Professional Documents
Culture Documents
I. Khái Quát Chung
I. Khái Quát Chung
1. Tên gọi:
• Người Lô Lô (theo cách gọi ở Việt Nam
và Thái Lan) hay người Di theo cách gọi
ở Trung Quốc, ngoài ra còn có các tên
gọi khác như: Mùn Di, Màn Di, La La,
Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn, người
Yi trong nhiều văn liệu quốc tế, là
một sắc tộc có vùng cư trú truyền thống
là tiểu vùng nam Trung Quốc - bắc bán
đảo Đông Dương.
• Căn cứ vào trang phục, thổ âm và một
số đặc trưng văn hóa, người Lô Lô ở
VN được chia thành 2 nhóm: Lô Lô
Đen- Màn Dì No và Lô Lô Hoa- Màn Dì
Qua hay Mà Dì Pu.
2. Dân số:
• Người Lô Lô là một trong số 54 dân tộc
ở Việt Nam với số dân 4.827 người theo
Điều tra dân số 2019. Người Lô Lô cũng
là một trong số các dân tộc thiểu số ở
Thái Lan, Lào và Trung Quốc.
3. Phân bố:
• Ở Việt Nam, địa bàn cư trú của dân tộc
Lô Lô ở Việt Nam chủ yếu ở các huyện
Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang),
Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), hay Mường
Khương (tỉnh Lào Cai) và Lai Châu.
• Ở Trung Quốc, họ sống chủ yếu ở các
vùng nông thôn, vùng núi thuộc các tỉnh
Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và Khu
tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.
4. Lịch sử hình thành:
• Người Lô Lô có truyền thuyết: có 7 anh
em trai, trong đó có 3 người từ Vân
Nam (Trung Quốc) đi sang Việt Nam tìm
nơi làm ăn sinh sống. Trên đường đi có
một người bị lạc, còn lại 2 người đến
đất Đồng Văn đầu tiên ( trước đây Mèo
Vạc thuộc huyện Đồng Văn). Người
anh ở lại Đồng Văn, còn người em đi
tiếp sang cùng Tây Nam Bảo Lạc. Ngày
nay, tuy vùng Tây Nam Bảo Lạc không
còn người Lô Lô cư trú, nhưng ở vùng
này vẫn còn những mộ táng người Lô
Lô, có địa danh gắn liền với tên dân tộc
Lô Lô như Pác Mìa.
• Một truyền thuyết khác kể rằng: ngày
xửa ngày xưa có một đôi vợ chồng
người Lô Lô đi tìm đất hoang vu để khai
khẩn làm ăn. Họ đi mãi từ ngày này qua
ngày khác, từ miền đất nọ đến miền đất
kia. Họ đến một cùng núi đá, ngủ đêm
tại đó. Đêm ngủ, người vợ nằm mơ thấy
một cụ già hiện ra bảo rằng: đây là nơi
đất lành, làm ăn ở đây sẽ có cuộc sống
no đủ và hạnh phúc. Các con hãy dừng
chân ở đây và đi 2 chiếc giày này, giẫm
đến đâu sẽ thành ruộng đến đó. Nói rồi
ông lão biết mất, hôm sau tỉnh dậy thấy
2 chiếc giày ở đó, một chiếc to một
chiếc nhỏ đặt ngay dưới chân 2 vợ
chồng. Người vợ kể chuyện giấc mơ
cho chồng nghe. Người chồng nửa tin,
nửa ngờ nhưng cũng làm theo lời vợ, xỏ
chân vào giày. Người chồng xỏ chân
vào chiếc giày nhỏ, người vợ xỏ chân
vào chiếc giày to. Họ giẫm chân khắp
thung lũng Mèo Vạc, những nơi 2 bàn
chân của vợ chồng giẫm đến đã trở
thành những thửa ruộng to, nhỏ khác
nhau. Có chỗ người vợ giẫm mạnh tạo
thành ao to, ao nhỏ. Ao to nhất là ao
cạnh cây đa thuốc xóm Chúng Pả mà
người Lô Lô gọi là Mà Vàng (tên 2 vợ
chồng khai khẩn đất này đặt cho).
• Như vậy, về nguồn gốc lịch sử, họ có
quan hệ chặt chẽ với người Di ở Trung
Quốc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
người Lô Lô từ Vân Nam di cư vào vùng
Thủy Vĩ ( trấn Hưng Hóa ) và năm Mậu
Thìn(1508). Họ di cư vào Đồng Văn,
Mèo Vạc (Việt Nam) làm nhiều đợt,
trong đó có hai lần di cư lớn do khởi
nghĩa chống triều đình phong kiến
Trung Hoa ở Hồng Hà ( Vân Nam/1521)
và Ô Tát (Qúy Châu/1613) thất bại.