You are on page 1of 14

Trường Đại học Ngoại thương

Viện Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế


-------------------------------------------------------

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Phân tích nguồn gốc của giá trị thặng dư. Vai trò của người lao động

HỌ TÊN: HOÀNG THANH GIANG


LỚP: TRI115E (58-1/1920).1_LT
MSV: 1911140523
SBD: 30
Giảng viên giảng dạy: TS. Vũ Thị Quế Anh
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 2
1. Lời dẫn.....................................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................2
4. Kết cấu nội dung tiểu luận........................................................................................2
B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN...........................................................................................3
Chương I: Nguồn gốc giá trị thặng dư................................................................................3
1. Định nghĩa................................................................................................................3
2. Nguồn gốc giá trị thặng dư.......................................................................................3
2.1. Hoàn cảnh hình thành giá trị thặng dư...............................................................3
2.2. Quy luật giá trị thặng dư....................................................................................3
2.2.1. Nội dung của quy luật giá trị thặng dư...............................................................3
2.2.2. Vai trò của quy luật giá trị thặng dư..................................................................4
2.3. Nguồn gốc giá trị thặng dư................................................................................5
3. Tiểu kết.......................................................................................................................7
Chương II: Vai trò của người lao động..............................................................................7
1. Định nghĩa................................................................................................................7
2. Vai trò của người lao động.......................................................................................7
2.1 Quan điểm của Karl Mark với người lao động..................................................7
2.2 Các quan điểm khác..........................................................................................9
2.3 Bảo vệ quan điểm của Karl Mark..........................................................................9
C. KẾT LUẬN...............................................................................................................13

A.

1
A. MỞ ĐẦU
1. Lời dẫn

Chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ đơn sơ đến phức tạp, từ tự
do đến có sự can thiệp của nhà nước. Dù ở giai đoạn nào, mục đích cuối cùng của tư bản
vẫn không bao giờ thay đổi, đó là tối đa hóa lợi nhuận. Tư bản đạt được điều này qua
nhiều phương thức, nhưng câu trả lời thực sự chỉ có một: giá trị thặng dư. Ngày nay, giữa
sự phát triển manh mẽ của Internet và các sản phẩm công nghệ cao, những nhà tư bản vẫn
duy trì được hoạt động sản xuất hay giao thương, lại có phần lợi nhuận nhằm tiêu dùng
và tích lũy, tất cả là nhờ vào phần giá trị thặng dư đó.

Trên bề mặt, giá trị thặng dư dường như là một điều kì diệu bởi nguyên nhân ít được
công bố của nó. Đề án này nhằm phân tích nguồn gốc của giá trị thặng dư, đồng thời
chỉ ra vai trò của người lao động.

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu và làm rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư. Bên cạnh đó, chỉ ra vai trò của người
lao động, nhất là trong việc tạo ra giá trị thặng dư. 

3. Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận sử dụng các tài liệu, dữ liệu thu thập được từ Internet. Từ đó, tiến hành tổng
hợp, phân tích, suy luận, đánh giá, kết luận về hai vấn đề nêu trên. 

4. Kết cấu nội dung tiểu luận

Bài tiểu luận gồm hai chương, không kể phần mở đầu và kết luận.

Chương I: Nguồn gốc giá trị thặng dư

Chương II: Vai trò của người lao động

2
B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN

Chương I: Nguồn gốc giá trị thặng dư

1. Định nghĩa

Chính cái tên của “giá trị thặng dư” đã thể hiện định nghĩa của nó khá rõ ràng. Giá trị
thặng dư được Karl Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư
bản bỏ ra. Tuy vậy, chỉ định nghĩa không thể bao quát hết nguồn gốc của giá trị thặng dư
và mối liên hệ giữa nó và lợi nhuận của tư bản. Vì vậy, chúng ta sẽ đi sâu hơn về cách tư
bản đã sinh ra giá trị thặng dư.

2. Nguồn gốc giá trị thặng dư


2.1. Hoàn cảnh hình thành giá trị thặng dư

Chủ nghĩa tư bản ra đời như một bậc thang tất yếu trong sự phát triển của loài
người. Các nhà tư bản có chung một mục đích là tối đa hóa lợi nhuận. Để việc đó có thể
xảy ra, lợi nhuận phải tồn tại đã. Lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư.

Chủ nghĩa tư bản ra đời nguyên nhân sâu xa là do tác động của quy luật giá trị,
nguyên nhân trực tiếp là quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản. Quá trình ra đời đó đánh
dấu bằng sự ra đời của hàng hóa sức lao động. Những thành tựu, tài sản của xã hội tư bản
đặc biệt là giai cấp tư sản có được về cơ bản có nguồn gốc từ lao động của toàn thể giai
cấp công nhân tạo ra, thực chất là giá trị trặng dư do lao động của công nhân làm thuê tạo
ra trong các xí nghiệp nhà tư bản toàn bộ giai cấp tư sản chiếm đoạt.

2.2. Quy luật giá trị thặng dư

2.2.1. Nội dung của quy luật giá trị thặng dư

Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản phản ánh mối quan hệ
kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo Karl Mark, quy luật giá trị thặng
dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không có sản
xuất gái trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản.

3
Nội dung của quy luật giá trị thặng dư là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị
thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường
xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy vận
động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội
cao hơn.

Quy luật giá trị thặng dư không những chỉ vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt mục đích như: tăng cường
bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động,
tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản, đó là mâu
thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.

2.2.2. Vai trò của quy luật giá trị thặng dư


Quyết định mục đích, bản chất, nguyên tắc phân phối cơ bản và phương hướng
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chi phối các quy luật kinh tế khác, hướng sự hoạt động của các quy luật kinh tế này phục
vụ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội tư bản. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ thuật, phân công
lao động xã hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên nhanh
chóng và nền sản xuất được xã hội hóa cao. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất ngày càng sâu sắc, quy định xu hướng lịch sử tất yếu phải thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng một xã hội mới cao hơn.

4
2.3. Nguồn gốc giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư là giá trị mới do công nhân lao động làm thuê tạo ra trong sản
xuất ngoài giá trị sức lao động bị nhà tư bản chiếm không, đó chính là lao động không
công của công nhân.

Sở dĩ, toàn bộ giai cấp tư sản chiếm đoạt được toàn bộ giá trị thặng dư là dựa trên
cơ sở của nó. Đó là, nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Đó không phải là nền sản xuất
hàng hóa thông thường mà là nền sản xuất hàng hóa có chứa giá trị thặng dư, là nền sản
xuất thống nhất giữa giá trị, giá trị sử dụng, và giá trị thặng dư.

Karl Mark đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư, rằng:
"Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó
người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần
thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những
tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất".

Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột người lao động không có tư liệu sản
xuất, được thực hiện dưới những hình thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã
hội khác nhau. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về thân
thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ còn bị chiếm
một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế độ phong kiến, giai cấp
nông nô đã có một phần tự do về thân thể đối với giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao
động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần
thiết được phân chia rõ ràng. Bởi vậy, theo Karl Mark cơ chế bóc lột thời phong kiến có
nhiều tiến bộ hơn chiếm hữu nô lệ. Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai
cấp độc chiếm tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột
trong hai hình thái kinh tế - xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế bóc lột
tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật
ngang giá (tức tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong một cơ
chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế

5
học trước Karl Mark đã không thành công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ
nghĩa, đồng thời không lý giải được nguồn gốc của giá trị thặng dư trong xã hội tư bản.
Cụ thể là không phân biệt được việc mua bán hàng hóa sức lao động, chỉ có thể nhận thức
mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên gặp bế tắc trong
việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận, cũng như nguồn gốc
bản chất của giá trị thặng dư. Cũng từ đó không thể giải quyết được mâu thuẫn của công
thức chung tư bản.

Và với bản chất của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa hình thành hai giai
cấp cơ bản trong xã hội tư bản đó là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Để sản xuất ra
giá trị thặng dư thì nền sản xuất đó phải có hai yếu tố cơ bản là tư liệu sản xuất và sức lao
động của công nhân, trong đó sức lao động của công nhân là yếu tố quyết định của quá
trình sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản. Trong xã hội, công nhân là
lực lượng đông đảo nhất, lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất trong các xí
nghiệp nhà tư bản. Như vậy, nguồn gốc giá trị thặng dư trong xã hội tư bản là giá trị mới
ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị toàn
bộ giai cấp tư sản chiếm không, mà không phải do giai cấp tầng lớp nào khác, thông qua
quan hệ hàng hóa - tiền tệ với quá trình mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa
sức lao động.

Thông qua lý luận về lợi nhuận bình quân cho thấy, toàn bộ giai cấp công nhân
chiếm đoạt giá trị thặng dư hay bóc lột lao động không công toàn bộ giai cấp công nhân,
thậm chí một người công nhân cũng bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Chính vì vây, giai
cấp công nhân phải biết liên kết lại trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh cả trong lĩnh vực
kinh tế và chính trị, không thể đơn thuần chỉ đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế và không
đoàn kết thống nhất như hiện nay.

Đồng thời với quá trình phát triển lực lượng sản xuất thì phải hoàn thiện quan hệ
sản xuất, xóa bỏ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đây là một quá trình lâu dài,
chuyển biến từ nền sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, không thể thực hiện ngay một lúc.
Hiện nay, việc đấu tranh chống tăng ca, đòi tăng lương các doanh nghiệp FDI ở các tỉnh

6
phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương…cần phải theo pháp luật, phát huy vai trò của
Công đoàn, nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công nhân đối với doanh
nghiệp.

3. Tiểu kết

Như vậy, nguồn gốc giá trị thặng dư trong xã hội tư bản là do sức lao động của
toàn thể giai cấp công nhân tạo ra bị toàn thể giai cấp tư sản chiếm đoạt. Để xóa bỏ sự
chiếm đoạt giá trị thặng dư trong xã hội tư bản thì toàn thể giai cấp công nhân phải liên
hiệp lại, đấu tranh cả về kinh tế và chính trị. Nước ta trong thời kỳ quá độ, đi lên từ một
nước nông nghiệp lạc hậu không phải kinh qua chủ nghĩa tư bản thì sản xuất thật nhiều
sản phẩm thặng dư là khách quan. Chúng ta cần phải học tập chủ nghĩa tư bản về khoa
học công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại để thúc đẩy sản xuất, tăng năng suất lao
động, tạo ra nhiều giá trị mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội.

Chương II: Vai trò của người lao động

1. Định nghĩa

Người lao động là những người có tự do, trong độ tuổi lao động, tự nguyện làm việc
cho tư bản. Họ bán một loại hàng hóa đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động.

2. Vai trò của người lao động

2.1 Quan điểm của Karl Mark với người lao động

Karl Mark chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn hình vạn trạng,
không thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu. Ông nói: "Nếu bóc tách riêng giá trị sử
dụng của hàng hoá ra, hàng hoá chỉ còn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động".
Tức là, giá trị của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Cho nên,
chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt buộc phải tìm
trên thị trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có một thuộc tính đặc biệt làm

7
nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó đồng thời là quá trình tạo ra giá trị. Loại hàng hoá
đặc thù đó chính là sức lao động của con người. Điều cần lưu ý "lao động" và "sức lao động" là
hai khái niệm không giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử
dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị. Giá trị của bản thân sức lao
động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức giá trị chi phí trang trải sinh hoạt mà
công nhân và người nhà của họ cần đến) trong xã hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà
tư bản mua lại sức lao động theo giá trị sức lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền sử dụng
sức lao động đó trong sản xuất, và cưỡng bức người lao động phải làm việc cả ngày. Ví dụ như
để họ làm việc 12 tiếng, thì trong vòng 6 tiếng (thời gian lao động "bắt buộc"), người lao động đã
có thể tạo ra sản phẩm đủ bù cho chi phí đời sống của họ, 6 tiếng còn lại (thời gian lao động "dư
thừa") họ tạo ra sản phẩm "dư thừa" mà nhà tư bản không phải trả thù lao nữa, tức là giá trị thặng
dư.

Trong lịch sử loài người, do có lao động thặng dư mới sinh ra khả năng bất bình đẳng, người
bóc lột người. Karl Mark chỉ rõ: lao động thặng dư không phải xuất hiện từ khi có tư bản. Trong
xã hội được tạo nên bởi kẻ bóc lột và người bị bóc lột, giai cấp thống trị đều thu được lao động
thặng dư trên thân thể của số đông người lao động bị bóc lột ông nói: "Sự phân biệt các kiểu hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội nô lệ và xã hội thuê mướn lao động, chỉ là các hình
thức khác nhau của việc tước đoạt lao động thặng dư trên thân thể người sản xuất, người lao
động". Đặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là ngày càng bóc lột nhiều hơn lao
động thặng dư.

Chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là xã hội sở hữu tư nhân tư bản, về mặt bóc lột lao động
thặng dư, nó không khác gì về bản chất so với chủ nghĩa tư bản tự do, bởi sự phân tích của Karl
Mark đã được cơ bản thực hiện một cách tổng thể đối với chủ nghĩa tư bản, nên vẫn còn thích
hợp với chủ nghĩa tư bản đương đại. Nhưng, do sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện đại
cùng những ngành nghề sản xuất dựa trên nó, quá trình tự động hoá trong sản xuất tạo ra hiện
tượng vai trò của lao động trực tiếp của người lao động ngày càng mờ nhạt. Vì thế, có ý kiến cho
rằng, lý luận về giá trị lao động và học thuyết thặng dư của Karl Mark nhằm vạch trần thực chất
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và mất tác dụng.

2.2 Các quan điểm khác

8
Sự thật là, các nguyên lý của Karl Mark đã được viết từ rất lâu, trong bối cảnh kinh tế xã hội rất
khác ngày nay. Nền kinh tế đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều, nhiều ngành nghề mới đã xuất
hiện. Ngày nay, rất nhiều nhà tư bản phát triển lên từ những công ty khởi nghiệp. Chắc chắn
rằng, những nhà tư bản này, những “người chủ” được coi là bóc lột và lừa lọc, họ cũng phải làm
việc. Họ phải tính toán các hướng đi của doanh nghiệp, cũng như duy trì bộ máy hoạt động hiệu
quả. Họ là người chịu mọi sự thua lỗ. Tất nhiên, trong trường hợp tư bản vận hành trơn tru, họ là
người có được lợi ích đó. Nhưng điều đó không hề thường xuyên: gần như mọi công nhân được
đào tạo đều có việc làm, còn phần lớn các khởi nghiệp (lên đến 70% trong 10 năm đầu) thất bại.
Yếu tố rủi ro có nên được định giá? Để làm được những điều đó thì họ, cũng giống như người
lao động cần có sự đào tạo, thậm chí đào tạo tốn kém hơn người lao động trung bình. Nếu sức
lao động trí óc cũng được trân trọng, chúng ta có nên coi những nhà tư bản như đang bán hoàng
hóa sức lao động của bản thân? Liệu lý thuyết cũ vẫn có thể áp dụng?

Người đại biểu cho học phái Fankfurt, Marcuse, tin rằng: sự phát triển nhanh chóng của khoa
học - kỹ thuật dần dần tự động hoá sản xuất, "khiến số lượng và cường độ của thể lực cần tiêu
hao trong sản xuất ngày càng giảm đi". "Sự thay đổi này dường như đánh đổ khái niệm "cấu
thành hữu cơ tư bản" và lý luận về sự hình thành giá trị thặng dư của Karl Mark. Ngày nay, tự
động hoá dường như đã làm thay đổi về tính chất quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động
sống, nó đã đạt đến mức cái quyết định sức sản xuất "không còn là hàng hoá riêng lẻ, mà là máy
móc". Hơn nữa, "việc đo lường chuẩn xác hàng hoá riêng lẻ đã biến thành việc không thể có".
Hoặc như nhà triết học nổi tiếng người Đức - Habermas cũng tuyên bố. "Khi sự tiến bộ của khoa
học - kỹ thuật biến thành một thứ nguồn giá trị thặng dư độc lập, mà lại dựa vào nền tảng giá trị
sức lao động giản đơn để tính toán tổng mức đầu tư tư bản trên phương diện nghiên cứu và phát
triển, là việc làm không mấy ý nghĩa, hơn nữa, nếu đem so với nguồn giá trị thặng dư độc lập ấy,
thì nguồn giá trị thặng dư mà Karl Mark rút ra qua khảo sát, tức sức lao động của người sản xuất
trực tiếp, càng ngày càng trở nên không quan trọng nữa". Vì thế, ông cho rằng, "điều kiện để vận
dụng học thuyết giá trị lao động của Karl Mark đã bị mất đi".

2.3 Bảo vệ quan điểm của Karl Mark

Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, tiến hành tự động hoá sản xuất đã thúc đẩy sức sản
xuất tăng cao không ngừng. Trong sản xuất lớn hiện đại hoá, người sản xuất đã coi các bộ phận,

9
khí quan của cơ thể mình như một thành phần của hệ thống tự động hoá, khiến cho việc dùng sức
lực trực tiếp cho sản xuất ngày càng ít đi rất nhiều, có những ngành mà người sản xuất trực tiếp
biến thành người quản lý, người điều tiết quá trình sản xuất. Vậy trong tình hình ấy, lý luận giá
trị lao động của Karl Mark có còn phù hợp với chủ nghĩa tư bản đương đại không, nguyên lý lao
động tạo ra giá trị có phải đã quá thời, mất đi tác dụng? Chúng ta cần có những thay đổi gì để
nguyên lý này vẫn áp dụng cho ngày nay?

Trong nền sản xuất tương lai, vai trò của yếu tố trí tuệ ngày càng gia tăng, trong các xã hội tri
thức nói chung, nó sẽ càng có khả năng chuyển biến thành sức sản xuất trực tiếp Karl Mark đã
nhìn thấy trước viễn cảnh phát triển như vậy của sản xuất. Nhưng sau khi suy tư về viễn cảnh
phát triển sản xuất đó, ông vẫn kiên trì quan điểm lao động sáng tạo giá trị. Dưới đây, chúng ta
sẽ xem xét lý do mà ông nêu ra là gì.

Điều cần chú ý là, quá trình sản xuất lớn hiện đại hoá vẫn phải trông cậy vào người sản xuất
cầm cương điều khiển, sự tăng trưởng của giá trị hàng hoá vẫn chủ yếu dựa vào người sản xuất,
chứ không phải tư bản và máy móc. Karl Mark từng nói rằng, "... Tư bản chỉ có một loại bản
năng sống, đó là làm cho bản thân sinh sôi, đoạt lấy giá trị thặng dư, sử dụng bộ phận bất biến
của mình là tư liệu sản xuất để vơ vét hết khả năng lao động thặng dư. Tư bản là lao động chết,
nó giống như con quỷ hút máu, chỉ có hút máu lao động sống nó mới có sinh mệnh, hút được
càng nhiều lao động sống bao nhiêu thì sức sống của nó càng mạnh mẽ bấy nhiêư”. Hệ thống cơ
khí tự động hoá chỉ vỏn vẹn là công cụ của lao động sản xuất, nó là tư bản bất biến, nếu như
không có người sản xuất sử dụng nó vào trong quá trình sản xuất, thì nó chẳng những không có
cách gì để chuyển dịch giá trị tự thân của mình, chứ đừng nói đến việc làm sinh sôi được giá trị
hàng hoá.

Ứng dụng của khoa học - kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tiến hành tự động hoá sản xuất chỉ
biểu hiện kết cấu sức lao động đã có sự biến chuyển lớn. Giá trị hàng hoá sinh sôi càng ít dựa
vào lao động thể lực của người sản xuất, thì lại dựa càng nhiều vào lao động trí óc của họ. Lao
động thể lực của công nhân giảm đi, nhưng lao động trí óc họ phải bỏ ra nhiều hơn. Việc tạo ra
giá trị hàng hoá công nghệ cao thể hiện trong tất cả quá trình nghiên cứu, thiết kế, sản xuất và
tiêu thụ. Trong toàn bộ quá trình đó, khoa học - kỹ thuật, tri thức, thông tin phát huy vai trò to
lớn, nhưng suy đến cùng, chúng đều là sản phẩm của lao động trí óc mang tính sáng tạo của con

10
người. Do đó, tình hình mới của phát triển sản xuất không hề làm thay đổi sự thực là lao động
tạo ra giá trị.

Đồng thời, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện đại chỉ thúc đẩy sự thay đổi của cấu
thành hữu cơ (tỉ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến) trong tư bản, chứ không thể thay đổi
thực tế sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn phải dựa vào việc theo đuổi giá
trị thặng dư. Hơn nữa, khi người lao động trí óc sáng tạo và sử dụng khoa học - kỹ thuật, họ cũng
phải bỏ ra rất nhiều lao động. Trong quá trình sản xuất hiện đại hoá, số lượng người lao động trí
óc tăng lên rất nhiều, họ cũng bị nhà tư bản thuê, sáng tạo một lượng lớn giá trị thặng dư. Từ đó
để thấy rằng, lý luận giá trị thặng dư của Karl Mark không hề lỗi thời và mất đi tác dụng.

Trong thời đại cách mạng công nghiệp, Karl Mark vẫn chưa thể bóc tách riêng lao động trí óc
ra, chuyên đi sâu nghiên cứu vai trò của nó trong việc tạo ra giá trị. Đây là chủ đề mà trước mắt
chúng ta cần cấp thiết nghiên cứu. Những năm 60 của thế kỷ XX tới nay, tri thức khoa học tăng
trưởng rất lớn, sự thẩm thấu và kết hợp lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giữa
khoa học và kỹ thuật khiến cho khoa học - kỹ thuật hiện đại trở thành một hệ thống tri thức thống
nhất với nhiều bộ môn khoa học và nhiều tầng bậc chuyên môn. Trong lịch sử, tri thức luôn là
một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước đến nay chưa hề có nhiều lao
động tri thức như bây giờ, và cũng chưa từng có việc truyền bá tri thức nhanh như bây giờ thông
qua máy tính và mạng internet. Nhìn chung, cung cấp tri thức không gây ra cho người cung cấp
sự nghèo đói, mà ngược lại, chia sẻ tri thức thường lại có thể là nguồn gốc đem lại sự giàu có.
Tri thức hiện tại được coi như một động lực thúc đẩy cho sự phát triển sức sản xuất và tăng
trưởng kinh tế.

Năm 1962, nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Fritz Marchlup đã đưa ra khái niệm mới về
ngành "công nghiệp tri thức", trình bày vai trò quan trọng của thông tin và tri thức trong việc làm
giàu. Nhà xã hội học nổi tiếng Alexander Graham Bell gọi xã hội hậu công nghiệp là "xã hội tri
thức", cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của nó là "tri thức lý luận chiếm vai trò
trung tâm". Ông còn cho rằng, cần phải để tri thức trở thành hạt nhân cho phát triển kinh tế. Năm
1982, nhà tương lai học người Mỹ - John Naisbitt coi thuyết giá trị lao động ra đời trong thời
điểm sơ kỳ của kinh tế công nghiệp đã không còn phù hợp với nền kinh tế thông tin đang đến
gần. Hiện nay "cần thiết phải tạo ra thuyết giá trị tri thức thay thế cho thuyết giá trị lao động".

11
Phải thừa nhận rằng, lao động trí óc là nguồn gốc quan trọng của sức sản xuất phát triển, nó
cũng tạo ra giá trị. Trong điều kiện của cách mạng khoa học - kỹ thuật và sản xuất hiện đại hoá,
lao động trí óc của con người và thành quả của nó (tri thức) trong quá trình tạo ra sự giàu có và
giá trị đã phát huy vai trò ngày càng quan trọng. Bây giờ xem ra trong quá trình sản xuất vật
chất, vai trò của ba yếu tố lao động, tư bản và đất đai không phải là quan hệ ngang hàng nữa. Mà
trong đó, lao động là yếu tố sản xuất quan trọng nhất, hai yếu tố còn lại bị phụ thuộc vào nó. Mà
trong yếu tố sản xuất lao động này, lao động tríóc và thành quả của nó (tri thức) lại là nguồn gốc
chủ yếu làm nên sự giàu có và giá trị.

Tuy vấn đề “lao động trí óc” được đề xuất bởi một số học giả, Karl Mark cũng không quên
đặt ra tầm nhìn của mình với nó. Ông nói: "Việc đánh giá sản phẩm của lao động trí óc, tức là
khoa học, đều thấp hơn giá trị của nó rất nhiều, bởi vì thời gian lao động bắt buộc để tái sản xuất
khoa học không thể đem so được với thời gian lao động cần thiết của sản xuất khoa học lúc ban
đầu, ví như học sinh trong 1 giờ đồng hồ có thể nắm được hai dạng thức định lý". Gần đây, nhà
kinh tế học trứ danh Joseph E. Stiglitz cũng thừa nhận, một khi tri thức được phát hiện và công
khai, số lượng người sử dụng nó càng gia tăng khiến cho vốn liếng (tri thức) trở thành không giới
hạn.

Như vậy, hàng hoá tri thức, hàng hoá thông tin tuy không giống với hàng hoá vật chất trên
nhiều mặt, nhưng chúng đều là sản phẩm của lao động của con người trong xã hội có phân công
lao động, đều là sản phẩm do lao động của nhân loại đã bỏ ra mới có được giá trị. Cái gọi là giá
trị tri thức chính là lao động loài người kết tinh trong hàng hoá tri thức, hàng hoá thông tin. Trên
cơ sở cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là thành tựu của cuộc cách mạng
thông tin, chúng ta có thể căn cứ vào nguyên lý cơ bản, thuyết giá trị lao động của Karl Mark để
phân tích, nghiên cứu sâu hơn giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá tri thức, hàng hoá thông tin,
từ đó phát triển hướng giải quyết hợp vấn đề mang tính thời đại này.

C. KẾT LUẬN

12
Giá trị thặng dư có nguồn gốc từ hàng hóa sức lao động. Các nhà tư bản nắm rõ điều này và
dùng nó để tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì thế, người lao động là nhân tố tối quan trọng trong
nền kinh tế. Chúng ta cũng cần nhìn nhận một cách khách quan các quan điểm phản đối học
thuyết của Karl Mark, dùng chúng để cải thiện cách nhìn của bản thân thay vì bài xích hoàn
toàn các ý kiến này. Việc sẵn sang mở rộng, tiếp nhận thông tin là tinh thần của khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
123doc.org

Tài liệu Tiếng Anh


Wikipedia.org
Quora.com

13

You might also like