ấn định theo lợi nhuận mục tiêu sẽ là:
Giá theo lợi nhuận mục tiêu = 16.000 + 200.000.000/ 50.000 = 20.000 đ
Người sản xuất sẽ thực hiện được ROI là 20% nếu đảm bảo được giá thành và mức
tiêu thụ ước tính là chính xác. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu mức tiêu thụ không đạt được
50.000 đơn vị sản phẩm? Người sản xuất có thể chuẩn bị một đồ thị hòa vốn để biết được
điều gì sẽ xảy ra với những mức tiêu thụ khác nhau.
Nghìn TR
đồng TC
1000
800
Lợi nhuận mục tiêu
600
0
500
30 50 Sản lượng (1000sp)
Khối lượng lợi nhuận mục tiêu (ROI x vốn đầu tư) được xác định bằng khoảng cách
giữa đường tổng doanh thu và đường tổng chi phí. Nó được quyết định bởi khối lượng tiêu
thụ đảm bảo lợi nhuận mục tiêu và mức giá dự kiến tương ứng. Khối lượng tiêu thụ đạt lợi
nhuận mục tiêu được xác định bởi công thức:
Khối lượng bán đạt lợi nhuận Chi phí cố định + Khối lượng lợi nhuận mục tiêu
=
mục tiêu Giá – Chi phí biến đổi đơn vị
Kiểm tra lại thực tế bằng công thức, ta sẽ xác định được khối lượng bán đạt lợi nhuận
mục tiêu:
Phương pháp hòa vốn được sử dụng rất có hiệu quả khi công ty dự đoán chính xác
khối lượng tiêu thụ. Ngoài ra còn cho phép người làm giá có thể xem xét tới mức giá khác
nhau và ước tính được những ảnh hưởng có thể có của chúng đến khối lượng tiêu thụ và lợi
nhuận. Đặc biệt, dựa vào phương pháp này người sản xuất còn có thể dự báo được khoảng
thời gian để có thể đạt được điểm hòa vốn và sau đó kinh doanh có lãi. Song phương pháp
này vẫn được coi là có xu hướng coi nhẹ ảnh hưởng của giá các đối thủ cạnh tranh và tương
đối mạo hiểm vì chưa tính đến độ co giãn của cầu đối với giá.
6.2.5.3. Định giá theo giá trị cảm nhận
Với phương pháp này, các công ty định giá bán của mình căn cứ vào cảm nhận của
người mua về giá trị chứ không phải chi phí mà họ bỏ ra để sản xuất sản phẩm.
Trong trường hợp này các công ty thường xây dựng những biến phi giá cả trong
marketing – mix để tạo nên giá trị cảm nhận được trong suy nghĩ của người mua. Và giá cả
được ấn định theo giá trị cảm nhận này.
Để xác định giá theo giá trị cảm nhận được, người làm giá phải tiến hành các công
việc theo tiến trình sau:
Đối thủ cạnh tranh có giảm Giữ giá của ta ở mức hiện
giá không? nay: tiếp tục theo dõi giá của
đối thủ cạnh tranh
Không Không
Có
Có chắc đó là vệc
Giá đó có chắc chắn gây giảm giá vĩnh viễn Giá đó đã bị cắt giảm bao
thiệt hại đáng kể cho mức không? nhiêu lần?
tiêu thụ của ta không
Có Có
Dưới 2% tính cả phiếu giảm 2-4% giảm giá bằng nửa mức Hơn 4% giảm giá theo giá
giá cho lần mua sau giá của đối thủ cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh
Hình 6.3: Chương trình phản ứng về giá để đáp lại việc cắt giảm giá của đối thủ cạnh tranh
TC
AC =
Q
VC
AVC =
Q
AFC = FC
S K S K
S K S P K
S K S K
Người bán lẻ
Kênh không cấp (còn gọi là kênh marketing trực tiếp): gồm người sản xuất bán hàng
trực tiếp cho khách hàng cuối cùng. Những phương thức marketing trực tiếp chính là bán
hàng lưu động, bán hàng dây chuyền, đặt hàng qua bưu điện, marketing điện thoại, bán hàng
qua Tivi, qua internet và các cửa hàng của người sản xuất.
Kênh một cấp: bao gồm một người trung gian. Trên các thị trường hàng tiêu dùng,
người trung gian này thường là người bán lẻ, còn trên các thị trường hàng tư liệu sản xuất
thì người trung gian thường là đại lý tiêu thụ hay môi giới.
Kênh hai cấp: bao gồm hai người trung gian. Trên các thị trường hàng tiêu dùng,
những người trung gian này thường là những người bán buôn và những người bán lẻ. Trên
thị trường hành tư liệu sản xuất thì có thể là nhà phân phối hay đại lý công nghiệp.
Kênh ba cấp: bao gồm ba trung gian, giữa người bán buôn và người bán lẻ có một
người bán buôn nhỏ. Những người bán buôn nhỏ mua hàng của những người bán buôn lớn
để bán lại cho những của hàng bán lẻ nhỏ mà thông thường là những người bán buôn lớn
không phục vụ.
Ngoài ra, trong thực tế các doanh nghiệp có thể sử dụng các kênh có nhiều cấp hơn.
Song các nhà sản xuất nhận thấy rằng việc sử dụng kênh phân phối quá dài thì mức độ kiểm
soát hệ thống phân phối của họ thường không cao.
Đối với những kênh phân phối hàng tư liệu sản xuất, người sản xuất hàng tư liệu sản
xuất có thể sử dụng những lực lượng bán hàng của mình để bán hàng trực tiếp cho các
khách hàng công nghiệp. Họ cũng có thể bán hàng cho những người phân phối hàng tư liệu
sản xuất để những người này bán lại cho các khách hàng công nghiệp. Họ cũng có thể bán
qua những đại diện người sản xuất hay sử dụng họ để bán hàng cho nhà phân phối tư liệu
Khái niệm về kênh không chỉ giới hạn trong việc phân phối hàng hóa hiện vật.
Những người cung ứng dịch vụ và ý tưởng cũng vấp phải vấn đề đảm bảo đưa hàng của
mình đến với các công chúng mục tiêu. Họ xây dựng “những hệ thống truyền bá tri thức” và
“những hệ thống đảm bảo sức khỏe”. Để có thể đến với công chúng rải rác trên địa bàn rộng
lớn, họ phải cân nhắc việc tổ chức và bố trí các cơ quan đại diện của mình.
7.3. Quyết định thiết kế kênh
Bây giờ ta sẽ xem xét một số vấn đề về kênh mà những người sản xuất phải giải
quyết. Khi thiết kế các kênh marketing thì người sản xuất phải đấu tranh giữa những cái là
lý tưởng, những cái là khả thi và những cái sẵn có. Việc thết kế hệ thống kênh đòi hỏi phải
phân tích nhu cầu khách hàng, xác định những mục tiêu của kênh, xây dựng những phương
án chính của kênh rồi đánh giá chúng.
7.3.1. Phân tích mức độ đảm bảo dịch vụ mà khách hàng mong muốn
Khi thiết kế các kênh marketing thì bước đầu tiên là phải tìm hiểu xem khách hàng
mục tiêu mua những thứ gì, mua ở đâu và tại sao mua như thế. Người làm marketing phải
nắm được những mức độ đảm bảo dịch vụ mà khách hàng mục tiêu mong muốn. Các kênh
đảm bảo năm chỉ tiêu dịch vụ sau:
Quy mô lô: quy mô là số đơn vị sản phẩm mà kênh marketing cho phép một khách
hàng tiêu biểu mua trong một đợt. Khi mua ôtô cho đội xe của mình Hertz thích một kênh
đảm bảo có thể mua được một lô lớn, còn hộ gia đình thì chỉ muốn có một kênh cho phép
mua với quy mô lô là một chiếc. Rõ ràng là cần phải thành lập những kênh khác nhau cho
người mua xe cho đoàn xe và người mua chiếc xe cho gia đình. Quy mô lô càng nhỏ thì
mức độ dịch vụ mà kênh phải đảm bảo càng cao.
Thời gian chờ đợi: là thời gian trung bình mà khách hàng của kênh phải chờ để nhận
hàng. Khách hàng thường thích những kênh giao hàng nhanh. Dịch vụ càng nhanh đòi hỏi
mức độ đảm bảo dịch vụ càng lớn.
Địa điểm thuận tiện: thể hiện mức độ kênh marketing tạo điều kiện dễ dàng cho khách
hàng mua sản phẩm. Điều kiện thuận tiện về địa điểm sẽ tăng thêm khi sử dụng marketing
trực tiếp.
Phòng tiêu thụ kiêm các chức năng marketing: khi công ty mở rộng để phục vụ
những loại khách hàng mới hay địa bàn mới, nó cần phải tăng cường các chức năng
marketing nhất định, không liên quan đến tiêu thụ.
Giám đốc
Phòng marketing riêng biệt: sự phát triển của doanh nghiệp đã làm tăng tiềm năng
đầu tư có lợi vào chức năng marketing khác, như nghiên cứu marketing, phát triển sản phẩm
mới, quảng cáo và kích thích tiêu thụ, dịch vụ phục vụ khách hàng, có liên quan với hoạt
động của lực lượng bán hàng. Tuy vậy, phó giám đốc tiêu thụ vẫn dành một thời gian và
nguồn tài nguyên không tương xứng cho lực lượng bán hàng. Phó giám đốc marketing sẽ
yêu cầu nhiều nguồn tài nguyên hơn, thế nhưng thông thường vẫn chỉ nhận được ít hơn mức
cần thiết. Đôi khi giám đốc marketing cũng thoát khỏi được những trở ngại đó.
Giám đốc
Phòng marketing hiện đại: Mặc dù các phó giám đốc tiêu thụ và phó giám đốc
marketing cần phải làm việc hài hòa với nhau, mối quan hệ của họ đôi khi bị căng thẳng và
có những trục trặc. Nếu có quá nhiều trục trặc giữa tiêu thụ và marketing, giám đốc có thể
giao trở lại hoạt động marketing cho phó giám đốc tiêu thụ, hay chỉ thị cho phó giám đốc
điều hành xử lý những mâu thuẫn phát sinh, hay giao cho phó giám đốc marketing phụ trách
tất cả mọi thứ, kể cả lực lượng bán hàng. Cách giải quyết này tạo cơ sở cho phòng
marketing hiện đại, một phòng đặt dưới quyền lãnh đạo của phó giám đốc điều hành
1. Kiểm tra Ban lãnh đạo tối cao Kiểm tra xem có đạt Phân tích mức tiêu thụ
kế hoạch Ban lãnh đạo cấp được những kết quả dự Phân tích thị phần
năm. trung gian kiến không
Tỷ số doanh số bán trên
chi phí
Phân tích tài chính
Theo dõi mức độ hài lòng
2. Kiểm tra Người kiểm tra Kiểm tra xem công ty lời Khả năng sinh lời của:
khả năng marketing hay lỗ Sản phẩm
sinh lời
Địa bàn
Khách hàng
Đoạn thị trường
Kênh thương mại
Quy mô đơn hàng
3. Kiểm tra Ban lãnh đạo cơ sở Đánh giá và nâng cao Hiệu suất của:
hiệu suất và đội ngũ quản lý hiệu suất chi phí và tác Lực lượng bán hàng
người kiểm tra dụng của chi phí
marketing marketing Quảng cáo
Kích thích tiêu thụ
Phân phối
4. Kiểm tra Ban lãnh đạo tối cao Kiểm tra xem công ty có Công cụ đánh giá hiệu quả
chiến lược Người kiểm tra bắt kịp những cơ hội tốt marketing
marketing trên sổ nhất của mình về thị Kiểm tra sổ sách marketing
sách trường sản phẩm và các
kênh không Xem xét lại thành tích xuất
sắc của marketing
Xem xét trách nhiệm đạo
đức và xã hội của công ty