You are on page 1of 86

EBOOKBKMT.

COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

ÂAÛI HOÜC HUÃÚ


TRÆÅÌNG ÂAÛI HOÜC KHOA HOÜC
KHOA LËCH SÆÍ
------

HUYÌNH THË VË

KHUÍNG HOAÍNG TAÌI CHÊNH - TIÃÖN TÃÛ ÅÍ


HAÌN QUÄÚC (1997 - 1998)

KHOÏA LUÁÛN TÄÚT NGHIÃÛP


CÆÍ NHÁN ÂÄNG PHÆÅNG HOÜC

Huãú, 05/2014
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

ÂAÛI HOÜC HUÃÚ


TRÆÅÌNG ÂAÛI HOÜC KHOA HOÜC
KHOA LËCH SÆÍ
------

HUYÌNH THË VË

KHUÍNG HOAÍNG TAÌI CHÊNH - TIÃÖN TÃÛ ÅÍ


HAÌN QUÄÚC (1997 - 1998)

KHOÏA LUÁÛN TÄÚT NGHIÃÛP


CÆÍ NHÁN ÂÄNG PHÆÅNG HOÜC

Caïn bäü hæåïng dáùn: ThS. Nguyãùn Hoaìng Linh

Huãú, 05/2014
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:...............................................................................................1
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:................................................................................3


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.....................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu:...................................................................................6
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu;....................................................................6
6. Cấu trúc của khóa luận:......................................................................................7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HÀN QUỐC
TRONG HAI THẬP NIÊN TRƯỚC KHỦNG HOẢNG......................................8
1.1. Hàn Quốc trong giai đoạn cất cánh kinh tế lần thứ hai: Phát triển công nghiệp
kỹ thuật cao và hoàn thành công nghiệp hóa (1979 – 1993)...................................8
1.1.1. Về kinh tế (1979 – 1993)..........................................................................8
1.1.2. Về xã hội (1979 - 1993)..........................................................................14
1.2. Hàn Quốc trong những năm 1993 – 1997......................................................18
1.2.1. Tình hình kinh tế Hàn Quốc (1993 – 1997)............................................18
1.2.2. Tình hình xã hội Hàn Quốc (1993 – 1997)..............................................23
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HÀN QUỐC TRONG CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 1997 – 1998....................................26
2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997 – 1998 ở Hàn Quốc...........26
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Hàn Quốc trong khủng hoảng........................28
2.2.1. Về tình hình kinh tế.................................................................................28
2.2.2. Về tình hình xã hội..................................................................................32
2.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội của Hàn Quốc..............39
2.4. Những biện pháp khắc phục và kết quả.........................................................42
2.4.1. Một số cải cách trong hệ thống kinh tế Hàn Quốc..................................42
2.4.1.1. Chương trình của IMF......................................................................42
2.4.1.2. Các đối sách của Chính phủ..............................................................43
2.4.2. Về xã hội.................................................................................................49
2.4.2.1. Cải cách thị trường lao động.............................................................49
2.4.2.2. Các biện pháp đối phó thất nghiệp....................................................53
2.4.2.3. Xây dựng mạng lưới an sinh xã hội..................................................57
2.4.2.4. Xây dựng quan hệ quản lý - lao động mới........................................58
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

2.4.3. Kết quả đạt được.....................................................................................59


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH – TIỀN TỆ Ở HÀN QUỐC 1997 – 1998 VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH
NGHIỆM RÚT RA................................................................................................61
3.1. Một số nhận xét.............................................................................................61
3.1.1. Tính chất của cuộc khủng hoảng.............................................................61
3.1.2. Đặc điểm của khủng hoảng.....................................................................62
3.2. Những bài học kinh ngiệm rút ra...................................................................64
3.2.1. Đối với Hàn Quốc...................................................................................64
3.2.2. Đối với Việt Nam....................................................................................65
3.2.3. Đối với nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng.........................................67
KẾT LUẬN............................................................................................................70
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB: Asia Development Bank


Ngân hàng phát triển châu Á
ASEAN: Association of South-east Asian Nation
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BOK: Bank of Korea
Ngân hàng Hàn Quốc
BOT: Bank of Thailand
Ngân hàng Thái Lan
EU: European Union
Liên minh châu Âu
FDI: Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
G7: Group of Seven
Nhóm bảy nước công nghiệp hàng đầu
GDP: General Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP: Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc dân
HCI: Heavy and Chemical Industry
Công nghiệp nặng và hóa chất
HDI: Human Development Index
Chỉ số phát triển con người
IMF: International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
LG: Lucky – Gold Star
Ngôi sao vàng may mắn
NIC: Newly Industrialized Countries
Nước công nghiệp mới
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

ODA: Official Development Assistance


Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
OECD: Organization for Economic Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
R&D: Research and Development
Nghiên cứu và phát triển
SMEs: Small and Medium Enterprise
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
USD: United Stated Dollar
Đồng đô la Mỹ
WB: The World Bank
Ngân hàng Thế giới
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là tự do
hóa thị trường tài chính đã trở nên phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việt
Nam cũng nằm trong số những quốc gia này, Đảng và nhân dân ta đã và đang tích
cực cải thiện và phát triển các định chế kinh tế để Việt Nam có thể trở thành một
phần trong guồng máy thương mại thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực như dễ
dàng tiếp cận và tận dụng được những kinh nghiệm, công nghệ cũng như những
nguồn vốn hỗ trợ lớn từ các nước công nghiệp đã phát triển, chúng ta hiện phải đối
mặt với những mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình toàn cầu hóa làm gia tăng tính phụ thuộc giữa các quốc gia với
nhau; khi xảy ra những rủi ro tài chính ở một quốc gia nào đó hậu quả của nó không
chỉ tác động đến nền kinh tế của nước này mà là hàng loạt những ảnh hưởng đến tất
cả các nước khác có liên hệ và hợp tác với quốc gia đó. Năm 2008, thế giới đã rơi
vào một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 –
1933. Và cho đến nay cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu vẫn đang ảnh hưởng
nặng nề, nhất là khối thị trường chung Châu Âu, mà chưa một ai hiểu nguyên nhân
sâu xa của nó. Cũng giống như các cuộc khủng hoảng năm 2008 và hiện nay, cuộc
khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở một số nước châu Á 1997 – 1998 không những
gây ra những chấn động ở khu vực mà còn mang tính chất toàn cầu.
Trước năm 1997, kinh tế ở các nước Đông Á vẫn tiếp tục phát triển sau một
thời gian dài tăng trưởng ngoạn mục.Nhưng nền kinh tế đột nhiên có những biến đổi
nghiêm trọng dẫn tới khủng hoảng tiền tệ. Trước hết, đồng Baht mất giá thê thảm ở
Thái Lan, sau đó nhanh chóng lan tỏa sang Hàn Quốc, Indonesia, rồi tới Hồng
Kông, Malaysia, Philippines. Không dừng lại, chỉ mấy tháng sau, cuộc khủng hoảng
đã mang tính toàn cầu khi lôi kéo Nga, Brasil vào vòng xoáy.
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở một số nước châu Á 1997 – 1998
không những gây ra những chấn động về mặt kinh tế, xã hội ở mỗi nước, ảnh hưởng
đến các nước khác ở khu vực, mà tạo ra một chấn động về lý luận kinh tế.
Là điểm nóng nhất của cuộc khủng hoảng, nhưng chỉ sau khoảng, nhưng chỉ
sau khoảng 2 năm tiến hành khôi phục khủng hoảng, dân tộc Hàn Quốc lại đưa thế
giới đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác – khôi phục hoàn toàn nền kinh tế với mức
độ phục hồi nhanh nhất và tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao.

1
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Việt Nam, Hàn Quốc là hai quốc gia có nhiều điểm tương đồng về điều kiện
tự nhiên, lịch sử và văn hóa truyền thống. Việc hợp tác Việt – Hàn đã và đang mở ra
những triển vọng tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực trong đó nổi bật là lĩnh vực kinh tế và
thương mại. Việt Nam là nước nằm trong vùng được coi là có cơ hội “hóa hổ”, “hóa
rồng” và cũng được cảnh báo là có khả năng bị cuốn vào các cuộc khủng hoảng.
Việt Nam hiện nay đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược do Đại hội VIII (1996) của Đảng ta đề ra –
phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước ta cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp.
Để hoàn thành mục tiêu này, chúng ta phải rất nỗ lực, phải xác định, lựa chọn được
những hướng đi đúng đắn, phù hợp, trong đó có việc tham khảo và học tập mô hình
phát tiển kinh tế của các quốc gia phát triển (G7,OECD) cũng như các NIC Đông Á
– điển hình là Hàn Quốc – đó cũng là điều hết sức và bổ ích.
Cùng với Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Việt Nam nằm trong nhóm các
các nước ở Châu Á ít bị ảnh hưởng nhất trong cuộc khủng hoảng này. Song, nó
cũng là lời cảnh báo đối với tiến trình kinh tế của chúng ta trước thềm hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Vậy “khủng hoảng như vậy do những nguy cơ nào?
Việt Nam có hay không sự tồn tại những nguy cơ ấy? Nếu có, thì nền kinh tế Việt
Nam cũng sẽ rơi vào khủng hoảng trong một tương lai gần hay chăng?”
Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á 1997 – 1998 đã để
lại những bài học kinh nghiệm quý giá về điều hành chính sách kinh tế vĩ mô trong
điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Những bài học này đặc biệt có ý nghĩa đối với các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Chính vì vậy, nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Hàn Quốc
1997 – 1998, nền kinh tế được coi là “thần kỳ” đã phải lâm vào một tình trạng
khủng hoảng và đã phục hồi được nền kinh tế trong 2 năm là một việc làm mang ý
nghĩa khoa học cũng như thực tiễn rất quan trọng đối với Việt Nam.
Nghiên cứu đề tài sẽ rút ra được những khái quát cần thiết về bức tranh kinh
tế - xã hội của Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở 1997 –
1998, những kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý, điều hành kinh tế - xã hội của Hàn
Quốc để thoát khỏi khủng hoảng , khôi phục và đưa đất nước tiếp tục tăng trưởng
cao. Khóa luận thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu bộ môn
Đông phương học – kinh tế Đông Nam Á, quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Hàn Quốc. Góp phần giải đáp một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện
nay là Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á 1997 – 1998,

2
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

các nguyên nhân, biện pháp khắc phục cũng như những kinh nghiêm, bài học của
Hàn Quốc cho Việt Nam.
Chính những lý do trên cộng với sự gợi mở của thầy giáo hướng dẫn, chúng
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Hàn Quốc (1997 –
1998) để làm khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Đông phương học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á ở Hàn Quốc 1997 – 1998 trong
thời gian đã được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên Hàn Quốc, tổng kết và
bước đầu rút ra được nguyên nhân, tính chất, tác động và những bài học kinh
nghiệm cụ thể. Đó là những công trình đã được công bố của Uỷ ban biên soạn lịch
sử quốc gia, Viện Hàn Lâm nghiên cứu khoa học, Tổ chức nghiên cứu Hàn Quốc,
Tổ chức hợp tác quốc tế…như: “Hàn Quốc (đất nước – con người)”, “sổ tay Hàn
Quốc” đã trình bày một cách khá hệ thống, khoa học, tỉ mỉ và công phu về bức
tranh kinh tế - xã hội của Hàn Quốc hiện đại.
Bên cạnh những công trình chung, một nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã có sự
đầu tư nghiên cứu đi sâu về lĩnh vực kinh tế như: Song Byung Nak “Bàn về kinh tế
Hàn Quốc” (1994)”, Ilsa-kong với “Hàn Quốc trong nền kinh tế thế giới”, Kim
Iojure với “Kinh tế Hàn Quốc năm mươi năm sau giải phóng”, Lee Churl- hee với “
Lịch sử và văn hóa Hàn Quốc” (2007) … Các công trình nghiên cứu này đã có sự
đầu tư nghiên cứu trên cả lĩnh vực kinh tế và xã hội, đã phản ánh quá trình quá trình
phát triển đầy thăng trầm của quốc gia một cách sinh động và rõ nét về đất nước,
con người và một số thành tựu văn hóa, xã hội của Hàn Quốc. Đồng thời cũng cung
cấp những thông tin cần thiết về kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc kế hoạch
hóa nền kinh tế thị trường quốc gia, trong việc sử dụng công cụ thị trường và những
chính sách vĩ mô quan trọng của Nhà nước để hoàn thành mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các tác giả đã viết theo cách cảm nhận của
người Hàn Quốc về chính đất nước họ, cho nên có lúc cách giải thích có thể chưa
thật sự khách quan.
Do nhiều lý do, trong các nước phương Tây và Mỹ, Mỹ là nước là nước
nghiên cứu về Hàn Quốc từ rất sớm, đặc biệt là về Hàn Quốc trong khủng hoảng tài
chính – tiền tệ 1997 – 1998 và có hệ thống với nhiều công trình, bài viết đáng chú ý
của những nhà nghiên cứu tên tuổi.

3
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Tiêu biểu cho quan điểm khẳng định “thần kỳ Đông Á” và “kỳ tích sông
Hàn” có các công trình như “Người khổng lồ tiếp theo của châu Á – Hàn Quốc và
công nghiệp hóa muộn” của A.Amsden (1989), “Bốn con rồng nhỏ. Trào lưu công
nghiệp hóa ở Đông Á” của Ezra F. Vogel (1991), “Một cái nhìn khác về sự thần kỳ
Đông Á” của Gusta Ranis (1996), “Đông Á con đường dẫn đến phục hồi” của
Bottelier (1999), Ngân hàng Thế giới với Đông Á phục hồi và phát triển (1999) …
Các nhà nghiên cứu đã tiếp cận, nghiên cứu xã hội Hàn Quốc hiện đại trên rất nhiều
khía cạnh, lĩnh vực khác nhau từ kinh tế, chính trị đến xã hội, văn hóa và giáo dục
… để chứng minh cho những luận điểm của mình. Mặc dù họ cũng có những phê
phán, chỉ trích nhưng họ vẫn đánh giá cao sự phát triển kinh tế - xã hội của Hàn
Quốc đã góp phần quan trọng tạo nên mô hình phát triển Đông Á đầy năng động với
sự tăng trưởng cao và bền vững.
Trái với các quan điểm trên, những ý kiến bác bỏ, phủ định “sự thần kỳ
Đông Á”, cho rằng “sự thần kỳ Đông Á sắp kết thúc” như M.Clifford với “Con hổ
nổi loạn. Nhà kinh doanh, các quan chức và tướng lĩnh ở Hàn Quốc” (1994),
Walden Bello và Stephanie Rosenfeld với “Mặt trái của những con rồng” (1993),
Josephe Stiglitz với “Suy nghĩ lại sự thần kì Đông Á” (2002) … Các công trình này
chủ yếu được nghiên cứu vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi kinh tế Hàn Quốc
và Đông Á bắt đầu gặp những khó khăn sau một thời kỳ phát triển mạnh. Các học
giả này đã lên tiếng về những mặt trái, những hạn chế của các con rồng, con hổ
châu Á, đưa ra những kiến giải không dễ gì bác bỏ được để chứng minh cho nhận
định của họ.
Tình hình nghiên cứu Hàn Quốc ở Nhật Bản và Trung Quốc cũng không kém
phần sôi nổi.
Ở Trung Quốc, có các công trình nghiên cứu đến bí quyết thành công của
NICs Đông Á như “ Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ” của Ngụy Kiệt và Hạ
Diệu (1993) với những luận chứng đáng chú ý khi nghiên cứu bí quyết thành công
của NICs Đông Á trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó các tác giả
cũng rút ra các kinh nghiệm để áp dụng vào sự nghiệp cải cách kinh tế của Trung
Quốc. Quách Diệu Bang với “Kinh nghiệm của tiến bộ khoa học kỹ thuật và bồi
dưỡng nhân tài ở Nam Triều Tiên” (1993)”, xem như là tấm gương cho các nước
đang phát triển ngày nay học tập để có bước phát triển dài và trong tương lai sẽ trở
thành những quốc gia giàu sức sống nhất trong nền kinh tế thế giới. Tháng 1 –
1996, báo Thông tin Bắc Kinh phối hợp với hãng Xinhua và tạp chí Tin tức thị

4
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

trường Trung Quốc đã tổ chức một cuộc hội thảo lớn về kinh tế thế giới và Đông Á
với sự tham gia của nhiều nhà khoa học,quản lý, lãnh đạo. Hội thảo đã dành một
phần quan trọng cho khu vực Đông Á trong đó ý kiến đa phần đã đánh giá cao sự
thành công kinh tế của các nước Đông Á và các nguyên nhân phát triển của nó …
Ở Nhật Bản, các công trình nghiên cứu như “Mậu dịch và những chính sách
đầu tư ở Đông Á” của Mokoto (1994), “Chính sách công nghiệp hóa ở Đông Á” của
RyuiChino Inore, Horohisa Kohama và Shujiro (1999) đã nghiên cứu quá trình phát
triển chính sách công nghiệp của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan ở các ngành dệt,
điện tử và ô tô …
Ở Việt Nam cũng đã có những công trình, bài viết nghiên cứu, phân tích,
đánh giá, nhận xét về Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài hính – tiền tệ 1997
-1998 cá nhân , tập thể, các viện nghiên cứu khoa học, kinh tế. Các công trình, bài
viết tiêu biểu về quá trình phát triển thần kỳ của Đông Á nói chung và Hàn Quốc
nói riêng như “Kinh tế Đông Á, nền tảng của sự thành công” của Đỗ Đức Định
(1995), “Hiện tượng thần kỳ Đông Á. Các quan điểm khác nhau” với bài viết của
Nguyễn Thị Luyến (chủ biên): “Khái quát các quan điểm về hiện tượng “thần kỳ”
Đông Á”( 1997), Ngô Thị Trinh với “Đặc điểm và tình hình kinh tế của các NIE
châu Á”(1997), “Quá trình phát triển kinh tế và xã hội của Hàn Quốc trong giai
đoạn 1961 -1993 và kinh nghiệm đối với Việt Nam” của Hoàng Văn Hiển (2000) …
Các công trình này đã trình bày khái quát hoặc chi tiết cả tiến trình kinh tế Hàn
Quốc cả về thành tựu và vấn đề đặt ra, nguyên nhân phát triển và bài học kinh
nghiệm, quá trình chuyển giao công nghệ, vai trò của Nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế …
Một số công trình, bài viết nghiêng về quá trình phát triển xã hội của Hàn
Quốc như nghiên cứu công bằng xã hội trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế
hay đi vào một số lĩnh vực, khía cạnh xã hội và nêu tác động của nó đối với quá
trình tăng trưởng kinh tế như Lê Bộ Lĩnh với “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở một số nước châu Á và Việt Nam” (1998), Hoàng Văn Hiển với “Giáo dục và
đào tạo ở Hàn Quốc” (1998) …
Một số công trình, những bài viết nghiêng về triển vọng, dự báo phát triển
của Hàn Quốc, đặc biệt là các bài viết thường xoáy vào những ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng đến nền kinh tế - xã hội, những đối sách, chiến lược phát triển vượt
qua khủng hoảng như Trần Lan Hương với “Một số giải pháp của các Chaebol Hàn
Quốc trước cơn lốc khủng hoảng tài chính – tiền tệ”(1998), Nguyễn Thiện Nhân với

5
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

“Khủng hoảng kinh tế - tài chính ở châu Á 1997 – 1999, nguyên nhân, hậu quả và
bài học với Việt Nam”(2002), Ngọc Anh với “Kinh tế Hàn Quốc sau 10
năm”(2007) …
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á ở Hàn Quốc 1997 – 1998
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt không gian, khóa luận nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội 1997 –
1998 của một chủ thể chính trị - kinh tế ở khu vực Đông Bắc Á: Khủng hoảng tài
chính – tiền tệ ở Hàn Quốc 1997 – 1998.
Về mặt thời gian, khóa luận dành trọng tâm nghiên cứu vào giai đoạn 1997 –
1998. Tuy nhiên các giai đoạn trước và sau đó vẫn được nghiên cứu trong chừng
mực nhất định nhằm đảm bảo tính logique của đề tài và làm nổi bật hơn giai đoạn
nghiên cứu trọng tâm.
Về nội dung, khóa luận nghiên cứu quá trình phát triển thần kỳ của Hàn
Quốc , trọng tâm là bức tranh kinh tế - xã hội Hàn Quốc trong khủng hoảng 1997 –
1998, biện pháp khắc phục và hiệu quả sau khủng hoảng ở Hàn Quốc.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử - logique, trình bày
bày quá trình hình thành và phát triển của vấn đề bằng các sự kiện lịch sử, phân chia
giai đoạn bằng các mốc lịch sử theo thời gian, qua đó rút ra những khái quát cần
thiết. Ngoài ra khóa luận còn kết hợp các phương pháp so sánh - đối chiếu, phương
pháp thu thập thông tin: tìm kiếm nguồn thông tin phục vụ đề tài thông qua dữ liệu
sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu;
Khóa luận với mục đích trọng tâm là nghiên cứu khủng hoảng tài chính -
tiền tệ ở Hàn Quốc 1997 – 1998, khóa luận nhằm mục đích như: khái quát được sự
hình thành, vận động, phát triển của đối tượng nghiên cứu, nêu lên được những vấn
đề tiêu biểu của Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng cũng như các nguyên nhân, biện
pháp khắc phục. Bên cạnh đó, rút ra được những đặc điểm, quy luật phát triển của
Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng cũng như những kinh nghiêm, bài học của Hàn
Quốc cho Việt Nam.

6
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

6. Cấu trúc của khóa luận:


Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được chia làm 3 chương.
Chương 1: Khái quát trình phát triển của Hàn Quốc trong hai thập niên trước
khủng hoảng
Chương 2 : Bức tranh kinh tế - xã hội Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ 1997 – 1998
Chương 3 Một số nhận xét về cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Hàn
Quốc 1997 – 1998 và những bài học kinh nghiệm rút ra.

7
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HÀN


QUỐC TRONG HAI THẬP NIÊN TRƯỚC KHỦNG HOẢNG

1.1. Hàn Quốc trong giai đoạn cất cánh kinh tế lần thứ hai: Phát triển
công nghiệp kỹ thuật cao và hoàn thành công nghiệp hóa (1979 – 1993)
1.1.1. Về kinh tế (1979 – 1993)
Từ năm 1979 đến đầu năm 1993, Hàn Quốc bắt đầu thực hiện chính sách
kinh tế chú trọng vào ổn định kinh tế thay vì lớn mạnh một chiều bao gồm việc ổn
định giá cả, tự do hóa kinh tế và giữ cân bằng kinh tế…Đẩy mạnh xuất khẩu một số
sản phẩm công nghiệp như: gang thép, thiết bị máy móc, ô tô, tàu biển, xe máy, hóa
chất… được thực hiện thông qua các Chaebol khổng lồ như Daewoo, Hyundai,
Samsung… Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, từ năm 1989 trở đi nền kinh tế Hàn
Quốc không còn giữ được thời “hoàng kim” như hai thập niên trước [6; 32 - 33].
Có 8 vấn đề nổi bật về quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc trong giai
đoạn 1979 – 1993 trên cơ sở điều chỉnh mô hình kinh tế hướng ngoại bước vào thời
kỳ công nghiệp kỹ thuật cao, chuẩn bị tiền đề cho việc gia nhập hàng ngũ các nước
tư bản phát triển:
- Sự đổi mới quan niệm về vai trò kinh tế của nhà nước và cơ chế vận hành
kinh tế. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Hàn Quốc để
giải quyết hàng loạt các vấn đề đang cản trở sự phát triển của đất nước.
- Tiếp tục thực hiện kế hoạch hóa kinh tế, chuyển từ mô hình tăng trưởng
mất cân đối sang mô hình tăng trưởng cân đối.
- Đẩy mạnh chương trình tự do hóa thị trường nhằm giảm bớt sự can thiệp
của nhà nước.
- Hỗ trợ và thúc đẩy bộ phận công nghiệp vừa và nhỏ phát triển nhằm khắc
phục sự mất cân đối trong cơ cấu công nghiệp và hướng hoạt động của bộ phận này
vào xuất khẩu.
- Tiếp tục đảy mạnh công nghiệp bằng việc phát triển các nghành kỹ thuật –
công nghệ cao của dân tộc nhằm thay thế nguồn công nghệ nhập khẩu từ các nước
tư bản phát triển, gắn liền với việc đẩy mạnh hoạt động khoa hoc – kỹ thuật đi vào
chiều sâu phục vụ đắt lực cho tăng trưởng kinh tế.

8
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Điều chỉnh hợp lý cơ cấu hàng xuất khẩu và đa dạng hóa, quốc tế hóa thị
trường xuất khẩu.
- Tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài theo hình thức mới và từng bước đẩy
mạnh đầu tư ra nước ngoài, gắn liền với việc chuyển giao công nghệ và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
- Tiếp tục công cuộc cơ giới hóa, hiện đại hoa nông thôn nhằm rút ngắn
khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị lên một bước [20; 133 - 163].
Có thể nói, vào những năm 80 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã có bước tiến
mới trong quan niệm về vai trò kinh tế của nhà nước. Thay vào sự can thiệp quá chủ
quan, nhà nước trở lại với vai trò hỗ trợ để phát huy những ưu thế vốn có của các
quy luật kinh tế thị trường, loại bỏ “tính chỉ huy” của Chính phủ.
Năm 1981, Chính phủ Chun Doo Hwan đã vạch ra một chiến lược phát triển
với 3 mục tiêu kết hợp: ổn định giá cả; tự do hóa thị trường; tăng trưởng kinh tế một
cách cân đối [22; 68].
Để ổn định giá cả và hạn chế lạm phát, nhà nước đã triển khai hàng loạt biện
pháp tài chính tiền tệ chặt chẽ, giảm mạnh trợ giá lúa cho các hộ nông nghiệp. Năm
1980 thóc được mua với giá cao hơn là 25%, đến năm 1985 còn 16%. Kết quả là thâm
hụt ngân sách giảm nhanh từ mức 5,6% năm 1981 xuống còn 0,96% năm 1986. Nhìn
chung từ đầu năm 1983 Chính phủ đã giảm được ảnh hưởng của lạm phát [20; 137].
Đi đôi với hoạt động ổn định giá tự do hóa nền kinh tế. Điều này không có
nghĩa là tự loại bỏ điều chỉnh của nhà nước đối với hoạt động kinh tế nhất thời, mà
là từng bước giảm bớt sự can thiệp trực tiếp quan liêu, mệnh lệnh của nhà nước
thông qua việc trao quyền tự chủ nhiều hơn cho khu vực kinh tế tư nhân cũng như
nhà nước, để cho các quy luật của thị trường chi phối, tác động nhiều hơn và hiệu
quả hơn đến các hoạt động kinh tế. Sự can thiệp của nhà nước lúc này thường mang
tính gián tiếp thông qua các đòn bẫy kinh tế khi cần thiết. Nhìn chung, chương trình
này thể hiện rõ nét ở những nội dung sau:
- Trả lại tự do cạnh tranh cho các chủ thể kinh tế bằng nhiều phương cách:
Ngay từ đầu năm 1980, Chính phủ đã đưa ra “những biện pháp nâng cao chất lượng
xí nghiệp” buộc giải thể 102 xí nghiệp không có khả năng cạnh tranh, ban hành
Luật chống độc quyền và buôn bán trung thực (32-12-1980), Phương án cải cải cách
chế độ tài chính, Dự luật giúp đỡ ngành nghề… Đây là điều khác biệt quan trọng so
với phương pháp áp dụng trong chiến lược tăng trưởng trước đây [27; 53 - 54].

9
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Tự do hóa việc hình thành cơ cấu công nghiệp với mục đích khắc phục
tình trạng mất cân đối về cơ cấu công nghiệp. Nếu như trước đây Nhà nước dùng
phương pháp phân bổ nguồn tích lũy và các nguồn lực khác để định hình cơ cấu
công nghiệp theo kế hoạch thì đến nay nhà nước nhường sự hình thành cơ cấu cho
các lực lượng thị trường nhằm tránh lặp lại tình trạng ưu tiên đầu tư quá mức như ở
thập niên 1970 của thế kỷ XX, đã tạo ra sự mất cân đối và cản trở sự phát triển của
hệ thống tài chính.
- Tự do hóa một số lĩnh vực tài chính: Năm 1980, nhà nước đã hạ giá 20%
đồng Won, thực hiện tư nhân hóa ngân hàng thương mại. Trong thập niên 80, vấn
đề quốc tế hóa và mở cửa các vấn đề tài chính được đẩy nhanh [20; 139]
- Tự do hóa nhập khẩu: Trong cả quá trình thực hiện ở những năm 60 và 70
nhập khẩu thường bị hạn chế - trừ các mặt hàng nhập khẩu cho đầu vào của sản xuất
xuất khẩu, tỷ lệ tự do hóa nhập khẩu dừng ở mức 50%. Do đó các nhà sản xuất cho
thị trường trong nước ít gặp phải sự cạnh tranh từ bên ngoài đồng thời cũng gặp
không ít khó khăn do chính sách bảo hộ này làm cho chất lượng hàng hóa kém hơn
so với hàng hóa cùng loại ở một số nước khác. Tình trạng này tác động xấu, đe dọa
đến nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu của Hàn Quốc. Để khắc phục tình hình
trên, Chính phủ đã thực hiện việc thúc đẩy tự do hóa nhập khẩu tức là cho phép
cạnh tranh từ bên ngoài. Kết quả là sự có mặt của các loại hàng nhập khẩu trong số
các mặt hàng tiêu dùng đã tăng từ tỷ lệ 68,2% năm 1979 lên 94,8% năm 1988 [19;
74]. Mức thuế đánh vào các hàng nhập khẩu cũng giảm từ 38,7% năm 1987 xuống
còn 18,1% năm 1988. Đến đầu thập niên 1980, tỷ lệ tự do hóa nhập khẩu đã tăng
lên 70% và tiếp tục tăng tới mức 95% vào năm 1990 [20; 140 - 141].
- Tư nhân hóa lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Đây là hoạt động rất quan
trọng diễn ra trong bối cảnh làn sóng tư nhân hóa mới, quy mô lớn và bao trùm
nhiều nước từ giữa thập niên 1970 đến cuối thập niên 1980. Đến giai đoạn này,
nhiều ngành như ngân hàng và một số ngành kinh tế khác vốn được coi là “cao
điểm chỉ huy kinh tế” thuộc sở hữu nhà nước cũng đã từng bước được tư nhân hóa.
Để giảm bớt sự mất cân đối giữa bộ phận công nghiệp có quy mô lớn và bộ
phận công nghiệp vừa và nhỏ từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Chính phủ đã tích cực
khiển khai nhiều biện pháp để hỗ trợ cho bộ phận công nghiệp vừa và nhỏ. Năm
1982, nhà nước đã thông qua kế hoạch dài hạn 10 năm đẩy nhanh sự phát triển công
nghiệp vừa và nhỏ với mục tiêu cụ thể: phấn đấu đưa tổng giá trị của bộ phận này từ
33,4% năm 1982 lên 44,8% năm 1991 và lao động trong khu vực tăng từ 47,7% lên

10
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

54,3%, phần đầu tư tăng từ 29,7% lên 43,7% [22; 75]. Kế hoạch này được thực hiện
qua hàng loạt các biện pháp như: chương trình giúp đỡ cho các xí nghiệp được xem
là có triển vọng về tài chính, công nghệ và marketing (năm 1982); hỗ trợ triển khai
chương trình hiện đại hóa tập thể giữa các doanh nghiệp nhỏ; kích thích phát triển
công nghệ đẩy nhanh hiện đại hóa quản lý; đẩy mạnh sự hợp với các doanh nghiệp
khác quy mô nhất là trong khâu sản xuất phụ kiện, các bộ phận chi tiết thông qua
hợp đồng; khuyến khích, hỗ trợ các đơn vị công nghiệp nhỏ tư nhân xây dựng các
hội hợp tác. Trong tất cả các biện pháp cơ bản trên, chính sách hỗ trợ về tài chính
đóng vai trò trọng tâm để thực hiện các mục tiêu. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã
giúp đỡ về vốn, ban hành các đạo luật như Luật đẩy nhanh phát triển công nghiệp
vừa và nhỏ…Ngoài ra còn phải kể đến các hoạt động đẩy nhanh xuất khẩu của bộ
phận này.Tất cả các biện pháp tổng hợp kể trên của Chính phủ đã khắc phục được
tình trạng tụt hậu của công nghiệp vừa và nhỏ cũng như tình trạng mất cân đối trong
cơ cấu công nghiệp.
Bên cạnh đó, để xây dựng nghành công nghiệp có kỹ thuật cao, khâu then
chốt là phải có công nghệ tương ứng hiện đại. Chính phủ Hàn Quốc một mặt thực
hiện biện pháp nhập khẩu, hấp thụ kỹ thuật, công nghệ từ nước ngoài. Mặt khác,
Hàn Quốc cũng mở rộng nghiên cứu để tự túc các công nghệ hiện đại, rút ngắn
khoảng cách về trình độ so với các nước tiên tiến và xây dựng các chính sách để
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này [20; 147]. Có thể
nói, việc phát triển các ngành có kỹ thuật cao ở giai đoạn này thực sự là những biện
pháp làm cho nền kinh tế Hàn Quốc cất cánh lần thứ hai.
Đồng thời, để tăng cường cạnh tranh trên thị trường thế giới, Hàn Quốc đã
điều chỉnh hợp lý cơ cấu hàng xuất khẩu, đa dạng hóa, quốc tế hóa thị trường xuất
khẩu. Hàn Quốc đã thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu từ hàng sơ chế sang hàng công
nghệ cao cấp, ngày càng nâng cao tính quốc tế hóa tiêu biểu là các sản phẩm điện
tử, ô tô, vi điện tử, robot, hóa học cao cấp…
Thị trường xuất khẩu truyền thống của Hàn Quốc trong thập niên 60 và 70 là
Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Sang thập niên 1980, theo xu hướng đa dạng hóa và quốc
tế hóa thị trường, Hàn Quốc cũng đã từng bước tăng cường buôn bán với các đối tác
khác trên thế giới như các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á, Trung Đông, Mỹ Latinh
và châu Phi. Năm 1988, thị trường châuÁ chiếm 34% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Hàn Quốc, thị trường châu Âu chiếm 16,1%, thị trường Bắc Mỹ chiếm 38,1%, tiếp
đến là các thị trường Mỹ Latinh: 2,6%, Trung Đông: 4,3%, châu Phi: 1,2% [20; 153].

11
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Song song với việc tập trung phát triển các ngành công nghiệp, Chính phủ
Hàn Quốc cũng rất chú ý đến vấn đề nông nghiệp. Đến cuối thập niên 1970, nền
nông nghiệp Hàn Quốc tuy có bước phát tiển hơn trước nhưng nhìn chung vẫn luôn
đứng ở vị trí rất thấp so với kinh tế công nghiệp. Sang thập niên 1980, để đẩy nhanh
nhịp độ phát triển nông nghiệp tương xứng với nền công nghiệp đã đủ mạnh, Chính
phủ Hàn Quốc đã thực hiện một số chính sách, biện pháp như: đầu tư mạnh vào lĩnh
vực nông nghiệp (3,4 tỷ USD năm 1985); đẩy mạnh nghiên cứu phát triển nông
nghiệp, nông thôn nhằm tăng năng suất lao động (tăng sản lượng, đưa các giống lúa,
hoa màu mới vào canh tác, đẩy mạnh công nghiệp phân bón và thuốc trừ sâu, đáng
chú ý là việc trồng cây trong nhà kính); từng bước tiến tới mở cửa thị trường nông
nghiệp, thay thế hạn chế nhập khẩu gay gắt trước đây; xây dựng các vùng nông thôn
- công nghiệp có tính chất liên kết; Chính phủ cho phép hành nghề và phổ biến
những loại hình dịch vụ nhằm khuyến khích sự phát triển nông nghiệp.
Các nỗ lực phát triển nông nghiệp của Hàn Quốc chủ yếu tập trung vào việc
tăng tối đa sản lượng ở diện tích đất đai có thể trồng trọt được, khoảng 21% tổng số
đất đai của Hàn Quốc vào năm 1992. Tuy nhiên, lao động nông nghiệp ở Hàn Quốc
vẫn giảm, tỷ lệ dân sống ở nông thôn giảm xuống còn 14% năm 1992. Chính phủ
Hàn Quốc đã có những cố gắng lớn đối với việc thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp
nhằm giải quyết vấn đề thiếu lao động ở nông thôn.
Trong giai đoạn này, Hàn Quốc tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài theo hình
thúc mới và từng bước đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Từ cuối thập niên 70 trở đi,
do nền kinh tế quốc gia đã đủ mạnh và có sự thay đổi trong quan hệ thương mại của
Hàn Quốc với nước ngoài, mặt khác để giảm bớt số vay nợ quá lớn do quá trình
công nghiệp hóa cũng như để thu hút kỹ thuật công nghệ mũi nhọn…, Chính phủ đã
có sự thay đổi trong chủ trương, chính sách thu hút đầu tư bằng việc nới rộng phạm
vi đầu tư của nước ngoài và cho phép họ đầu tư trực tiếp. Đây cũng là hình thức
xuất khẩu tư bản quan trọng từ các nước tư bản phát triển nhất sang NICs Đông Á
nói chung và Hàn Quốc nói riêng.
Luật khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi ban hành vào năm
1979 và 1983 có hai điểm thoáng nhất đó là chế độ tự phê chuẩn và miễn giảm thuế
đối với các hạng mục công trình đầu tư có khoa hoc – kỹ thuật tiên tiến hoặc có vốn
lớn. Các công ty đa quốc gia ngày càng đầu tư đáng kể vào Hàn Quốc, chẳng hạn:
Tập đoàn Mitsubishi chiếm 15% vốn và cung cấp kỹ thuật chế tạo xe hơi cho
Hyundai, công ty General Motors nắm đến một nửa cổ phần của công ty xe hơi

12
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Daewoo. Trong các đối tác đầu tư vào Hàn Quốc ở giai đoạn này, Nhật Bản đứng
hàng đầu. Vào năm 1985, chỉ riêng các khoảng đầu tư tư nhân của Nhật vào đất
nước này đã trên 1 tỷ USD, chiếm khoảng 47,4% tổng số đầu tư tư nhân nước
ngoài, hơn 1000 công ty Nhật hoạt động trong các ngành công nghiệp của Hàn
Quốc [20; 156].
Một nét nổi bật trong các hoạt động đầu tư của Hàn Quốc trong giai đoạn
này là từng bước đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Đây là một trong những nội
dung chủ yếu của chiến lược gia nhập hàng ngũ các nước tư bản phát triển của
Hàn Quốc, với các biện pháp: khuyến khích các công ty dùng nhiều lao động, tiền
lương thấp của họ ra nước ngoài; đầu tư vào cả thị trường có giá lao động cao ở
các nước phát triển.
Sau hơn môt thập niên xây dựng và phát triển quốc gia (1979 - 1993), kế
thừa thành quả của giai đoạn cất cánh kinh tế lần thứ nhất (1961 - 1979), nhân dân
Hàn Quốc tiếp tục gặt hái được những thành tựu cơ bản về kinh tế, đó là:
- Nền kinh tế tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng GDP và GNP cao và ổn
định, thậm chí cao hơn mức bình quân so với giai đoạn 1961-1979: Trong 14 năm
(1977 - 1991), tốc độ GNP bình quân tăng mỗi năm là 8,1%, GDP hơn 8,1%.
- Về GDP và GNP bình quân đầu người có sự gia tăng tương ứng: Trong 12
năm (1979 - 1990), GDP của Hàn Quốc tăng gấp hơn 4,1 lần, GNP bình quân đầu
người tăng gấp 3,6 lần.
- Sản xuất công nghiệp có sự phát triển cao theo chiều sâu: Tính chung
trong ba kế hoạc 5 năm từ 1977-1991, bình quân mỗi năm sản xuất công nghiệp
tăng 12,6% và tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 1979-1991 luôn ở mức trên 40%,
trong đó công nghiệp chế tạo – thước đo trình độ công nghiệp của một quốc gia
chiếm tỷ lệ đóng góp quan trọng. Năm 1988, Hàn Quốc đã vươn lên vị trí thứ 4
trong số 10 nước công nghiệp chế tạo lớn nhất thế giới đang phát triển.
- Về ngoại thương, Hàn Quốc trở thành nước xuất khẩu tiêu biểu trong các
NICs: Tốc độ gia tăng xuất khẩu bình quân hằng năm của Hàn Quốc là 30%.
- Từng bước tiến lên chiếm lĩnh kỹ thuật cao, cạnh tranh với cả những nước
tư bản phát triển nhất trên một số lĩnh vực: Từ cuối thập niên 1980, riêng ở một số
ngành Hàn Quốc đã theo sát trình độ các nước tư bản phát triển. Ngoài ra, Hàn
Quốc còn đạt được những thành tựu trong các lĩnh vực vi điện tử, cơ điện, hàng
không, hóa tinh vi, hóa sinh, máy tính thông minh, chế tạo robot để khai thác biển ở
độ sâu, tàu cao tốc… [22; 90 - 100].

13
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Về nông nghiệp đã có sự phát triển vượt bậc so với giai đoạn 1961 - 1979,
nhìn chung nông nghiệp đã trở thành khu vực kinh tế độc lập, phần nào chủ động
được vấn đề tự túc lương thực, thực phẩm.
Với những thành tựu kinh tế nói trên, giai đoạn 1979 - 1993 đã được xem là
giai đoạn cất cánh kinh tế lần thứ hai của Hàn Quốc, giai đoạn hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước và bắt đầu bước vào thời kỳ phát triển mới: xây dựng
Hàn Quốc mới bằng chiến lược toàn cầu hóa. Có thể nói, trong giai đoạn này, sự
thành công của Hàn Quốc chính là sự thành công của một nhà nước can thiệp mạnh
- một nhà nước đã ban cấp sự bảo hộ về thuế quan và những trợ cấp một cách thận
trọng và dồi dào, đã vạn dụng những lãi suất và tỷ giá hối đoái, quản lý đầu tư và
kiểm soát công nghiệp [54; 11]. Nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng phi thường, liên
tục, tương đối cao và ổn định chủ yếu nhờ vào sự phát triển của công nghiệp hướng
về xuất khẩu và khu vực dịch vụ; nhờ mở cửa thị trường theo xu thế tự do hóa; tạo
lập một nền kinh tế phát triển có hiệu suất; đẩy mạnh đầu tư phát triển giáo dục; cơ
chế vận hành kinh tế kết hợp “Chính phủ cứng” với “thị trường mềm” [51; 51 - 54].
Tuy vậy, bên cạnh thành công đáng ghi nhận, bước vào năm 1993, nền kinh
tế Hàn Quốc đã và đang đứng trước những thử thách cần phải giải quyết, tập trung ở
những vấn đề cơ bản sau:
- Trước hết, môi trường quốc tế không còn thuận lợi như trong các thập
niên trước (nhất là thập niên 1950 - 1960) cho sự phát triển của kinh tế Hàn Quốc.
- Nền kinh tế Hàn Quốc tuy có những bước đột phá lớn nhưng nhìn chung
vẫn còn phụ thuộc vào nước ngoài trên một số phương diện: thị trường, nguồn
nguyên, nhiên liệu, kỹ thuật – công nghệ, vốn…
- Nền kinh tế Hàn Quốc bước vào thập niên 1990 còn đứng trước những
khó khăn lớn: lạm phát gia tăng, thâm hụt ngân sách, nhu cầu nhập khẩu lao động…
- Lĩnh vực nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại: tốc độ tăng
trưởng nhìn chung còn thấp, giảm dân số và lao động ở nông thôn, sự phụ thuộc vào
nhập khẩu nông sản…
1.1.2. Về xã hội (1979 - 1993)
Bắt đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, lịch trình về phát triển xã hội mới được
Nhà nước Hàn Quốc đặt ra một cách trực tiếp, hệ thống và toàn diện, luôn nằm
trong những nội dung chủ yếu của kế hoạch 5 năm cũng như trong các chính sách
khác của Chính phủ, với những chính sách cơ bản sau:

14
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Một là, mở rộng việc thực hiện các chính sách xã hội và cải thiện điều kiện
sống của nhân dân một cách tích cực, hiệu quả hơn với các nội dung như:
- Chính sách bảo hiểm xã hội ngày càng được thực hiện rộng rãi hơn trong
các giai tầng xã hội như bảo hiểm sức khỏe quốc gia, bảo hiểm lao động, bảo hiểm
bồi thường tai nạn công nghiệp, bảo hiểm hưu bổng quốc gia.
- Từng bước nỗ lực phấn đấu thực hiện công bằng và hợp lý chế độ phúc lợi
xã hội và cứu trợ xã hội cho trẻ em, người tàn tật, người cao tuổi, phụ nữ, công
nhân, chiến sĩ, người nghèo.
- Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm góp phần xây dựng
một xã hội văn minh – hiện đại.
- Tích cực thực hiện các chính sách bảo vệ người tiêu dùng bằng biện pháp
như đẩy mạnh các phong trào bảo vệ người tiêu dùng, ban hành đạo luật, thành lập
các ủy ban bảo vệ người tiêu dùng…
- Bảo vệ môi trường sinh thái và hạn chế ô nhiễm ngày càng được quan tâm
nhiều hơn bằng các biện pháp giáo dục nhân dân ý thức giữ gìn và bảo vệ môi
trường, cải thiện các bước đánh giá về ảnh hưởng của môi trường và so sánh để xét
lại các dự án phát triển, giảm bớt sự ô nhiễm không khí, làm sạch sông ngòi và hạn
chế ô nhiễm biển, xử lý chất thải và hóa chất độc hại…
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo nhằm xây dựng một
nền giáo dục đào tạo tiên tiến, hướng đến mục tiêu hướng nội và phúc lợi giáo dục.
Bước vào thập niên 1980, Chính phủ Hàn Quốc tiếp tục nỗ lực trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo với một số chủ trương, biện pháp như ban
hành chế độ thi cử mới vào đại học năm 1981, đặt thuế giáo dục, ban hành điều
khoản, thành lập Uỷ ban cải cách giáo dục năm 1985. Năm 1987, trong bản công bố
Hiến pháp và Hiến chương giáo dục quốc gia đã có sự bổ sung và sửa đổi giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo và bản sắc văn hóa dân tộc. Từ thập
niên 1990 trở đi được xem là giai đoạn tiên tiến của nền giáo dục – đào tạo của Hàn
Quốc với việc hướng đến mục tiêu hướng nội và nền phúc lợi giáo dục.
Về hệ thống giáo dục - đào tạo và tổ chức quản lý nhìn chung vẫn dựa trên
nền tảng của các thập niên 1960, 1970 nhưng có sự hoàn thiện hơn nhằm đáp ứng
những yêu cầu ngày càng cao.Từ sau khi Chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật huy
động trẻ em trước tuổi học phổ thông đến nhà trẻ – mẫu giáo, tỷ lệ học sinh đến lớp
tăng lên (từ năm 1988 đã là 60%). Trong năm 1993, các nhà trẻ đã đón nhận đến

15
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

65% trẻ em lứa tuổi nhà trẻ. Đáng chú ý là giáo dục đặc biệt đã không ngừng tăng
lên về số lượng và nâng cao chất lượng. Năm 1992 số trường này đã lên đến 103
trường với tổng số 20.646 học sinh trong đó 12 trường cho người mù, 20 trường cho
người câm điếc, 58 trường cho người thiểu năng trí tuệ và 1 trường cho người bị
bệnh phong [20; 201].
Về giáo dục khoa học và công nghệ, đầu thập niên 1990, Hàn Quốc đã có 14
trung tâm khoa học phục vụ cho học sinh, sinh viên. Tính đến cuối năm 1991, Hàn
Quốc đã có 2.352 viện nghiên cứu và phát triển, cứ 1 vạn dân có 18 nhà khoa học
trình độ cao, hơn 600 viện nghiên cứu hàn lâm lớn nhỏ.
Hợp tác quốc tế về giáo dục là một trong những nội dung, lĩnh vực quan
trọng của Hàn Quốc trong quan hệ hợp tác quốc tế đã được phát triển mạnh trong
thập niên 1980, 1990. Năm 1987, có 24.315 sinh viên Hàn Quốc đi du học. Năm
1992, có 1.989 sinh viên và 413 giáo sư và học giả nước ngoài làm việc, học tập tại
Hàn Quốc.
Ba là, tiếp tục nỗ lực phấn đấu giảm cách biệt giàu – nghèo giữa thành thị -
nông thôn. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng về công bằng xã hội, cụ thể là:
Trước hết, giảm cách biệt giàu – nghèo thông qua việc mở rộng các cơ hội
việc làm ổn định cho người lao động với những nét mới:
- Mở rộng các xí nghiệp vừa và nhỏ và các xí nghiệp kỹ thuật – công nghệ
cao bên cạnh việc tiếp tục phát triển các xí nghiệp lớn.
- Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, đồng thời mở rộng
hợp tác làm ăn ngoài nước.
- Tích cực cải tiến việc cung cấp nhân lực cần thiết để ổn định hoạt động
kinh tế, khắc phục tình trạng thất nghiệp.
Tiếp tục giảm mức cách biệt giữa thành thị và nông thôn về mức sống, trình
độ học vấn, nhận thức xã hội, địa vị xã hội…
Cùng với quá trình tăng trưởng vượt bậc về mặt kinh tế và hoàn thành
công nghiệp hóa đất nước, xã hội Hàn Quốc trong giai đoạn 1979 - 1993 cũng
đạt được những thành tựu hết sức cơ bản về công bằng xã hội và chất lượng cuộc
sống nói chung:
- Thu nhập bình quân đầu người tiếp tục gia tăng: GNP bình quân đầu
người từ 1.519 USD năm 1979 đã lên đến 5.569 USD năm 1990, tăng gấp hơn 3,6
lần và đến năm 1992 là 6.749 USD. Tỷ lệ người dân ở mức nghèo khổ giảm xuống

16
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

còn dưới 10% năm 1993. Từ năm 1987-1993, tiền lương trung bình trong toàn xã
hội Hàn Quốc đã tăng 60%. Hệ số Gini (thước đo mức độ bất bình đẳng trong thu
nhập) của Hàn Quốc từ 0,3114 năm 1985 xuống còn mức 0,2817 năm 1993 đưa
quốc gia này vào nhóm các nước và lãnh thổ có mức độ bình đẳng về thu nhập cao
nhất thế giới [20; 212].
- Giáo dục đã đạt được các chỉ số phát triển rất cao, đưa Hàn Quốc đứng
vào hàng ngũ các nước có nền giáo dục tiên tiến nhất trên thế giới:
Ngân sách đầu tư cho giáo dục – đào tạo ở Hàn Quốc tăng từ 4% năm 1986
lên trên 23% ngân sách quốc gia năm 1990. Việc “Hàn Quốc hóa” về giáo dục đào
tạo không đóng kín cửa mà hết sức năng động và hiệu quả.
Về trình độ dân trí, 33,9% người dân Hàn Quốc đạt trình độ đại học, trung
bình cứ 100 người dân có 34 sinh viên. Ở Hàn Quốc từ quan chức chính phủ, nhân
viên quản lí cho đến người công nhân bình thường đều có học vấn cao. Người dân
Hàn Quốc được giáo dục tốt và có kỷ luật rất cao, ý thức cạnh tranh rất mạnh mẽ kể
cả đối với Mỹ và Nhật Bản [18; 65 - 70].
Vấn đề đầu tư chất xám và bồi dưỡng nhân tài được đặc biêt coi trọng ở Hàn
Quốc. Năm 1991, ở Hàn Quốc cứ 1 vạn dân thì có 18 cán bộ nghiên cứu, kinh phí
dành cho nghiên cứu chiếm 2,01% GNP. Điều này có cội nguồn sâu xa, đấy là dấu
ấn của đạo lý Khổng giáo còn in đậm, là nỗi thấm thía về những cảnh ngộ bi đát của
đất nước qua từng thời kỳ lịch sử. Cho nên mặc dù trãi qua những thăng trầm trong
quá trình phát triển, các chính phủ cầm quyền ở Hàn Quốc từ giới quân sự đến giới
dân sự đều coi trọng giáo dục đào tạo [19; 16].
- Tuổi thọ người dân không ngừng tăng lên: Năm 1991, tuổi thọ trung bình
của người dân Hàn Quốc tăng lên ở mức 71,3 tuổi từ 52,4 tuổi năm 1960, tỷ lệ mắc
bệnh truyền nhiễm chỉ còn 0,5%
- Tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn 1979 - 1993 nhìn chung thấp hơn nhiều
so với giai đoạn những năm 60 do vấn đề công ăn việc làm đã giải quyết về căn
bản: tỷ lệ thất nghiệp từ năm 1982-1986 là 4,02%, từ 1987 - 1990 giảm còn 2,65%,
riêng năm 1992 là 2,4% [20; 217].
- Sự thay đổi địa vị của người phụ nữ và lao động nữ, giải phóng và thúc
đẩy sự phát triển của phụ nữ: Địa vị xã hội và học vấn của người phụ nữ ngày càng
được nâng cao. Năm 1989, 40% sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học là nữ.
Năm 1988, có 1 nữ bộ trưởng trong nội các Chính phủ Hàn Quốc.

17
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Tuy nhiên, tấm huân chương nào cũng có mặt trái của nó, trong quá trình
phát triển xã hội Hàn Quốc giai đoạn này cũng vấp phải những khó khăn không thể
một sớm một chiều có thể khắc phục được, tập trung ở các vấn đề sau:
- Sự chênh lệch về hoàn cảnh sống giữa nông thôn và thành thị dù đã được
tiếp tục cải thiện so với các giai đoạn trước nhưng vẫn còn khá lớn, dẫn đến những
tâm lý tiêu cực trong nông dân cũng như sự tiếp diễn làn sóng người từ nông thôn ra
thành thị kiếm sống.
- Tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh tiếp tục làm nảy sinh những hậu
quả tiêu cực về mặt xã hội.
- Các vấn nạn xã hội có xu hướng gia tăng nhất là vào đầu thập niên 1990.
- Giáo dục có phần khắt khe, mệnh lệnh.
- Vấn đề dân chủ hóa có lúc, có nơi vẫn chưa thực hiện tốt. Khả năng giải
quyết một cách hòa bình những xung đột xã hội do vậy có khi bị giảm sút, thu hẹp.
1.2. Hàn Quốc trong những năm 1993 – 1997
Với sự nỗ lực phấn đấu của cả Chính phủ và nhân dân, Hàn Quốc đã làm nên
“Sự thần kỳ kinh tế trên sông Hàn” chỉ trong vòng chưa đầy 30 năm. Thực hiện
thành công hai lần cất cánh kinh tế một cách ngoạn mục. Từ chỗ một nước nông
nghiệp lạc hậu, tháng 10 - 1996, Hàn Quốc đã gia nhập Tổ chức hợp tác kinh tế và
phát triển (OECD) của các nước tư bản phát triển nhất thế giới. Sự thành công của
Hàn Quốc đã trở thành niềm ước ao của nhiều nước đang phát triển, khiến các nước
này thôi “hướng về phương Tây” để “nhìn sang phương Đông”với hy vọng sẽ tìm
được những kinh nghiệm cho sự phát triển của kinh tế nước nhà [18].
Từ tháng 2 – 1993, Hàn Quốc bước vào giai đoạn xây dựng “Hàn Quốc mới”
bằng chiến lược toàn cầu hóa với nhiều tham vọng với công cuộc cải cách tương đối
toàn diện và đồng bộ. Tuy nhiên, do những hậu quả tiêu cực của quá khứ để lại và
do những tác động bất lợi của các nhân tố bên ngoài, quá trình phát triển kinh tế - xã
hội trong những năm 1993 – 1997 diễn biến khá phức tạp và không phải lúc nào
cũng thuận chiều.
1.2.1. Tình hình kinh tế Hàn Quốc (1993 – 1997)
Từ năm 1993 đến tháng 12 – 1997, với chương trình “phát triển kinh tế mới”
do tân thủ tướng Kim Young Sam khởi xướng, Hàn Quốc đã có những cố gắng rong
việc cải tổ cơ cấu kinh tế, khuyến khích mở cửa để nâng cao khả năng cạnh tranh,
thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển, tạo ra những sản phẩm cạnh tranh cao trên

18
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

thi trường thế giới, tiếp tục đẩy mạnh đẩy mạnh phát triển các nghành kỹ thuật –
công nghệ cao và bắt đầu thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ sang các
quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới [18; 32 - 33].
Sự phát triển chậm chạp, ì ạch và những hạn chế của nền kinh tế, đặc biệt là
trong quý III năm 1992 đã đặt ra yêu cầu mới, cấp bách cho Hàn Quốc.
Để phục hồi nền kinh tế, ngay bước đầu, Chính phủ Kim Young Sam đã đề ra
kế hoạch kinh tế ngắn hạn 100 ngày và kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm với những
biện pháp quyết định nhằm tiến tới phục hồi lại nền kinh tế và chống tham nhũng:
- Những biện pháp ngắn hạn: Kế hoạch 100 ngày cho nền kinh tế mới, bao
gồm: tăng cường đầu tư; cải tiến cơ cấu của các công ty vừa và nhỏ; bỏ một số điều
luật trong kinh tế; tăng cường phát triển công nghệ.
- Phương hướng chính sách trung và dài hạn: Cải thiện chất lượng cuộc
sống của mọi tầng lớp nhân dân thông qua sự ổn định của việc làm và thu nhập thực
tế cao hơn.
- Các biện pháp cải cách chính của kế hoạch 5 năm cho nền kinh tế mới:
Cải cách hệ thống thuế; cải cách chi tiêu của Chính phủ; cải cách của các thành
phần tài chính; cải cách điều lệ quản tri.
- Kế hoạch phát triển 5 năm cho nền kinh tế: Đây được coi là kế hoạch 5
năm lần thứ bảy để xây nước Hàn Quốc mới, chuẩn bị gia nhập hàng ngũ các quốc
gia phát triển. Ở góc độ kinh tế, nội dung cơ bản của kế hoạch là:
Cơ cấu lại nền kinh tế, bao gồm: Chuyển dịch mạnh mẽ các ngành cần nhiều
lao động, kỹ thuật thấp sang các vùng Đông Nam Á, Trung Quốc và Caribe để đối
phó với tình hình giá lao động tăng; phát triển các ngành sản xuất kỹ thuật cao để
cạnh tranh với hàng hóa của Nhật Bản và Mỹ.
Về chính sách đối ngoại: Đảm bảo sự ủng hộ của thế giới về hòa bình và ổn
định Đông Bắc Á; thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế để gia nhập hàng ngũ các
nước phát triển và có vai trò quốc tế xứng đáng với vị trí này; tăng cường vươn tới
hiện đại hóa nền kinh tế; đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa Hàn Quốc và Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên, trước hết là trao đổi hàng hóa, mở rộng thương mại…
Thực hiện chiến lược toàn cầu hóa, Hàn Quốc sẽ nỗ lực tham gia giải quyết
những vấn đề có tính chất toàn cầu hóa.
Bên cạnh kế hoạch kinh tế ngắn hạn 100 ngày và kế hoạch phát triển kinh tế
5 năm, Chính phủ Chính phủ Kim Young Sam đã đề ra chiến lược toàn cầu hóa.

19
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Động thái ban đầu của Chính phủ là sự điều chỉnh của mình đối với các
Chaebol:
Chaebol theo tiếng Hàn có nghĩa là “tài phiệt”, phần lớn đều có nguồn gốc từ
kinh doanh gia đình quy mô nhỏ ở một số ngành công nghiệp cụ thể. Các tập đoàn
này xuất hiện vào đầu những năm 60 theo chủ trương của Tổng thống Park Chun Hee
[26; 55]. Đây là các tổ hợp công nghiệp thuộc sở hữu của các nhóm gia đình và phát
triển kinh doanh theo mô hình đa dạng hóa. Tiềm lực của các Chaebol mạnh đến mức
họ kiểm soát cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và các hoạt động phi kinh tế khác.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, 30 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc chiếm tới 90% GDP
của Hàn Quốc. Bốn Chaebol lớn nhất là Hyundai, Samsung, Daewoo và Lucky
Goldstar (LG) nắm giữ tới 22% tổng số tài sản, 32% tổng số bán ra và 57% tổng số
xuất khẩu của toàn bộ các công ty kinh doanh ở Hàn Quốc [11; 26-34].
Xét về quy mô, các Chaebol không chỉ gây ảnh hưởng ở trong nước mà còn
trên phạm vi toàn cầu, sớm từng bước khẳng định vị trí của chúng. Ví dụ như
Hyundai, với số tài sản 54,6 tỷ USD, doanh số kinh doanh 75 tỷ USD (1995), có 45
công ty chi nhánh ở nước ngoài, là một tập doàn sản xuất ô tô, nhà đóng tàu lớn
nhất và là công ty xây dựng hàng đầu của Hàn Quốc. Hoặc như Samsung có số tài
sản 51 tỷ USD, doanh số kinh doanh 80 tỷ USD, là công ty quốc tế đứng thứ 12 thế
giới với 140 chi nhánh ở nước ngoài, sản xuất trên 3.000 mặt hàng khác nhau, là
công ty sản xuất chất bán dẫn, điện tử thương mại đến tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm [25; 45].
Đặc điểm nổi bật của các Chaebol Hàn Quốc là mức độ đa dạng hóa kinh
doanh. Nhìn chung, hầu hết các Chaebol đều có phạm vi hoạt động rất rộng, lan ra
hầu hết các hoạt động kinh doanh từ sản xuất các thiết bị viễn thông, ô tô, hàng điện
tử, đóng tàu đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Một trong những nét đặc trưng nhất của Chaebol là đều do gia đình của
người sang lập và hậu duệ của họ chi phối. Chúng đều là những tập đoàn tư bản
được xây dựng trên cơ sở huyết tộc; có tính liên hệ mật thiết với giới chính trị cầm
quyền và sử dụng sức mạnh kinh tế, tài chính của mình để kiểm soát nền kinh tế đất
nước [20; 65].
Do yêu cầu cấp bách là phải chuyển đổi từ nền kinh tế hàng hóa tiêu dùng và
công nghiệp nhẹ sang một nền công nghiệp nặng, hóa chất và thay thế nhập khẩu,
các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách của Chính phủ đa dựa chủ yếu vào các ý
tưởng và sự hợp tác của giới chủ Chaebol. Chính phủ vạch ra kế hoạch phát triển

20
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

công nghiệp còn các Chaebol thì thực hiện các kê hoạch này. Tuy nhiên, công
nghiệp hóa định hướng Chaebol đã dẫn tới phát triển độc quyền và tập trung quyền
lực đối với các hoạt động đem lạii lợi nhuận kinh tế, sử dụng và cấp phát vốn trong
tay một số chủ tập đoàn [16; 69].
Sự thao túng, khuynh đảo nền kinh tế và chính trị của các Chaebol đã làm
Chính phủ lo lắng cho con đường phát triển của Hàn Quốc. Nếu như những năm 70,
nhằm đầy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, Chính phủ Hàn Quốcvới cuộc vận động
HCI đã đẩy tầng lớp Chaebol từ chỗ là “các đơn vị sản xuất” phụ thuộc nhà nước
trở thành các tập đoàn lớn bóp nghẹt đời sống kinh tế của dân tộc và làm hư hỏng
tầng lớp quan chức của đất nước [6; 91 - 95].
Từ năm 1993, Chính phủ Chính phủ Kim Young Sam đã đưa ra hàng loạt các
biện pháp kinh tế vĩ mô và vi mô nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước và đẩy
nhanh quá trình toàn cầu hóa. Đối với hệ thống Chaebol, Chính phủ Chính phủ tiến
hành thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt quyền lực, mà cụ thể là giảm bớt
quyền sở hữu của nội bộ gia đình, bên cạnh đó tăng cường quá trình tư nhân hóa
trong hệ thống Chaebol trên cơ sở tăng cường hệ thống vệ tinh cũng như mở rộng
sự tham gia cổ phần hóa các thành phần kinh tế khác. Các biện pháp trên được tiến
hành song song với quá trình tư nhân hóa các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Theo sau những động thái ban đầu, Chính phủ đã đề ra những bước đi cụ thể
cho chiến lược toàn cầu hóa:
Ngày 21 – 1 – 1995, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập Uỷ ban Xúc tiến
chiến lược toàn cầu hóa. Uỷ ban này có sự tham gia của các bộ, ngành và đặt trực
tiếp dưới quyền Tổng thống; mỗi tháng họp một lần do chính ông Kim Young Sam
chủ trì để thảo luận nội dung cụ thể.
Chính phủ đưa ra hàng loạt biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy chiến lược toàn
cầu hóa. Trước hết thực hiện từng bước việc mở cửa thị trường trong nước như thị
trường tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,…tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài;
cho phép người nước ngoài mua bất động sản tại Hàn Quốc, đơn giản hóa các thủ
tục đầu tư; nới rộng những hạn chế về việc nhập các thiết bị kỹ thuật của các xí
nhiệp nước ngoài. Từ tháng 7 – 1996 Chính phủ Hàn Quốc bỏ lệnh cấm nhập khẩu
28 mặt hàng, súc sản và hải sản. Mở cửa thị trường của 13 trong tổng số 18 loại hải
sản ra thị trường quốc tế [9; 15 - 16].
Những bước đi cụ thể của chiến lược toàn cầu hóa như sau:

21
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Trước tiên và quan trọng nhất, giáo dục phải được toàn cầu hóa. Điều này
nghĩa là hệ thống giáo dục phải được cải cách một cách triệt để để đào tạo một số
lượng đầy đủ những công dân trẻ có đầu óc sáng tạo và dám làm những nhà lãnh
đạo tương lai của đất nước.
- Hai là, các hệ thống pháp luật và kinh tế phải được cải cách để đáp ứng
trình độ hoàn hảo của thế giới.
- Ba là, chính trị và các thông tin cũng phải hướng về toàn cầu hóa một cách
vững chắc hơn.
- Bốn là, cả chính quyền trung ương và địa phương phải được thay đổi cho
phù hợp với tính toàn cầu hóa.
- Năm là, Hàn Quốc phải tham gia một cách tích cực hơn nữa vào những nổ
lực toàn cầu bảo vệ môi trường.
- Và cuối cùng, văn hóa cộng với cách tư duy phải được toàn cầu hóa.
Bằng các chiến lược và các chính sách cụ thể nhằm phục hồi và phát triển
nền kinh tế. Sau 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nền kinh tế
Hàn Quốc đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khâm phục. Những nổ lực của
Chính phủ và nhân dân Hàn Quốc cho công cuộc cải cách kinh tế đã phần nào được
đền đáp. Nhiều chỉ số kinh tế của Hàn Quốc đã vượt lên ngang hàng với các nước
phát triển nhất: tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 7% (riêng năm 1995 là
8,7%). Năm 1995, GDP đạt 451,7 tỷ USD, xếp thứ 11 thế giới, dự trữ ngoại tệ đạt
327 tỷ USD, xếp thứ 14 thế giới. Kim ngạch thương mại năm 1994 đạt 198,4 tỷ
USD, xếp thứ 12 thế giới. Năm 1996, GDP của Hàn Quốc tăng lên 480,4 tỷ USD,
xuất khẩu tăng lên 129,72 tỷ USD [58; 49]. Hàn Quốc đã đứng đầu thế giới trên
nhiều lĩnh vực. Đã khuyến khích khu vực kinh doanh tăng cường đầu tư cho các
ngành chế tạo, trang thiết bị, xuất khẩu và tăng vừa phải cho tiêu dùng. Giá hàng
tiêu dùng, sản phẩm nông nghiệp, ngư nhiệp ổn định, giữ ở mức tăng giá 4,5% vào
năm 1995. Hàn Quốc chính thức đứng vào hàng ngũ các quốc gia phát triển
(OECD) vào tháng 10 – 1996 [20; 258 - 259].
Những thành tựu tăng trưởng của nền kinh tế Hàn Quốc được coi là hình
mẫu của việc thực hiện thể chế “chính phủ lãnh đạo”. Chính phủ lãnh đạo mọi hoạt
kinh tế nhưng lại rất tôn trọng các quy luật vận động của thị trường. “Chính phủ
cứng” và “thị trường mềm” trở thành một cơ chế vận động kinh tế mang đậm sắc
thái châu Á cũng được thực thi khá phổ biến ở Hàn Q uốc. Theo cơ chế này, thị

22
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

trường là nền tảng hoạt động của kinh tế, song Chính phủ vẫn là nhân tố thuộc nội
hàm của cơ chế để thực hiện sự cưỡng chế và chỉ đạo hoạt động tổng thể của thị
trường nhằm hình thành sự quản lý có hiệu quả của Chính phủ. Sự cưỡng chế và
điều tiết của Chính phủ đối với thi trường biểu hiện trên ba điểm: Thứ nhất, khi cơ
chế thị trường quá yếu Chính phủ cần phải làm thay một phần chức năng của cơ chế
thị trường trong việc phân bổ các nguồn tài nguyên ở tầm vĩ mô. Thứ hai, Chính
phủ xúc tiến việc tạo dựng thị trường trong quá trình phát triển kinh tế, dùng sức
mạnh của Chính phủ để nuôi dưỡng thị trường. Thứ ba, Chính phủ tác động trực
tiếp vào thị trường nhằm kích thích sức sống và giữ vững các cân bằng kinh tế, đặc
biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng kinh tế quốc doanh hùng mạnh theo hướng tạo ra
sức sống cho toàn bộ nền kinh tế [33; 102 - 103].
Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh và nóng của nền kinh tế Hàn Quốc đã bộc
lộ những nhược điểm sau một thời gian phát triển với tốc độ chóng mặt. Khủng
hoảng cơ cấu bắt đầu xuất hiện, trước hết là sự mâu thuẫn và mất cân bằng giữa các
ngành công nghiệp xuất khẩu với nhu cầu tiêu dùng nội địa đang tăng lên. Nhu cầu
nhập khẩu cũng đã làm giảm giảm tích lũy ngoại tệ của Hàn Quốc. Dấu hiệu mất
cân đối còn thể hiện trong cơ cấu giữa các ngành công nghiệp và nông nghiệp [21;
142 - 144]. Đặc biệt là từ năm 1996 và đầu năm 1997, những hạn chế, nhược điểm
của nó càng được bộc lộ rõ ràng hơn mà biểu hiện cao nhất là cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ vào nửa cuối năm 1997.
1.2.2. Tình hình xã hội Hàn Quốc (1993 – 1997)
Về xã hội, nhìn chung Chính phủ Kim Young Sam đã có nhiều cố gắng để ổn
định, phát triển xã hội và đã đạt được kết quả nhất định trên một số lĩnh vực xã hội,
cụ thể là:
Về giáo dục – đào tạo, Chính phủ đã công bố kế hoạch cải cách giáo dục dài
hạn, cuộc cải cách này nhằm mục tiêu giáo dưỡng con người của thế kỷ XXI, phấn
đấu đưa nên giáo dục đất nước đến năm 2000 và năm 2020 đạt những chỉ số phát
triển cao nhất thế giới. Các biện pháp đề xuất thực thi là: phải bổ nhiệm một phó thủ
tướng để phối hợp các hoạt động về giáo dục. Hệ thống cấp chứng chỉ, văn bằng sẽ
được xem xét lại để giảm cấp bậc xuống bốn trình độ từ thấp từ thấp đến cao. Đẩy
mạnh các chương trình đào tạo nghề để đáp ứng kịp thời với yêu cầu phát triển. Các
trường đại học quốc gia sẽ dần dần chuyển hóa thành trường dân lập hoặc tư thục.
Mở chương trình đào tạo đặc biệt cho trẻ em năng khiếu, giảng dạy tiếng Anh ở tất
cả các trường tiểu học… [19; 22 - 23].

23
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Thu nhập đầu người tăng, đến năm 1996 đạt 0.548 USD. Tỷ lệ thất nghiệp
giảm từ 2,4% năm 1994 xuống còn 2,0% năm 1995. Số lao động có việc làm tăng
lên trước hết ở khu vực công nghệ chế tạo.
Để mở rộng vốn xã hội, Chính phủ hạ thấp chi phí phân phối của các công ty
và cải thiện sự mất cân đối trong từng khu vực. Tăng cường đầu tư vào nông thôn,
vào cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội, vào y tế, dịch vụ hàng hóa. Chính phủ tiến
hành sửa đổi Luật đất đai, sử dụng các biện pháp nhằm hạn chế đầu cơ bất động
sản. Tiến tới giảm thiếu hụt nhà ở, ổn định giá nhà cửa. Ưu tiên cho tầng lớp dân
nghèo thành thị về nhà cửa. Tập trung mở rộng mạng lưới giao thông công cộng.
Chính phủ cũng cố gắng làm hài hòa sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường như
hướng các thành phần công nghiệp hạ thấp mức tiêu thụ năng lượng và đánh giá
trường cẩn thận hơn sự ảnh hưởng đến môi của các đồ án phát triển; không ngừng
tăng cường phát triển công nghệ làm sạch môi trường, xử lý rác thải và công nghiệp
tái sản xuất…
Phúc lợi xã hội được cải thiện bằng việc xem xét rõ các cấp độ bảo hiểm
cũng như chương trình trợ cấp quốc gia, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn trong lao
động vì nhu cầu ngày càng lớn. Chính phủ nỗ lực tiến tới giảm bớt các điều luật về
đầu tư và mở rộng trợ cấp tài chính trong lĩnh vực phân phối. Mối quan hệ giữa người
chủ và người lao động đã được xác định rõ ràng hơn. Đặc biệt, những công nhân
người nước ngoài cũng được hưởng các quyền lợi phúc lợi xã hội được đề ra trong
bản Dự thảo “Luật về sử dụng và quản lý công nhân người nước ngoài”. Với luật dự
thảo này, khoảng 120.000 người lao động nước ngoài năm 1996 [56; 25] sẽ được
hưởng các quyền lợi như luật về các chuẩn mực lao động, luật về lương tối thiểu, luật
về bồi thường tai nạn lao động và bảo hiểm y tế….Quyền của người tiêu dùng cũng
được mở rộng bằng việc cung cấp thông tin về hàng hóa và dịch vụ cho họ.
Để giải quyết nạn tham nhũng và giải quyết các vụ liên quan đến giới chính
trị và kinh doanh, Tổng thống Kim Young Sam đã tuyên bố rõ rang là ông sẽ từ
chối bất kỳ khoản tiền nào mà giới kinh doanh gửi biếu ông; sa thải nhiều vị bộ
trưởng và sĩ quan cấp cao của Đảng Tự do Dân chủ đang cầm quyền vào năm 1993.
Các vụ tham nhũng về nhận hối lộ của các quan chức Chính phủ đã được phanh
phui trong các năm 1994 - 1995.
Vai trò của phụ nữ Hàn Quốc cũng được chú trọng, quan tâm phát triển,
được mở rộng tới vị trí hoạch định chính sách cao nhất. Những đề nghị của các tổ
chức phụ nữ được phản ánh trong các quyết định chính sách do kết quả của sự tăng

24
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

cường số lượng phụ nữ có học vấn cao cũng như phong trào bình đẳng nam nữ
trong xã hội. Đặc biệt năm 1993, Tổng thống Kim Young Sam đã chỉ định 3 nữ bộ
trưởng trong nội các Chính phủ - Bộ y tế và các vấn đề xã hội, Bộ môi trường và Bộ
các vấn đề chính trị thứ hai.
Nhìn chung, sự phát triển của nền kinh tế đã tạo điều kiện và cơ hội phát
triển cho mọi công Hàn Quốc. Nhưng để có được sự công bằng trong các cơ hội
cũng còn đang là vấn đề nan giải. Đó là sự cách biệt giữa giàu với nghèo vẫn còn
lớn, khoảng cách, trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn vẫn còn xa; phúc
lợi xã hội vẫn chưa tạo được sự công bằng cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
vùng nông thôn. Chính phủ Hàn Quốc với những nỗ lực cho chiến lược toàn cầu
hóa của mình đang cố gắng để khắc phục được những hạn chế đó.
Tháng 11 - 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ sau khi đã hoành hành ở
một số nước Đông Nam Á đã thực sự bùng nổ ở Hàn Quốc. Và một lần nữa Chính
phủ và nhân dân Hàn Quốc lại phải bước vào cuộc chiến mới - khắc phục cơn bão
khủng hoảng để tiếp tục xây dựng đất nước và thực hiện chiến lược toàn cầu hóa đã
đề ra.

25
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HÀN QUỐC


TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1997 – 1998

2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997 – 1998 ở Hàn Quốc
Thành công của sự phát triển ở Đông Á nói chung và Hàn Quốc nói riêng
thật là kỳ diệu. Không có nhóm nước đang phát triển nào lại làm tốt được các công
việc như tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, hòa nhập vào thị trường thế giới hay
nâng cao mức sống bình quân của người dân đến vậy. Trong vòng 25 năm tính từ
năm 1970, thu nhập bình quân tính theo đầu người đã tăng gấp 4 lần. Mức nghèo
khó đã được giảm đi 2/3, mức độ tăng dân số đã giảm xuống nhanh chóng, tình hình
y tế và giáo dục cũng được cải thiện một cách đáng kể [12; 16].
Trong những thập niên trước khi xảy ra khủng hoảng, châu Á và Hàn Quốc
luôn là tâm điểm của mọi sự chú ý. Nhiều nước ở khu vực này, trong đó có Hàn
Quốc có tốc độ tăng trưởng hết sức ngoạn mục và được coi là “tăng trưởng có tính
bền vững” [7; 6]. Đầu tiên người ta xem châu Á trong đó có Hàn Quốc như một mô
hình thành công cho những nước đang phát triển, nhưng sau đó, người ta lại nhắc
đến châu Á như là tâm điểm của những cuộc khủng hoảng tiền tệ. Người ta không
thể lường trước được cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra một cách đột ngột trong
những năm 1997 – 1998, nhất là sau những thập kỷ đạt được thành tựu kinh tế to
lớn [48; 71 - 72]. Thế rồi, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông Á xảy ra. Nó
như một chấn động, như một quả bom kinh tế mà giới quản lý và các nhà khoa học
về kinh tế đã không nhận biết và dự báo được. Cuộc khủng hoảng nặng nề trong hai
năm này đã làm lu mờ hình ảnh rạng rỡ của mấy chục năm phát triển kinh tế thần kỳ
của các “con rồng” Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và những “con hổ
kinh tế” như Malaysia, Indonesia, Thái Lan [15; 29].
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ đã ập đến Hàn Quốc vào tháng 11 -
1997. Với cuộc khủng hoảng này, một lần nữa Hàn Quốc lại làm cho thế giới bất
ngờ. Trong số các NIC Đông Á thì Hàn Quốc là nước bị khủng hoảng tài chính trầm
trọng nhất [41; 187]. Cuộc khủng hoảng đã để lại nhiều “vết thương” khá nặng trên
mình nền kinh tế - xã hội Hàn Quốc và làm cho khuynh hướng phủ định “sự thần kỳ
Đông Á” được dịp bùng nổ.

26
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Về diễn biến, tháng 7 – 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ chính
thức nổ ra ở Thái Lan với sự kiện Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT) tuyên bố
họ không có khả năng giữ giá đồng Bath theo đồng USD nữa (2 – 7 – 1997 [35; 20].
Như một đợt dầu tràn trên biển gặp bão, cuộc khủng hoảng đã ngày một lan rộng,
lan nhanh và lan mạnh sang các nước láng giềng thuộc khu vực Đông Nam Á rồi
Đông Á đặc biệt ở Hàn Quốc.
Nếu như vào cuối năm 1997, Thái Lan là điểm nóng nhất của cuộc khủng
hoảng thì bước sang năm 1998, Thái Lan chỉ còn là nơi khởi đầu của cuộc khủng
hoảng chứ không còn là điểm nóng duy nhất, mà đã có một số điểm nóng khác thậm
chí còn nóng hơn với đồng tiền mất giá tới vài trăm phần trăm như ở Hàn Quốc.
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh
nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng
trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài.
Ngày 21 – 11 – 1997, Hàn Quốc đã yêu cầu một khoản cứu trợ khẩn cấp từ
IMF vào và điều này có nghĩa là Seoul buộc phải chuyển giao “chủ quyền kinh tế”
cho tổ chức tài chính này [1; 33].
Ngày 28 – 11 – 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của
Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều
này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong
ngày 7 - 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do
tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Ngày 14 – 12 – 1997, Hàn Quốc tuyên bố thả nổi đồng Won [1; 15 - 16].
Đồng Won mất giá, tổng số nợ nước ngoài tăng nhanh (130 tỷ USD vào tháng 7 –
1997), mức thâm hụt tài khoản vãng lai tăng mạnh (11,83 tỷ USD trong 8 tháng đầu
năm 1997) … [20; 263].
Ngày 27 – 12 – 1997, Hàn Quốc đã thừa nhận rằng dự trữ ngoại tệ của Hàn
Quốc đã giảm tới mức báo động, còn 8,7 tỷ USD và khoản nợ nước ngoài của Hàn
Quốc đã vượt quá 200 tỷ USD. Tỷ giá hối đoái giữa đồng Won và đồng USD thay đổi
từ 900 Won/1 USD vào tháng 9 – 1997 xuống 1970 Won/1 USD vào giữa tháng 12 –
1997, đây là kỷ lục xuống giá của đồng Won từ trước đến thời điểm này [43; 197].
Ngày 29 – 12 – 1997, 10 trong số 14 ngân hàng thương mại có vấn đề bị
đóng cửa. Hai ngân hàng thương mại lớn bị Chính phủ quản lý. Cuối tháng 4 –
1998, kế hoạch lành mạnh hóa bốn Ngân hàng thương mại bị bác bỏ, nhiều ngân
hàng thương mại bị đóng cửa. Trong năm 1997, có 14.000 doanh nghiệp phá sản và

27
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

trong năm 1998, có tới 53.000 doanh nghiệp phá sản. Tháng 2 – 1999, Tập đoàn
ngân hàng Thượng Hải – Hồng Công mua (HSBC) mua 70% tài sản của ngân hàng
Seoul [45; 131 - 134].
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá
5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng,
tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors. 
Năm 1999, Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung đã tuyên bố: “Hàn Quốc đã
hoàn toàn vượt qua khủng hoảng tài chính, với kim ngạch xuất khẩu tăng, lãi suất
thấp và tốc độ cải cách các cơ sở tài chính và các cơ sở khác mạnh” [43; 15].
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Hàn Quốc trong khủng hoảng
Đây là thời kỳ nền kinh tế Hàn Quốc bị khủng hoảng nghiêm trọng trong bối
cảnh chung của cơn lốc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở châu Á và cuộc khủng
hoảng đó đã lan sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tình trạng của Hàn
Quốc trong nă 1997 là cực kỳ nghiêm trọng: Tỷ lệ tăng trưởng GDP là 1%, lạm phát
5%, đồng Won mất giá 80% , thị trường chứng khoán sụt giá 42% và hàng loạt các
tập đoàn, ngân hàng lớn phá sản [39; 61].Cùng với sự hỗ trợ của Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) và của Mỹ, Nhật Bản và bằng nỗ lực tự thân, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến
hành một loạt cải cách kinh tế, xã hội vừa có tính cấp thiết, vừa mang tính chiến
lược lâu dài, để từng bước đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, tiếp tục ổn
định và phát triển.
2.2.1. Về tình hình kinh tế
Từ giữa những năm 1990, Hàn Quốc bắt đầu đề ra và thực hiện chiến lược
‘‘toàn cầu hóa’’ nhằm phát triển mạnh hơn nữa, theo đó tất cả các tập đoàn, công ty
nhỏ phải “xông ra” thử sức ở bên ngoài, tức là phải hết sức mở rộng hoạt động trên
thị trường thế giới. Giai đoạn 1966 – 1992 , tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hằng năm 9% góp phần nâng cao thu nhập quốc gia theo đầu người từ 82 USD tăng
lên 11.385 USD, đứng thứ hai thế giới sau Nhật Bản vào năm 1996 [24; 188 - 189].
Có thể nói rằng cho đến thời điểm trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, hầu hết
các nhà kinh tế đều nhất trí rằng bí quyết của “kỳ tích sông Hàn” là việc áp dụng
thành công trong điều hành chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ Hàn
Quốc. Đó là việc theo đuổi một chiến lược cũng như có các chính sách khuyến
khích nề kinh tế hướng ngoại, bảo hộ và hỗ trợ các tập đoàn kinh tế có quan hệ mật
thiết với giới chính trị. Lấy xuất khẩu làm động lực chính để phát triển kinh tế và có

28
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong khu
vực tài chính. Chính mô hình phát triển này lại là con dao hai lưỡi đã để lại một vết
thương khá sâu trên mình nền kinh tế Hàn Quốc.
Bên cạnh đó, thiếu sự có mặt của một hệ thống chính trị có năng lực, hoạt
động dựa trên một nền dân chủ thực sự của các chuẩn mực pháp chế đã là mảnh đất
để các chính phủ đương quyền có thể can thiệp sâu vào quá trình phân bổ nguồn
lực. Những khoản tín dụng được Nhà nước bật đèn xanh được ưu ái đã tạo ra mối
hiểm họa khôn lường cho nền kinh tế nói chung. Đồng thời các tổ chức tài chính đã
phớt lờ đi việc đánh giá các rủi ro trong các hoạt động của mình và nghĩ rằng đằng
sau lưng họ là sự hậu thuẫn vững chắc của một “chính phủ tham nhũng”. Các
Chaebol luôn dựa vào mối quan hệ với giới chính trị để có được những nguồn tín
dụng vô tận cho việc thực hiện những kế hoạch mở đầy tham vọng của họ mà không
hề tính đến năng lực thực tế. Và khủng hoảng xảy đến như là cái giá phải trả cho
những sai lầm về sự tồn tại của một khu vực tài chính yếu kém cộng với một hệ
thống chính trị tham nhũng làm biến dạng các nguyên tắc cơ bản trong một nền kinh
tế thị trường tự do.
Ngày 2 – 7 – 1997, Thái Lan tuyên bố họ không có khả năng giữ giá đồng
Baht theo đồng USD nữa, thông báo này tương đương với việc Thái Lan chủ trương
phá giá đồng tiền của mình và mở đầu cho một cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ
ở châu Á. Tiếp theo Thái Lan cuộc khủng hoảng lần lượt “gõ cửa” sang nhiều nước
từ Đông Nam Á đến Đông Bắc Á cũng như ảnh hưởng đến toàn châu Á và thế giới.
Riêng ở Hàn Quốc, những biểu hiện chính của cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về
kinh tế nói chung là:
Đầu tiên, sự đổ vỡ của hàng loạt các Chaebol đã tác động xấu đến nền kinh
tế [20; 263].
Đầu năm 1996, tập đoàn Woosing phá sản. Có thể coi đây là tiếng chuông
cảnh báo cho sự phi hiệu quả của hàng loạt Chaebol. Nhưng lúc đó, có lẽ các nhà
doanh nghiệp và chính trị chưa nhận ra các nguy cơ khủng hoảng đang được tích
lũy, nên không có một biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng nào được
đưa ra.
Ngày 23 – 1 – 1997, tập đoàn thép Hanbo phá sản, để lại món nợ 5,9 tỉ USD
cho 61 ngân hàng và công ty tài chính. Ngày 19 – 3 – 1997, tập đoàn thép Sammi-
Chaebeol đứng thứ 26 của Hàn Quốc phá sản, kéo theo 27 công ty thành viên phá
sản, để lại món nợ 2,2 tỉ USD. Từ tháng 1 – 1997 đến tháng 2 – 1998 có 8

29
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Chaeboel phá sản, trong đó có công ty ô tô KIA, đứng thứ 3 trong công nghiệp ô tô.
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors . Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ
USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp
đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors.
Tiếp theo là sự giảm sút các chỉ số phát triển tiêu biểu:
GDP giảm sút ở mức kỷ lục: Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc cho biết
GDP của Hàn Quốc đã giảm 6,6% trong quý II/1998 sau khi giảm 3,9% trong quý
I/1998. Đây là mức giảm kỷ lục kể từ quý IV/1980. Mức tiêu dùng trong nước yếu
đi, hoạt động đầu tư giảm và các tập đoàn Chaebol thô lỗ nặng là nguyên nhân của
sự sa sút này. Tính chung 6 tháng đầu năm 1998, GDP của Hàn Quốc đã giảm 5,3%
so với cùng kỳ năm 1997, mức giảm kỷ lục kể từ năm 1970.
Trong quý II/1998, sản lượng công nghiệp của Hàn Quốc giảm 6% so với
cùng kỳ năm trước, sản lượng ngành chế tạo giảm 12,1%, ngành dịch vụ giảm
5,6%, mức tiêu dùng trong nước giảm 12,2%...So với 6 tháng đầu năm 1997, sản
lượng công nghiệp giảm 4,5%, sản lượng ngành chế tạo giảm 8,2%, sản lượng
ngành xây dựng giảm 10%, ngành dịch vụ giảm 4,6%, mức tiêu dùng trong nước
giảm 11% [13; 4 - 5]. Thâm hụt thương mại trong tám tháng đầu năm 1997 vượt
qua con số 10 tỷ USD. Các ngân hàng bị phá sản hàng loạt và lâm vào cảnh khốn
cùng do không có khả năng chi trả. Hệ số tín nhiệm của các ngân hàng Hàn Quốc
giảm đáng kể do đó càng gặp khó khăn trong việc đi vay và huy động vốn. Đồng
Won mất giá, tổng số nợ nước ngoài tăng nhanh (130 tỷ USD vào tháng 7 – 1997),
mức thâm hụt tài khoản vãng lai tăng mạnh (11,83 tỷ USD trong 8 tháng đầu năm
1997)…[20; 263].
Từ 13 – 7 – 1997, hàng loạt ngân hàng được các công ty đánh giá cho xuống
hạng “không tin cậy”. Ngày 30 – 9, tỷ giá hối đoái đạt 914,8 Won/ USD, tăng 8%
so với mức 833,2% ngày 31 – 12 – 1996. Ngày 28 và 29 – 10 – 1997, tỷ giá hối
đoái đạt mức giao động cho phép, không ai bán ngoại tệ cho ngân hàng. Ngày 19 –
11 – 1997, giới hạn giao động tỷ giá được mở rộng tới 10% [45; 131].
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh
nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng
trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường
châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của
Hàn Quốc ở quy mô lớn.. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn
Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul

30
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp
dụng các chính sách khắc khổ. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng
1700 Won/USD từ mức 1000 Won/USD. Từ tháng 6 đến 12 – 1997, Chính phủ đã
phải bán ra 14 tỉ USD để kìm giữ tỉ giá, song đã phải từ bỏ nỗ lực này khi dự trữ
ngoại tệ giảm từ 34,1 tỉ USD xuống còn 20,4 tỉ USD.
Do bị sức ép nặng nề từ nhiều phía nên đồng Won đã giảm giá mạnh. Ngày 14
– 12 – 1997, đồng Won được thả nổi. Ngày 23 – 12, tỉ giá tăng vọt tới 2000 Won/
USD, bằng 237% so với 31 – 12 – 1996. Ngày 31 – 12, tỷ giá hối đoái là 1965
Won/USD, bằng 200,8% so với 31 – 12 – 1996. Việc đồng Won cuối cùng phải thả
nổi chính là do việc giảm sút nguồn vốn vay ngoại tệ từ nước ngoài và sự rút vốn đầu
tư nước ngoài ở Hàn Quốc ra khỏi quốc gia này trong năm 1997 [45; 131].
Ngày 27 – 12 – 1997, ông Lim Chang Yuel, Bộ trưởng tài chính Hàn Quốc
đã thừa nhận rằng dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc đã giảm tới mức báo động, còn 8,7
tỷ USD và khoản nợ nước ngoài của Hàn Quốc đã vượt quá 200 tỷ USD. Tỷ giá hối
đoái giữa đồng Won và đồng USD thay đổi từ 900 Won/1 USD vào tháng 9 – 1997
xuống 1970 Won/1 USD vào giữa tháng 12 – 1997, đây là kỷ lục xuống giá của
đồng Won từ trước đến thời điểm này [43; 197].
Ngày 29 – 12 – 1997, 10 trong số 14 ngân hàng thương mại có vấn đề bị
đóng cửa. Hai ngân hàng thương mại lớn bị Chính phủ quản lý. Cuối tháng 4 –
1998, kế hoạch lành mạnh hóa bốn Ngân hàng thương mại bị bác bỏ, nhiều ngân
hàng thương mại bị đóng cửa. Ngày 29 – 6 – 1997, Chính phủ yêu cầu đóng cửa 5
ngân hàng thương mại nhỏ và 2 ngân hàng khác được sát nhập. Ngày 24 – 8 – 1998,
2 ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc là ngân hàng thương mại Hàn Quốc và ngân hàng
Hanil tuyên bố sẽ sát nhập vào cuối năm. Đầu tháng 9 – 1998, 4 ngân hàng Hana và
Boram, Kookmin và Ngân hàng dài hạn Hàn Quốc tuyên bố sát nhập. Ngày 25 – 9 –
1998, Chính phủ công bố hoàn thành đợt một tái cấu trúc các ngân hàng. Tổng
cộng Chính phủ tài trợ 64 nghìn tỉ Won cho các ngân hàng (tương đương 4,6 tỷ
USD). Trong năm 1997, có 14.000 doanh nghiệp phá sản và trong năm 1998, có tới
53.000 doanh nghiệp phá sản. Ngay 31 – 12 – 1998, 5 Chaebol lớn nhất thực tế đã
hoàn thành việc tái cấu trúc 9 lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của mình. Tháng 2 –
1999, Tập đoàn ngân hàng Thượng Hải – Hồng Công mua (HSBC) mua 70% tài sản
của ngân hàng Seoul [45; 131 - 134].
Như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Hàn Quốc bắt nguồn trước
hết từ khâu yếu nhất trong các yếu tố bên trong của nền kinh tế là các Chaebol.

31
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Sự phá sản của tập đoàn thép Hanbo vào tháng 1 – 1997 và tiếp theo là của
14.000 doanh nghiệp trong năm 1997 đã kéo theo các ngân hàng – chủ nợ của các
doanh nghiệp – cũng bị phá sản. Hai chuỗi phá sản này đã làm cho các nhà đầu tư
nước ngoài và dân chúng lo sợ, họ rút vốn, đổi ra ngoại tệ, làm cho áp lực phá giá
đồng Won tăng liên tục, Chính phủ Hàn Quốc phải bán 14 tỷ USD để giữ tỷ giá.
Cuối cùng tỷ giá thả nổi sẽ làm cho nợ của các doanh nghiệp và ngân hàng càng lớn
hơn, họ càng lao vào vực phá sản.
Sự khủng hoảng ở các nước khác như Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng
tác động tiêu cực vào nền kinh tế Hàn Quốc qua 2 kênh: áp lực cạnh tranh hàng xuất
khẩu với Hàn Quốc do họ đã phá giá nội tệ từ tháng 7 và tháng 8 – 1997 và sự phá
sản các doanh nghiệp và ngân hàng ở các nước này làm cho các doanh nghiệp và
ngân hàng Hàn Quốc là chủ nợ càng khó khăn thêm [45; 134 - 136].
Không chỉ làm rối loạn nền kinh tế, cuộc khủng hoảng còn gây nên những
chấn động lớn trên chính trương Hàn Quốc, nhất là trong bối cảnh cuộc bầu cử tổng
thống ở nước này vào cuối năm 1997, gây thêm những căng thẳng cho các đảng phái
trong tranh cử, đồng thời cũng gây sự phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng. Nhiều
cuộc biểu tình của dân chúng đã diễn ra bắt nguồn chủ yếu từ khủng hoảng và thất
nghiệp, phản đối chính phủ và đòi khắc phục nhanh chóng cuộc khủng hoảng này.
Và như vậy, có thể nói rằng bước sang năm 1998, cuộc khủng hoảng ở Hàn
Quốc không chỉ đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, mà là cuộc
khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội, bởi nó đã tác động đến tất cả các mặt của
đời sống xã hội ở Hàn Quốc. Từ cuộc khủng hoảng kinh tế đã kéo theo những
khủng hoảng xã hội gay gắt. Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên từ 2% năm 1995 lên 6% năm
1997 đã đưa số người thất nghiệp ở Hàn Quốc lên mức 600.000 người tính đến cuối
năm 1997 và 1,37 triệu người tính đến tháng 4 – 1998. Kể từ khi xảy ra khủng
hoảng, trung bình mỗi tháng ở Hàn Quốc có 3.000 xí nghiệp bị phá sản, trung bình
mỗi ngày có 10.000 lao động bị mất việc làm. Đồng Won giảm giá, lạm phát tăng
9% đã đẩy mức thu nhập tính theo đầu người của Hàn Quốc trở lại mức dưới 10.000
USD (9.511 USD vào năm 1997) [13; 4 - 5] và tạo ra những rối loạn xã hội như
tranh chấp lao động, đình công,…
2.2.2. Về tình hình xã hội
Bên cạnh việc phải đối phó với những khó khăn trên lĩnh vực kinh tế, Hàn
Quốc còn phải đối phó cả những vấn đề xã hội hết sức phức tạp do khủng hoảng
kinh tế gây ra.

32
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Hàn Quốc đã kéo theo những rối loạn xã hội
gay gắt. Đó là sự phá vỡ những giá trị truyền thống, chiều hướng nghèo tương đối
lan rộng, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập giảm sút … Thất
nghiệp, mất thu nhập với quy mô lớn làm nảy sinh hàng loạt vấn đề xã hội. Khủng
hoảng tài chính đã làm gián đoạn 30 năm tăng trưởng nhanh chóng, vốn đã tạo ra
những tiến bộ vượt bậc trong việc giảm đói nghèo và cải thiện các chỉ số xã hội.
Tác động xã hội của cuộc khủng hoảng thật nhanh chóng và phức tạp không
ngờ.Hàn Quốc có sự gia tăng đói nghèo mạnh nhất. Ngay trước khủng hoảng trong
quý I – 1997 là 7,5% thì đến quý III – 1998 tăng lên 23%. Tỷ trọng tiền và lương
tháng trong thu nhập quốc dân khả dụng đã giảm từ 55% năm 1997 xuống 51%
năm 1998 [40; 140].
Số người nghiện ma túy tăng từ 6.819 người năm 1996 lên 10.589 người năm
1998. Số vụ ly hôn tăng từ 80.000 năm 1996 lên 123.700 năm 1998. Sự phá sản của
hơn 70.000 doanh nghiệp và ngân hàng trong năm 1997 và 1998 đã làm cho số
người thất nghiệp tăng từ 426.000 năm 1996 lên 1.461.000 năm 1998. Con số người
thất nghiệp tiếp tục tăng lên, trở thành một thách thức lớn đối với nền kinh tế -
chính trị - xã hội của Hàn Quốc. Lao động – việc làm đã trở thành một thách thức
không nhỏ đối với việc phục hồi kinh tế Hàn Quốc.
Có thể nói, cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra vào cuối năm 1997 đã tác
động không nhỏ đến nền kinh tế Hàn Quốc nói chung và thị trường lao động Hàn
Quốc nói riêng. Nó làm cho nền kinh tế suy giảm nghiêm trọng và khiến hàng loạt
các công ty và tổ chức tài chính phải ngừng hoạt động hoặc phá sản. Các ngân hàng
và tổ chức tín dụng phải tăng cường các biện pháp an toàn tín dụng và vì vậy không
thể tiếp tục cho vay, ngay cả đối với các công ty làm ăn tốt. Điều này khiến một số
lượng lớn các công ty vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn không thể tiếp tục duy
trì hoạt động. Bên cạnh đó, các tập đoàn lớn (Chaebol) cũng rơi vào tình trạng
tương tự phải thanh toán bớt các khoản nợ để đảm bảo mức nợ an toàn và cũng
không được vay mới, buộc họ phải áp dụng các biện pháp đối phó như sa thải nhân
công, cắt giảm tiền công và điều chỉnh cơ cấu việc làm, các phong trào lao động
(biểu tình, bãi công) tăng cao ... [49; 10].
Ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, nhu cầu trong nước cần phải được
kiểm soát và cần thu hút nhiều vốn nước ngoài nhằm bảo vệ cán cân dự trữ ngoại hối.
Vì vậy, lãi suất đã được nâng lên 30% trong nửa đầu năm 1998 và các khoản vay
ngân hàng đã bị cắt giảm. Các động thái này đã dẫn tới tình trạng phá sản hàng loạt,

33
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ không có khả năng chi trả nợ lãi vay. Khu vực xây
dựng và chế tạo đã mất đi khoảng 1 triệu việc làm vào năm 1998, chứng tỏ rằng các
công ty đặc thù (có tỷ lệ nợ cao) ở các khu vực này đã phải chịu nhiều tác động hơn
từ cuộc khủng hoảng tài chính. Đồng thời cũng xuất hiện một sự dịch chuyển việc
làm từ khu vực chế tạo và xây dựng sang khu vực thương mại và dịch vụ.
Đối tượng lao động chịu tác động của cuộc khủng hoảng nhiều hơn cả là
những lao động phổ thông (chưa qua đào tạo). Thợ thủ công giảm 620.000, lao
động chân tay giảm 254.000, thu ngân giảm 154.000... trong khi số lao động kỹ
thuật và chuyên nghiệp mất việc làm không nhiều. Tỷ lệ mất việc làm nhiều nhất là
ở nhóm lao động có trình độ học vấn thấp từ phổ thông trung học trở xuống (mất tới
hơn 1 triệu việc làm), và ở nhóm lao động trẻ vì tuyển dụng mới rất ít trong năm
1998. Những thay đổi về việc làm kể từ sau năm 1999 chịu tác động bởi những thay
đổi về cơ cấu trong thị trường lao động, các việc làm dài hạn (trên 1 năm) tiếp tục
giảm đi trong khi các việc làm ngắn hạn (dưới 1 năm), tạm thời (dưới 1 tháng) tăng
lên. Luật Tiêu chuẩn lao động ở Hàn Quốc ngăn cấm việc ký hợp đồng lao động có
thời hạn cố định quá một năm. Vì vậy, các lao động dài hạn thường được tuyển
dụng dưới dạng một hợp đồng không có điều khoản thời hạn. Việc làm dài hạn
giảm 694.000 trong giai đoạn 1997-1998. Việc làm tạm thời tăng 554.000 vào năm
1999. Các việc làm tại gia, tự do, tự trả lương cũng tăng lên đáng kể vào năm 1998.
Mặc dù các việc làm loại này có giảm đi trong năm 1999 nhưng vẫn chiếm tỷ lệ lớn
trong tổng việc làm so với năm 1997 [49; 11].
Theo các con số thống kê của Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, tỷ lệ thất
nghiệp đã tăng từ 2,5% năm 1997 lên 8,6% vào tháng 2/1999. Số người thất nghiệp
tăng từ 0,5 triệu trước khủng hoảng lên 1,5 triệu vào năm 1998 và 1,8 triệu vào
tháng 2/1999. Dân số phi hoạt động kinh tế tăng 5,5% (từ 13,13 triệu lên 13,85
triệu) trong khi dân số hoạt động kinh tế giảm 0,9% (từ 21,60 triệu xuống 21,39
triệu) trong giai đoạn 1997 - 1998. Thời gian thất nghiệp bình quân cũng trở nên dài
hơn. Tỷ trọng thất nghiệp 6 tháng hay dài hơn đã tăng từ 7,8% trong quý I/1998 lên
31,2% trong quí I/1999.
Việc làm suy giảm dẫn tới sự suy giảm về tỷ trọng tiền công và tiền lương
trong thu nhập quốc gia (từ 55% năm 1997 xuống 50,8% năm 1998) trong khi tỷ
trọng lợi nhuận tăng từ 9,2% lên 9,4%, và tỷ trọng thu nhập tự trả tăng từ 33,3% lên
37,2%. Hơn nữa, sự suy giảm việc làm là không giống nhau giữa các khu vực và
các nhóm lao động. Nhóm nghèo và gần nghèo chịu tác động nhiều hơn và nhóm

34
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

lao động không kỹ năng ở khu vực thành thị là nhóm bị sa thải đầu tiên. Trong khi
việc làm ở nhóm tiền công thấp như công nhân xây dựng giảm 21,3% thì việc làm ở
nhóm lao động quản lý, hành chính, kỹ thuật và chuyên nghiệp lại tăng 1,3% ngay
cả trong giai đoạn khủng hoảng 1997 – 1998 [49; 11 - 13].
Đối tượng lao động chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tiếp theo
là thanh niên Hàn Quốc. Đặc biệt, kể từ sau khủng hoảng kinh tế 1997, thị trường
lao động không ổn định, tình trạng thất nghiệp luôn là một trong những nỗi lo của
chính phủ và vấn đề việc làm của thanh niên cũng không phải ngoại lệ.
Tình hình việc làm của thanh niên Hàn Quốc chịu tác động mạnh mẽ bởi
cuộc khủng hoảng tài chính do thiếu hụt ngoại hối năm 1997. Sau cuộc khủng hoảng
này thị trường lao động suy giảm nhanh chóng kể từ năm 1998. Trước cuộc khủng
hoảng tài chính, số lượng thanh niên không có việc làm là tương đối ít. Năm 1996, tỷ
lệ thất nghiệp chung là 2% và chỉ riêng giới trẻ là 4,6%. Năm 1997, con số tương ứng
là 2,6% và 5,7%. Tuy nhiên, sau khủng hoảng tài chính, nhiều lao động trở thành
người thất nghiệp do các công ty buộc phải cơ cấu lại cũng như môi trường kinh
doanh gặp nhiều khó khăn. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 7%, trong đó thất
nghiệp của giới trẻ tăng đến 12,2% năm 1998. Năm 2002, thất nghiệp của giới trẻ
giảm xuống 6,6% nhưng lại tăng trở lại 7,7% năm 2003 do nhu cầu trong nước bị suy
giảm. Con số này cao gấp hai lần so với tỉ lệ thất nghiệp chung của Hàn Quốc (3,4%),
và số lượng thanh niên thất nghiệp lên tới 383.000, chiếm 49,3% trên tổng số người
thất nghiệp (777.000). Tỷ lệ thanh niên tham gia lao động (số lượng thanh niên có
việc làm / tổng số thanh niên) giảm từ 46,2% năm 1996 xuống 44,4% năm 2003.
Điều này phản ánh tình hình việc làm không thuận lợi cho thanh niên do các công ty
cắt giảm tuyển dụng sau khủng hoảng tài chính năm 1997 [2; 34].
Theo một thống kê khác tại Hàn Quốc, trong số những sinh viên vừa tốt
nghiệp năm 2007, chỉ có 48,7% có được công việc chính thức tại các công ty. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc hơn một nửa sinh viên mới ra trường ở trong tình
trạng không có việc làm hoặc phải làm những công việc không chính thức trên thị
trường lao động. Những người lao động dạng này thường có thu nhập trung bình
khoảng 880.000 won một tháng. Nhiều người trong số họ lúc ra trường mang đầy
những hoài bão và ước mơ, nhưng khi ra ngoài xã hội bắt đầu cảm nhận thấy những
khó khăn vất vả như đi trong đường hầm tối mà vẫn chưa tìm thấy lối ra.
Bên cạnh đó, cũng phải nhận thấy rằng sinh viên mới ra trường hiện nay
ngày càng gặp nhiều khó khăn khi đi tìm kiếm việc làm. Nếu những năm 70, tỉ lệ

35
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

khi tuyển dụng những người có bằng đại học là 1/3,2 thì bước vào thế kỷ 21 con số
này tăng lên 1/13,9. Trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, chỉ với bằng
đại học thì chưa đủ để có việc làm, cần phải có thêm những tiêu chí như có kinh
nghiệm làm trợ lý, từng làm thêm, bằng cấp, nhận học bổng, tham gia các hoạt động
tình nguyện,… và gần đây một tiêu chí đang rất được chú trọng là học tại nước
ngoài [2; 35 - 36].
Biến đổi rõ nét nhất trong thị trường lao động trẻ là sự suy giảm cơ hội việc
làm cho thanh niên. Bảng 2 cho thấy tăng trưởng GDP 7% trong những năm 90 đã
giảm xuống 3,1% năm 2003. Hơn nữa, hệ số tương quan việc làm (số lao động trên
1 tỷ won GDP) cho thấy mức độ gia tăng số lượng công việc trên một đơn vị GDP
đạt 41,9 người năm 2002, giảm so với 68,7 người năm 1990. Sự giảm sút này được
lý giải bởi lao động công nghiệp ngày càng chuyên môn hóa với việc áp dụng tự
động hóa, công nghệ thông tin, … Khó khăn trong qúa trình tạo nhiều việc làm mới
dẫn tới sự suy giảm trong tuyển dụng, điều này tác động mạnh đến giới trẻ, những
người lần đầu tiên tham gia vào thị trường lao động.
Mặc dù nguồn cung sinh viên tốt nghiệp tăng, nhưng số lượng công việc tốt
mà họ muốn làm ở trong các công ty lớn, cơ quan tài chính, cơ quan nhà nước thì
lại giảm. Do sự mất cân bằng giữa cung và cầu nên các công ty lớn không tuyển
dụng hết nguồn lao động trong khi các công ty vừa và nhỏ lại thiếu. Tình trạng này
kéo dài cho đến tận bây giờ với tỷ lệ thất nghiệp là khá cao.
Số liệu của một nghiên cứu gần đây cũng phản ánh thực trạng này trong thị
trường lao động của thanh niên Hàn Quốc hiện nay. Trong số 278000 sinh viên mới
ra trường năm 2007, không tính những người học tiếp lên cao học và tham gia nghĩa
vụ quân sự còn khoảng 247000 người được chọn làm đối tượng điều tra thực trạng
việc làm của Bộ giáo dục Hàn Quốc. Kết quả cho thấy, tính cả những người lao
động không chính thức, tỉ lệ có việc làm là 68% cao hơn không đáng kể so với năm
2006 là 67,3%. Nhưng tỉ lệ người lao động với tư cách là nhân viên chính thức của
công ty thấp nhất từ trước đến nay là 48,7% (năm 2006 con số này là 49,2%).
Tương ứng với đó, tỉ lệ lao động không chính thức tăng từ 16,7% lên 17,9%. Những
con số này phần nào cho thấy thực trạng là nền kinh tế Hàn Quốc hiện nay không
tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động [2; 36 - 38].
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với thị trường lao động Hàn
Quốc còn được thể hiện ở sự suy giảm tiền công. Giai đoạn 1991-1996, tiền công
danh nghĩa bình quân ở các công ty có từ 10 công nhân trở lên đã tăng gấp đôi, tính

36
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

trung bình tăng 15,3%/năm. Trong cùng giai đoạn này, tỷ lệ lạm phát hàng năm
tăng 7,2%, tiền công thực tế tăng 6,1% bình quân năm và năm 1996 tăng 36% so
với năm 1991. Mức tăng tiền công này đã đột ngột dừng lại vào năm 1998 khi mà
mức tăng tiền công danh nghĩa giảm 2,5% so với năm trước.
Sự phục hồi của tiền công danh nghĩa năm 1999 là hình ảnh phản chiếu
những gì đã xảy ra vào năm 1998. Những khu vực có mức tiền công suy giảm mạnh
nhất vào năm 1998 đã phục hồi nhanh nhất vào năm 1999. Tương tự như vậy trong
cơ cấu tiền công, tiền công danh nghĩa đã giảm ở hầu hết    trong giai đoạn 1997-
1998 và nó đã tăng trở lại ở hầu hết các công ty này vào năm 1999. Mức tăng tiền
công bình quân năm 1999 đạt 12,1%. Chênh lệch thu nhập giữa lao động nam và nữ
là không đáng kể thậm chí có xu hướng thu hẹp do sự gia tăng của lực lượng lao
động nữ có trình độ cao vào thị trường lao động, và lực lượng lao động nữ trình độ
thấp giảm đi. Tiền công và việc làm cũng bị suy giảm nhiều hơn ở nhóm lao động
trẻ (20-29 tuổi) so với nhóm lao động trung niên (40-54 tuổi).
Lãi suất tăng mạnh vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng đã làm gia tăng
bất bình đẳng về thu nhập. Hệ số Gini về thu nhập đã từng suy giảm vào thập niên
1980, cho thấy sự thu hẹp khoảng cách trong phân phối thu nhập, tuy nhiên hệ số
này đã tăng dần trở lại kể từ giữa thập niên 1990 và tăng vọt vào giai đoạn 1997-
1998. Mặc dù nền kinh tế đã bắt đầu phục hồi vào năm 1999 nhưng khoảng cách
trong phân phối thu nhập vẫn không thu hẹp so với năm 1998, cho thấy rằng tác
động của cuộc khủng hoảng là lâu dài chứ không phải nhất thời. Việc làm ở nhóm
lao động có thu nhập thấp giảm đi trong khi việc làm ở nhóm lao động có kỹ năng
cao tăng lên cũng dẫn tới sự mất cân đối trong phân phối thu nhập, bởi thu nhập sẽ
tập trung vào nhóm lao động có kỹ năng cao, và giảm đi ở nhóm có kỹ năng thấp
[49; 13 - 14].
Có thể nói, kể từ khi nền kinh tế Hàn Quốc lâm vào khủng hoảng do ảnh
hưởng của “cơn sốt tài chính châu Á”, người lao động Hàn Quốc, đặc biệt trong các
công ty và các Chaebol, đã phải đối mặt với một thực tế khắc nghiệt do các công ty
nơi họ làm việc phải thu hẹp lại sản xuất, sắp xếp lại tổ chức hay đóng cửa, họ có
thể bị mất việc bất cứ lúc nào và điều đó đối với họ thực sự khủng khiếp. Người lao
động Hàn Quốc buộc phải thay đổi cách nhìn hay quan niệm bản thân vì như lời của
Tổng thống Kim Dae Jung, đã xuất hiện một “Hàn Quốc mới” gồm “những người
cũ đã đổi mới để có khả năng cạnh tranh nhiều hơn”[47; 38].

37
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Tuy nhiên, để làm được điều đó thật chẳng dễ dàng một chút nào bởi “cái”
sĩ diện và ý thức về địa vị xã hội , bởi những tư tưởng Khổng giáo vẫn đang tồn tại
mạnh mẽ trong con nguời Hàn Quốc. Nhưng thực ra, những điều này khiến cho
người Hàn Quốc, đặc biệt là những người lao động gặp không ít khó khăn, trở
ngại khi cuộc sống của họ bị đảo lộn hoàn toàn. Trước đây, khi còn làm việc tại
các công ty, tập đoàn lớn, họ được nể trọng, được biệt đãi với các cơ quan nhà
nước. Uy tín của các công ty lớn của các công ty lớn đã đảm bảo cho họ đủ thứ.
Thế nhưng giờ đây, mọi thứ cũng đều tan vỡ như bọt xà phòng. Lòng kiêu hãnh
của họ bị tổn thương, họ cảm thấy rất xấu hổ khi mất việc và phải làm việc khác
để kiếm sống [47; 38].
Cũng vì lòng kiêu hãnh đó mà nhiều người vẫn cố bám lấy vỏ ngoài trong
những ngày đầu thất nghiệp. Để khỏi phỉa xấu hổ khi đối diện với người thân trong
gia đình, họ vẫn chỉnh tề y phục như khi còn đi làm song lại la cà ở các quán cà phê,
tha thẩn ở vùng ngoại ô, ở các thánh đường … để nhận sự giúp đỡ của các tổ chức
nhân đạo và phi chính phủ. Họ đến những nơi này để tìm kiếm thông tin về công
việc mới, để nghỉ ngơi, thậm chí để ngủ, và rồi khi không còn chịu đựng nổi sự
“mất mặt”, họ chỉ còn một cách lụa chọn duy nhất là cái chết. Các báo, đài Hàn
Quốc vào thời điểm này đều tràn ngập các tin đáng buồn tương tự hoặc tệ hơn nữa.
Có những cặp vợ chồng thất nghiệp đã tự tử tập thể với các con của họ trung bình ít
nhất 2 vụ trong mỗi tháng. Và khi Hàn Quốc còn đang trượt trên con đường khủng
hoảng tồi tệ nhất từ trước đến nay, thất nghiệp đã gia tăng với một tốc độ đáng báo
động. Số iệu do Cục Thống kê Quốc gia thông báo mức thất nghiệp là 1,4 triệu hay
6,7% lực lượng lao động toàn quốc. Mức này gấp đôi mức vào cuối năm 1997 và là
mức cao nhất trong vòng 12 năm qua. Số người bị sa thải lên đến mức cao nhất vào
tháng 2 – 1998, lúc đó 10.000 người mất việc làm mỗi ngày [55; 12].
Thảm trạng của họ chắc chắn sẽ càng tồi tệ hơn trong các tháng tháng tới khi
việc cải tổ các công ty được đẩy mạnh, làm cho số người thất nghiệp sẽ tăng lên 2 triệu.
Ở một quốc gia như Hàn Quốc, khi mà chế độ tuyển dụng cả đời (từ lúc mới vào làm
đến lúc về hưu) phổ biến và được xem là điều dĩ nhiên đã bốn mươi năm trước khủng
hoảng, đồng thời hệ thống an simh xã hội hầu như không hiện hữu thì con số 2 triệu
người thất nghiệp có thể trở thành các bất ổn xã hội đặc biệt nghiêm trọng.
Một trong các đặc điểm của xã hội Hàn Quốc là phần lớn các hộ gia đình đều
dựa vào thu nhập của một người đàn ông chủ gia đình. Do đó, khi anh ta bị sa thải,
sự việc này đưa lại một hậu quả tàn phá đối với toàn gia đình. Theo các nhà tâm lý

38
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

học Hàn Quốc, nếu anh ta không mau chóng được tái thu dụng, tìm kiếm được công
việc mới thì gia đình anh ta sẽ dễ dàng “tan đàn xẻ nghé” dưới áp lực tài chính và sự
căng thẳng tinh thần. Cũng vì vậy mà số các vụ ly dị và trẻ em bị đem cho các nhà
nuôi trẻ mồ côi đang tăng nhanh kể từ đầu năm 1998. Vào tháng 3 – 1998, một bộ
phim tài liệu được phát bởi đài truyền hình Seoul đã cho thấy cảnh thương tâm của
các bậc cha mẹ đành đoạn giao con của họ cho các trung tâm phúc lợi xã hội vì họ
không còn khả năng chăm sóc chúng [55; 12 - 13].
Linh mục Tun Won tại thánh đường Myondong nói “sự phá hủy gia đình là
hậu quả nguy hiểm nhất của nạn thất nghiệp” và “tất cả các vấn đề khác đều nảy
sinh từ đây”. Trong lúc đó vẫn phải thừa nhận một luân lý khắc nghiệt trong xã hội
Hàn Quốc có khuynh hướng xem rẻ người thất nghiệp như kẻ lười biếng, vô tích sự
và không thể tìm được nghề ngỗng gì để kiếm sống. Luân lý này đã làm cho nhiều
người thất nghiệp cần giúp đỡ xấu hổ, ngần ngại đi tìm việc vì sợ mất mặt. Cuối
cùng chính gia đình của người nhân viên bị sa thải phải chịu đựng nhiều đau khổ
nhất [55; 13].
Có thể nói, cuộc khủng hoảng kinh tế đã kéo theo những khủng hoảng xã hội
một cách nặng nề. Để vượt qua khó khăn đó, không chỉ có những nỗ lực từ phía
Chính phủ Hàn Quốc mà còn là của cả dân tộc Hàn, cộng với sự trợ giúp của các tổ
chức quốc tế.
2.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội của Hàn Quốc
Có thể nói rằng, cả ba nhóm nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính
– tiền tệ ở các nước châu Á cũng được phản ánh trong tình hình ở Hàn Quốc. Tuy
nhiên, xuất phát từ điều kiện cụ thể của Hàn Quốc nên mức độ và cách biểu hiện có
những đặc thù riêng.
Về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng của Hàn Quốc có thể thấy chúng
không thể tách rời với một số hạn chế, khó khăn cần phải giải quyết trong quá trình
phát triển của Hàn Quốc, xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu nhất, bao gồm:
Thứ nhất, do tình trạng quản lý yếu kém, thiếu lành mạnh trong hệ thống tài
chính – ngân hàng, nhất là hiện trạng cho vay số tiền gấp vài lần số vốn và không
thể thu hồi dẫn đến việc không thể thanh toán nợ [20; 265].
Về phần nợ, khủng hoảng xảy ra không phải do nợ nước ngoài quá lớn mà do
vấn dề cơ cấu nợ, trong đó tỷ trọng nợ ngắn hạn chiếm tới 58% tổng số nợ nước
ngoài [5; 72]. Bên cạnh đó, sự o bế của nhà nước cho các doanh nghiệp lớn của Hàn

39
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Quốc về mặt tín dụng nên nhiều doanh nghiệp lớn (ví dụ Deawoo) đã có chiến lược
đầu tư sai lầm, xây dựng quá nhiều doanh nghiệp ở nhiều nước nên tỷ lệ vay trong
tài sản quá lớn (hơn 50% tài sản là vốn vay nước ngoài). Trước tình trạng đó nhiều
nhà đầu tư nước ngoài lo ngại nền kinh tế Hàn Quốc có thể giảm tăng trưởng và
kém hấp dẫn nên khi cuộc khủng hoảng nổ ra ở Thái Lan (5-1997), họ lập tức rút
vốn, dẫn đến khủng hoảng ở Hàn Quốc (12-1997).
Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế Hàn Quốc cho rằng nguyên nhân bề ngoài của
khủng hoảng là nợ, nguyên nhân bề sâu của khủng hoảng chính là vấn đề cơ cấu
giữa khu vực doanh nghiệp và hệ thống tài chính. Nhiều năm qua ở Hàn Quốc đã
khắc sâu mối quan hệ giữa tín dụng ưu đãi của ngân hàng, đằng sau ngân hàng là
chính phủ, với các doanh nghiệp. Trước đây các doanh nghiệp xuất khẩu dễ dàng,
khối lượng lớn nên trả được nợ. Từ cuối thập kỷ 80 ctủa thế kỷ XX trở lại đây các
nước phát triển không dang tay đón nhận hàng rẻ của Hàn Quốc nữa, tiền lương của
lao động Hàn Quốc cũng tăng nhanh nên các doanh nghiệp xuất khẩu trở nên không
có tính cạnh tranh, không nỗ lực hướng đến cạnh tranh mạnh mẽ, nên không trả
được nợ ngân hàng. Điều đó cho thấy thực tế vốn đầu tư không có hiệu quả, thể chế
cấp tín dụng không kiểm soát được nợ một cách có hiệu quả. Hơn nữa các Chaebol
không nhận thấy tình hình trong nước và quốc tế đã thay đổi nên không quan tâm
nâng cao tính cạnh tranh, dựa dẫm ỷ lại vào các quan hệ chính trị nên khi các chủ
nợ rút vốn ào ạt, nhiều Chaebol bị phá sản.
Thứ hai, do Chính phủ quá “cưng chiều” các Chaebol. Họ được hưởng nhiều
ưu đãi, nhất là trong việc vay vốn trái với nguyên tắc kinh tế và hầu như không quan
tâm đến khả năng thu hồi vốn. Thông thường các Chaebol vay từ 200 đến 1000% số
vốn tự có của họ để kinh doanh theo kiều bạch tuộc, sử dụng những đồng tiền
không phải của mình trong đó chủ yếu đầu tư vào bất động sản và một số mở rộng
sản xuất quá tải. Nhưng kết quả lại diễn ra ngược lại, dẫn đến tình trạng một loạt
các Chaebol lâm vào tình cảnh làm ăn thô lỗ, phá sản [10; 56].
Trên thực tế hầu hết các Chaebol đều gặp khó khăn về tài chính. Tình trạng
vay nợ của các Chabol đã tăng lên một cách đáng kinh ngạc.. Điểm yếu này của các
Chaebol đã dẫn đến sự khủng hoảng trong khâu vay và thanh toán tín dụng. Bên
cạnh đó, với số vốn ưu đãi, họ đã mở rộng sản xuất một cách thái quá mà không tập
trung nghiên cứu xem liệu dung lượng thị trường có còn cho phép nữa không? Vì
vậy, khi nhu cầu thế giới về hàng điện tử và vi mạch – sản phẩm chính của các tập
đoàn này – giảm đi quá nhanh chóng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực

40
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

đã tạo nên sự “rơi giá”, khiến cho hoạt động sản xuất của Hàn Quốc lâm vào tình
trạng khó khăn và lợi nhuận của các Chaebol cũng trượt dốc theo. Do đó, nền tảng
tài chính của họ cũng trở nên non yếu.
Bên cạnh đó, sự tập trung sức mạnh kinh tế trong các Chaebol cũng đã dẫn
đến tình trạng thiếu nguồn lực phát triển cho các công ty khác ở Hàn Quốc và nhiều
công ty trong số đó đã bị loại khỏi thị trường. Sự tập trung quyền lực kinh tế đã dẫn
đến hậu quả sản xuất giảm sút và tạo điều điều kiện cho các tập đoàn kinh doanh áp
đặt mức giá độc quyền cao cho các sản phẩm của họ. Từ đó làm giảm mức tiêu thụ
của người dùng và làm tổn thương quan niệm của công chúng về sự công bằng, vì
một tỷ lệ rất cao trong thu nhập thực chất đã được chuyển từ túi của người tiêu dùng
trở lại các tập đoàn độc quyền hoặc các tập đoàn tài phiệt [34; 18 - 19].
Thứ ba, do sự kém trong sạch và hoạt động thiếu hiệu quả của bộ máy nhà
nước trong quản lý điều hành đất nước trong thời điểm cụ thể: hiện tượng hối lộ,
tham nhũng, tình trạng quan liêu, độc đoán có phần chủ quan, duy ý chí trong
những quyết sách có tầm vi mô. Mặc dù quan tâm đến vấn đề chống tham nhũng,
nhưng do sự tác động của lực lượng thân tín, Tổng thống Kim Young Sam vẫn
không thể đẩy mạnh hơn việc dân chủ hóa và do vậy không tạo ra những điều kiện
có thể đạt được mục tiêu đó.
Trách nhiệm lớn nhất đối với cuộc khủng hoảng thuộc về Chính phủ, bởi vì
Chính phủ do Tổng thống đứng đầu đã dẫn dắt nền kinh tế đất nước đi đến tình
trạng khủng hoảng và điêu đứng này. Có thể nói rằng, cũng giống như tất cả các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội dưới “chế độ độc tài” mới có từ cuộc đảo chính
quân sự ngày 16 – 5 – 1961 của Park Chung Hee, nền kinh tế được thiết lập cũng là
một nền kinh tế được kiểm soát một cách quan liêu do Chính phủ ra lệnh và chỉ
huy, vẫn không hề thay đổi dưới Chính phủ dân sự của Tổng thống Kim Young
Sam. Nhìn chung, tất cả những quyết định quan trọng về kinh tế cũng như chính trị
đều do những quan chức cao cấp và giới chức chính trị đưa ra trong đó vụ Hanbo là
một điển hình. Tất cả các khoản cho vay lớn của ngân hàng đều được quyết định do
tác động của các quan chức chính quyền. Tình hình khó khăn về tài chính của các
ngân hàng Hàn Quốc phần lớn là do những quyết định này.
Bên cạnh đó, cho tới cuối năm 1997, khi thông báo rằng họ sẽ chấm dứt sự
gia tăng không thể dừng lại về tỷ giá trao đổi ngoại hối, ngân hàng Hàn Quốc buộc
phải bán ra hàng trăm ngàn USD mỗi ngày làm giảm sút nhanh chóng lượng dự trữ
ngoại tệ và đẩy nhanh cuộc khủng hoảng ngoại hối này.

41
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Thứ tư, khủng hoảng kinh tế tất nhiên dẫn đến sự bất ổn định, khủng hoảng
xã hội vì giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ, trước hết phải kể đến
những nguy cơ tiềm ẩn về khủng hoảng xã hội của Hàn Quốc vốn đã có từ trước
nay có dịp bộc phát [20; 266].
Tóm lại, khủng hoảng là do những “mầm mống của bệnh tật” đã được ủ bấy
lâu trong “cơ thể” của quốc gia này. Đó là sự điều chỉnh chính sách cứng nhắc,
không linh hoạt thay đổi cùng với những thay đổi của thị trường, do đó giá chính
thức của các đồng tiền của các quốc gia này đã bị đẩy lên cao, chênh lệch xa so với
giá thực tế của thị trường (so với đồng USD) [37; 10].Bên cạnh đó, các hoạt động
kinh tế không được tiến hành đồng bộ với tăng cường giám sát hoạt động tài chính
ngân hàng; có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết quả của những sai lầm
bấy lâu là thâm hụt tài khoản vãng lai và cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước.
Nói cách khác, tốc độ tăng trưởng nóng của các nước trong khu vực đã dựa một
phần chủ yếu vào các đồng vốn cho vay của nước ngoài [29; 26].
2.4. Những biện pháp khắc phục và kết quả
2.4.1. Một số cải cách trong hệ thống kinh tế Hàn Quốc
2.4.1.1. Chương trình của IMF
Trước tình trạng khó khăn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, Hàn
Quốc buộc phải tìm đến các giải pháp tình thế. Hàn Quốc đã yêu cầu một khoản cứu
trợ khẩn cấp từu IMF vào ngày 21 – 11 – 1997 và điều này có nghĩa là Seoul buộc
phải chuyển giao “chủ quyền kinh tế” cho tổ chức tài chính này [1; 33]. Ngày 3 – 12
– 1997, IMF đã ghi nhận kết quả đàm phán thành công với Hàn Quốc và cam kết
ủng hộ của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các
nước trong nhóm thành viên tiềm năng tham gia vào chương trình trợ giúp cho Hàn
Quốc. Ngày 4 – 12 – 1997, Hội đồng quản trị của IMF đã phê chuẩn khoản tín dụng
dự phòng 21 tỷ USD cho Hàn Quốc và cho phép giải ngân 5,6 tỷ USD. Đồng thời
kèm theo một chương trình cải cách khắc khổ đối với Hàn Quốc với một số biện
pháp cụ thể như sau:
- Phá giá đồng bản tệ.
- Nâng lãi suất để thu hút ngoại tệ và tiền gửi đồng thời giảm bớt tốc độ phát
triển.
- Giảm nhu cầu ngoại tệ bằng cách giảm tốc độ phát triển thông qua việc cắt
giảm các dự án đầu tư lớn.

42
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Cân bằng ngân sách nhà nước.


- Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ để giữ mức lạm phát thấp.
Lãi suất ở Hàn Quốc được yêu cầu giữ ở mức 15-20%/năm. Dưới áp lực của
Mỹ, Hàn Quốc còn phải mở toang cánh cửa cho dòng chảy tư bản tài chính, không hạn
chế vay nước ngoài, không hạn chế đầu tư trực tiếp và đầu tư vào thị trường chứng
khoán, bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu, cải tổ ngân hàng theo phương Tây [17; 73 - 74].
Những quy định và yêu cầu cải cách mà IMF đưa ra cho Hàn Quốc là một
thách thức hết sức khắc nghiệt đối với một nền kinh tế đang suy thoái toàn diện.
Nhưng để đối phó với cuộc khủng hoảng, trước tiên là chấp nhận một khoản vay
khổng lồ trị giá 58 tỷ USD từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Nhận khoản vay từ IMF
đồng nghĩa với việc Hàn Quốc sẽ phải chấp nhận thực hiện cam kết với tổ chức này
về chính sách thắt lưng buộc bụng vô cùng hà khắc. Họ chấp nhận thu hẹp sản xuất.
Một loạt các ngân hàng lớn, các doanh nghiệp lớn phải tạm dừng hoạt động [23; 20
- 21]. Đến tháng 9 – 1998, có hơn 23.000 công ty bị phá sản trong vòng 10 tháng
sau sự hỗ trợ từ IMF và hơn 1,57 triệu công nhân mất việc làm sau cuộc khủng
hoảng [32; 36] Với tình trạng này thì sự phục hồi của nền kinh tế Hàn Quốc phụ
thuộc vào hai yếu tố: sự nỗ lực, sẵn sàng chung tay của người dân trong sự nghiệp
của cả dân tộc và môi trường khu vực, môi trường quốc tế thuận lợi.
2.4.1.2. Các đối sách của Chính phủ
Khi cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á xảy ra, mục tiêu tức thời của chính
phủ Hàn Quốc là khắc phục khủng hoảng và giảm giá đồng nội tệ. Hàn Quốc bắt đầu
thực hiện chính sách vĩ mô thắt chặt để ổn định thị trường tài chính và trao đổi ngoại
hối, dẫn đến sự thu hẹp tín dụng và hoạt động kinh tế. Chính phủ cũng sớm nhận ra
rằng khủng hoảng bắt nguồn từ sự yếu kém trong cơ cấu và quản lý kinh tế nên đã
chủ động tiến hành những cải cách mang tính điều chỉnh mạnh mẽ trong các khu vực
như: khu vực công ty, khu vực tài chính, khu vực công cộng, và điều chỉnh luật.
Để khắc phục khủng hoảng Hàn Quốc đã nỗ lực theo bốn hướng sau đây:
- Tái cấu trúc lại khu vực tài chính nhằm làm lành mạnh bảng tài chính ngân
hàng. Chính phủ yêu cầu 12 ngân hàng lập kế hoạch khắc phục khủng hoảng nhằm
đưa nợ xấu giảm xuống 8%. Đã giải thể 5 ngân hàng, sáp nhập 2 ngân hàng. Chính
phủ giúp mua lại các khoản nợ của ngân hàng (64 tỷ won). Thậm chí cho phép bán
một số ngân hàng cho người sở hữu nước ngoài. Đối với các tổ chức tài chính phi
ngân hàng, Chính phủ cũng thả lỏng cho phá sản. Ngoài ra Chính phủ cải cách

43
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

chính sách tiền tệ theo 5 điểm: thay đổi cách thức quản lý tài chính theo hướng kế
toán công khai; cấm bảo lãnh chéo giữa các công ty; giảm tỷ lệ vốn vay; thực hiện
chính sách bắt các tập đoàn tập trung vào các ngành nghề chính có lãi, không đầu tư
rải mành mành. Sửa đổi luật pháp bảo vệ cổ đông thiểu số (lành mạnh hóa hoạt
động của công ty).
- Tái cấu trúc lại hệ thống doanh nghiệp theo hướng loại bỏ doanh nghiệp
thua lỗ, hỗ trợ doanh nghiệp có sức cạnh tranh, thành lập công ty bán tài sản thế
chấp để giúp doanh nghiệp giải quyết nợ, tái cấu trúc nợ doanh nghiệp bằng phát
hành cổ phiếu, giảm vốn vay nhà nước... Việc cải tổ các Chaebol là hòn đá tảng
trong lập trường chủa Tổng Thống Kim Dae Jung [4; 16]. Chính phủ Hàn Quốc với
sự kiểm soát nghiêm ngặt đã yêu cầu các tập đoàn lớn, chủ yếu là 5 tập đoàn đã làm
nghèo đất nước bằng các khoản vay khổng lồ phải công khai đưa ra các biện pháp
để cải tổ bộ máy của mình. Năm tập đoàn hàng đầu của Hàn Quốc bao gồm
Hyundai, Samsung, Daewoo, LG và SK đã đưa ra các kế hoạch trong việc sắp xếp
lại, cắt giảm nợ nần, giảm bớt công nhân, đầu tư cho các tài sản kế hoạch gia đình
và công khai hóa việc quản trị [3; 13]. Đây là đợt điều chỉnh lớn nhất của Hàn Quốc
từ trước tới nay. Kết quả 15/30 Chaebol bị giải thể và phá sản. Hàn Quốc đã giảm
nợ từ 396,3 tỷ USD xuống còn 182,2 tỷ USD.
- Cải cách tài chính công: chủ yếu là tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước
nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách. Thực thi chính sách tiết kiệm để có tài chính
cơ cấu nợ cho doanh nghiệp.
- Cải cách thị trường lao động: sau khủng hoảng chính phủ dã thành lập uỷ
ban ba bên: nhà nước - công đoàn - giới chủ nhằm ký thoả thuận không bãi công,
đình công, không đòi tăng lương để khắc phục khủng hoảng. Trước đó chính phù
không cho phép doanh nghiệp nước ngoài sa thải nhân công, nay đã bắt đầu cho
phép... Do có những cải cách này đầu tư trực tiếp của nước ngoài bắt đầu tăng lên,
chủ yếu do người nước ngoài mua lại các doanh nghiệp của Hàn Quốc. Trong những
năm 1990, Hàn Quốc cũng như nhiều nước Đông Á khác đã tích cực thực hiện những
điều chỉnh lớn trên thị trường lao động. Sau khủng hoảng, chương trình cải cách thị
trường lao động của Hàn Quốc được xem là rõ ràng và cấp tiến nhất, mang tính nhất
quán giữa chính sách và thực tiễn trong khu vực Đông Á.Các cải cách tạo sự linh hoạt
cho thị trường lao động tại Hàn Quốc đã tác động đáng kể đến việc tạo ra một diện
mạo mới trên thị trường lao động sau khủng hoảng, làm thay đổi bức tranh thị trường
lao động theo hướng chuyển đổi cơ cấu việc làm [50; 62].

44
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Thứ nhất, nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Hàn
Quốc tăng cường xúc tiến chương trình cải tổ nền kinh tế, trước hết tập trung cải
cách hệ thống tài chính ngân hàng. Mặt khác, để nhanh chóng khắc phục khủng
hoảng, Chính phủ Hàn Quốc đã kêu gọi các tổ chức ngân hàng nước ngoài tài trợ để
hỗ trợ nguồn vốn đầu tư trong nước.
Theo công bố của Qũy tiền tệ quốc tế IMF vào đầu tuần tháng 12 – 1997, tổ
chức ngân hàng quốc tế và các nước khác đồng ý cho Hàn Quốc vay 57 tỷ USD,
trong đó phần đóng góp của IMF là 20 tỷ USD. Năm 1998, Hàn Quốc đã nhận được
10 tỷ USD, khoản trợ cấp từ IMF với điều kiện Hàn Quốc phải tự do hóa hơn nữa
nền kinh tế và thực hiện cải tổ sâu rộng hệ thống tài chính tiền tệ trong nước cũng
như hệ thống Chaebol. Các ngân hàng của Hàn Quốc đã được cứu thoát khỏi phá
sản bởi các chủ nợ nước ngoài vào cuối năm 1997 khi chính phủ đã bảo lãnh (một
phần) các món nợ để tạo điều kiện cho việc sắp xếp lại thời hạn trả các món nợ
nước ngoài. Sau đó chính phủ đã nhận lấy vai trò trung tâm trong việc tái cấp
vốn .Vào tháng 4 – 1998 chính phủ đã dành 64 nghìn tỉ won (47 tỷ USD) cho việc
tái cấp vốn cho các ngân hàng, và cho tới tháng 11 – 1999 họ đã sử dụng gần 60
nghìn tỷ Won [40; 86 - 88].
Để triển khai các điều kiện IMF đưa ra, Chính phủ Hàn Quốc đã tập trung
vào một số biện pháp sau:
- Mở thị trường trái khoán trong nước cho đầu tư nước, bao gồm cả trái
khoán chuẩn với thời gian đáo hạn là 3 năm, đáp ứng yêu cầu mua của các nhà đầu
tư nước ngoài.
- Lập một quỹ để mua lại ít nhất là 10.000 tỷ Won (10 tỷ USD) các khoản nợ
khó đòi của ngân hàng.
- Ban hành các thủ tục bắt buộc sát nhập các ngân hàng yếu kém vào một
ngân hàng có năng lực tài chính và năng lực kinh doanh.
- Nới rộng mức độ dao động hằng ngày của đông Won khoảng 10%.
- Thay đổi luật lao động để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các công ty đối
với việc nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm bớt lực lượng lao động ở các công ty.
- Nâng tỷ lệ giới hạn trần đối với đầu tư nước ngoài vào khu vực nội địa.
- Cho phép các ngân hàng mất khả năng thanh toán được giải thể nếu họ
không có cơ hội phục hồi tài chính.
- Khuyến khích tư nhân hóa các hãng do chính phủ đầu tư.

45
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Cắt giảm nguồn chi phí của tổ hợp công nghiệp.


- Cắt giảm và xem xét cụ thể việc cung cấp tài chính cho các Chaebol.
- Thành lập Uỷ ban tư vấn cho Tổng thống về cải cách, gồm 31 thành viên.
Mục tiêu của Uỷ ban là tìm ra các biện pháp xóa bỏ tình trạng lạc hậu và kém hiệu
quả của ngành tài chính – ngân hàng trong phạm vi cả nước.
- Quy định việc cấp phát vốn cho 1 dự án lớn, sẽ do một số ngân hàng cùng
đảm nhiệm, thay cho trước đây, cấp phát vốn chỉ giao cho một ngân hàng đảm
nhiệm. Trong khi cấp vốn cho mỗi dự án, các ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra
chặt chẽ các hoạt động kinh doanh và kỹ thuật liên quan đến dự án.
- Chuyển hệ thống ngân hàng cấp vốn thương mại và các công ty đầu tư ủy
thác thành các ngân hàng kinh doanh và các công ty môi giới chứng khoán.
Phân loại hệ thống tài chính – ngân hàng thành 5 nhóm bao gồm: các ngân
hàng, các công ty môi giới chứng khoán, các công ty bảo hiểm, các công ty tài
chính khu vực và các tổ chức tài chính cung cấp nguồn vốn cho vay [30; 30 - 32].
Trước đây, sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ vốn là đặc điểm nổi bật của
khu vực tài chính Hàn Quốc. Chính phủ kiểm soát luồng vốn quan trọng từ các
trung gian tài chính tới các công ty. Ngay từ giai đoạn đầu phát triển kinh tế, chính
phủ đã có quyền phân bổ vốn đến các khu vực cụ thể thông qua việc kiểm soát trực
tiếp các hoạt động kinh tế và công tác quản lý của các trung gian tài chính. Cho nên
có thể nói chính phủ Hàn Quốc cũng phải chịu một phần trách nhiệm đối với sự
lành mạnh của các tổ chức tài chính. Suy thoái kinh tế ngay sau khủng hoảng đã
làm cho các tổ chức tài chính bị thiếu vốn nghiêm trọng và có mức nợ khó thu hồi
cao. Để khắc phục tình trạng này chính phủ đã áp dụng một chế độ tài chính mới,
trong đó thị trường có vai trò quan trọng về việc sử dụng các nguồn lực. Các tổ
chức tài chính sẽ vừa phải tuân theo qui luật thị trường, vừa phải làm ăn có lãi và
chấp hành tốt các qui định của chính phủ.
Để giải quyết vấn đề nợ khó đòi của các tổ chức tài chính, chính phủ đã thực
hiện việc đóng cửa hoặc dừng kinh doanh của hơn 100 tổ chức tài chính, chi 22.000
tỷ Won để mua nợ khó thu hồi, đưa ra một chương trình phục hồi với việc cung cấp
42.000 tỉ Won để tái cấp vốn cho các ngân hàng và để trả các khoản tiền gửi tiết
kiệm đã đến kỳ hạn, sáp nhập 5 ngân hàng với các ngân hàng lớn hơn, và bán một
ngân hàng cho các nhà đầu tư nước ngoài.

46
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Cùng với việc khôi phục lòng tin đối với hệ thống tài chính, chính phủ còn
áp dụng chế độ giám sát tài chính mới để phòng ngừa rủi ro trong tương lai. Dịch vụ
giám sát tài chính độc lập đã được xây dựng để khắc phục sự phân biệt đối xử giữa
các tổ chức tài chính, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về giám sát, giúp các tổ chức tài
chính trong nước cải thiện bảng kết toán [38; 24 - 25].
Ngoài ra chính phủ cũng thực hiện một vài biện pháp để tăng cường vai trò
của các nhà đầu tư nước ngoài trong khu vực tài chính như cho phép các ngân hàng
và các công ty bảo hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh, cho phép người nước
ngoài được sở hữu hoàn toàn một doanh nghiệp của Hàn Quốc hoặc làm giám đốc
các ngân hàng Hàn Quốc. Ba qui định này lần lượt được thực hiện vào tháng 3,
tháng 4, tháng 5 năm 1998. Chính phủ cũng chú trọng tới vấn đề điều hành, quản lý
như dịch vụ giám sát tài chính bắt đầu thông báo về hoạt động quản lý của các ngân
hàng, đồng thời ngân hàng cũng có thể yêu cầu mời kiểm toán bên ngoài.Kết hợp
với các biện pháp trục vớt các tổ chức tài chính, Chính phủ Hàn Quốc cũng sẽ tiến
hành các biện pháp kinh tế khác như giảm bớt quy mô hoạt động và quyền hạn của
các Chaebol, thực hiện mạnh mẽ hơn nữa quá trình tư nhân hóa nền kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu công nghiệp trên cơ sở khai thác lợi thế cạnh tranh mới thông qua chính
sách đầu tư kỹ thuật công nghệ tiên tiến [30; 30 - 32].
Thứ hai, Chính phủ Hàn Quốc tiến hành các biện pháp tái cấu trúc lại hệ
thống doanh nghiệp.
Trước đây do thiếu sự quản lý thích hợp trong công ty và do thiếu sự kiểm
soát chặt chẽ của chính phủ đối với việc phân bổ vốn nên việc kiểm tra tình hình
cho vay của các tổ chức tài chính rất khó khăn, dẫn đến việc các tập đoàn lớn
thường đầu tư quá mức. Nhìn chung, các công ty thường mở rộng qui mô bằng
nguồn vốn vay, nhưng việc kiểm tra, giám sát của các tổ chức tài chính đối với công
ty lại rất hạn chế. Sau khi khủng hoảng xảy ra, chính phủ đã đưa ra khung khổ cần
thiết để cải thiện việc quản lý công ty như tăng cường tính minh bạch, xóa bỏ những
bảo lãnh nợ chéo và cải thiện cơ cấu vốn, giới thiệu một giám đốc từ bên ngoài cho
mỗi công ty có trong danh sách cần cơ cấu lại. Chính phủ cũng đã có những biện
pháp để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số, làm rõ trách nhiệm và nhiệm vụ
pháp lý của các thành viên ban điều hành, thay đổi khung khổ pháp lý cho tình trạng
không trả được nợ,
Để cải thiện tính minh bạch, chính phủ đưa ra những bản kê tài chính thống
nhất mang tính bắt buộc cho những tập đoàn kinh tế lớn nhất nhằm xác định giao

47
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

dịch trong nội bộ công ty và các báo cáo kết toán riêng biệt. Chính phủ cũng thay
đổi Luật thương mại công bằng, hạn chế sự bảo lãnh nợ chéo giữa các công ty trong
các tập đoàn lớn. Đồng thời chính phủ cũng yêu cầu cải thiện cơ cấu vốn của các
công ty như các tập đoàn lớn đều phải giảm tỉ lệ nợ trên giá trị tài sản, hạn chế việc
mở rộng qui mô tràn lan, khuyến khích các công ty tập trung phát triển những lĩnh
vực nòng cốt, có ưu thế nhất.
Những biện pháp trên đã giúp cải thiện việc quản lý và cơ cấu tài chính của
các công ty Hàn Quốc, tỉ lệ nợ của các công ty có trong danh sách cần thay đổi đã
giảm từ 76,7% năm 1997 xuống 43,5% năm 2006, trong khi vốn kinh doanh tăng từ
23,3% lên 56,5% trong cùng thời kỳ [38; 23 - 24].
Thứ ba, Chính phủ Hàn Quốc tiến hành cải cách thị trường lao động.
Trong cố gắng thúc đẩy tái cơ cấu khu vực công ty, Hàn Quốc đã thực hiện
các biện pháp để tăng cường tính linh hoạt của thị trường lao động. Tuy nhiên, Luật
lao động được sửa đổi năm 1998 cho phép các công ty có thể sa thải công nhân vì
các lý do khác nhau sau 60 ngày thảo luận với công nhân, thời hạn các công nhân
được gửi đi nơi khác làm việc lên tới 2 năm, nới lỏng các quy định về sắp xếp việc
làm của các công ty tư nhân.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để tăng tính linh hoạt của thị trường lao động,
nhưng vẫn còn nhiều quan ngại đối với môi trường kinh doanh của Hàn Quốc hiện
nay. Sự bảo hộ việc làm, sự kém linh hoạt của thị trường lao động, hạn chế trong
điều hành quản lý đã gây khó khăn cho việc tái cơ cấu và làm tăng chi phí của các
công ty. Những bất cập trên có thể dẫn đến việc suy giảm luồng vào của FDI và sự
sáp nhập của các công ty trong và ngoài nước [38; 25].
Thứ tư, cải cách mang tính điều tiết là một phần quan trọng trong cải cách
của khu vực công cộng ở Hàn Quốc từ sau cuộc khủng hoảng.
Những cải cách này nhằm nâng cao hiệu quả và trật tự kinh tế bằng cách
chuyển sang chế độ kinh tế hướng tới thị trường hơn. Chính phủ đã ban hành những
điều luật cơ bản về quản lý hành chính và xem xét lại những qui định hiện hành dựa
trên những nguyên tắc như: xóa bỏ những qui định kinh tế chống lại cạnh tranh;
nâng cao tính hiệu quả của những điều chỉnh xã hội như môi trường, sức khỏe và an
toàn; biện pháp điều chỉnh chuyển từ kiểm soát sang điều hành theo qui luật thị
trường; chú ý tới quyền bình đẳng về pháp lý; hướng tới tiêu chuẩn quốc tế. Kết quả
việc thực hiện kế hoạch điều chỉnh là đã xóa bỏ 5.430, cải thiện 2.411 trong tổng số

48
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

11.125 qui định hiện có, trình lên quốc hội 344 điều luật bổ sung vào năm 1998.
Những qui định còn lại được xem xét lần thứ hai vào năm 1999, có 503 qui định
được bãi bỏ, 570 qui định được xem xét lại, và 51 điều luật bổ sung trình lên quốc
hội. Việc điều chỉnh và giảm một nửa số điều luật đã góp phần làm thay đổi môi
trường kinh doanh của Hàn Quốc.
2.4.2. Về xã hội
2.4.2.1. Cải cách thị trường lao động
Đầu tiên, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra các biện pháp cải cách chủ yếu đối
với thị trường lao động sau khủng hoảng:
● Cạnh tranh thông qua hợp tác
Tăng cường tính mềm dẻo của thị trường lao động là hết sức cần thiết để giải
quyết vấn đề thất nghiệp và phục hồi nền kinh tế Hàn Quốc trong giai đoạn này. Khi
mà thị trường lao động trở nên mềm dẻo hơn thì các công ty sẽ lấy lại được sức
cạnh tranh trên thị trường và đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên, giúp nhanh chóng khôi
phục nền kinh tế và tạo thêm nhiều việc làm [16; 14].
Chính sách lao động là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất đối với
người Hàn Quốc. Nhận ra được sự kém hiệu quả của các chính sách này, “Chính
phủ của dân” đã thành lập nên một Uỷ ban Ba bên vào tháng 1/1998 với đại diện là
người lao động, doanh nghiệp và chính phủ. Đây cũng là một sự kiện lịch sử làm
nền tảng cho việc tái thiết nền kinh tế Hàn Quốc. Về mặt đối nội, thoả ước này góp
phần làm giảm những xung đột và mâu thuẫn xã hội, tạo ra một sự đồng thuận cần
thiết cho cải cách cơ cấu và chia sẻ khó khăn. Về mặt đối ngoại, thoả ước này đóng
vai trò quan trọng trong việc khôi phục niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài và
các công ty trong nền kinh tế Hàn Quốc, đồng thời cũng thể hiện khả năng và mong
muốn vượt qua khủng hoảng kinh tế của người Hàn Quốc [16; 15].
Những nội dung chủ yếu của Thoả ước Ba bên, ngày 6/2/1998
1. Minh bạch quản lý và tái cơ cấu công ty
- Cải thiện cơ cấu tài chính công ty
- Quản lý công ty minh bạch hơn và có trách nhiệm hơn
- Khuyến khích cạnh tranh kinh doanh
2. Ổn định giá cả
3. Các chính sách thúc đẩy ổn định việc làm và chống thất nghiệp

49
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Phát triển nhanh chóng các nguồn lực tài chính cho các chương trình thị
trường lao động
- Phát triển và cải thiện bảo hiểm việc làm
- Hỗ trợ đời sống cho các lao động thất nghiệp
- Mở rộng đào tạo nghề
- Tạo việc làm thông qua các việc làm công và các hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp
- Cam kết gặp gỡ và tái tuyển dụng các lao động bị sa thải
4. Mở rộng và hợp nhất hệ thống an sinh xã hội
- Thu nạp các bên tham gia vào các uỷ ban điều phối an sinh xã hội
- Bảo đảm tiền công trong các trường hợp phá sản
5. Thúc đẩy sự hợp tác quản lý - lao động và tôn trọng quyền đàm phán tập thể
- Nỗ lực thiết lập một hệ thống tiền công hợp lý hơn, bao gồm việc chia sẻ
lợi nhuận
6. Nâng cao các quyền lao động
- Cho phép công viên chức được thiết lập các tổ chức riêng ở nơi làm việc
- Cho phép các giáo viên gia nhập các tổ chức công đoàn
- Cho phép các tổ chức công đoàn tham gia vào các hoạt động chính trị
- Các công nhân bị sa thải và thất nghiệp có quyền tham gia các tổ chức
công đoàn
7. Nâng cao tính mềm dẻo của thị trường lao động
- Cho phép các nhà tuyển dụng sa thải công nhân trong trường hợp cần thiết
liên quan đến vấn đề quản lý
- Cho phép thành lập các trung tâm môi giới việc làm tạm thời
8. Cải thiện xuất khẩu
9. Các thoả thuận liên quan khác, bao gồm:
- Thả các tù nhân là công đoàn viên các tổ chức công đoàn
- Cải cách điều chỉnh
- Tham nhũng và rửa tiền
● Từ nghề nghiệp suốt đời tiến tới khả năng có việc làm suốt đời
Một thị trường lao động cứng nhắc có nghĩa là không cho phép tiền lương
giảm xuống khi năng suất giảm, hay người lao động bị sa thải khi nền kinh tế suy

50
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

giảm, sự phá sản của một công ty nào đó có thể làm cho tất cả nhân viên của nó bị
mất việc làm. Trái lại, đối với một thị trường lao động mềm dẻo, thất nghiệp cao tại
các khu vực phi cạnh tranh không làm nguy hại đến hiệu quả của toàn bộ nền kinh
tế nói chung, vì nó cho phép tạo ra những việc làm mới ở các khu vực khác của nền
kinh tế. Ở Hàn Quốc, sự tập trung phải chuyển từ an toàn nghề nghiệp tĩnh (gắn bó
suốt đời với một công ty) sang an toàn nghề nghiệp động nơi mà việc làm vẫn được
đảm bảo ngay cả khi nghề nghiệp có thể thay đổi. Để hệ thống này vận hành, các
công nhân cần phát triển các kỹ năng suốt đời và chính phủ phải tổ chức một hệ
thống đào tạo nghề hiệu quả nhằm giúp các công nhân nâng cao khả năng việc làm
của họ [16; 16]:
- Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu việc làm
Để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều công ty Hàn Quốc cần khôi phục
lại tính cạnh tranh thông qua tái cơ cấu. Tái cơ cấu thường bao gồm bán tài sản và điều
chỉnh bộ máy quản lý nhưng dù sao thì sa thải có thể cũng là cần thiết. Chắc chắn đối
với một công ty thì việc sa thải một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó sẽ tốt hơn là giữ
toàn bộ ở lại và đi đến phá sản, một tình trạng chẳng khác gì sa thải toàn bộ.
Luật Tiêu chuẩn Lao động được sửa đổi vào tháng 2 - 1998, cho phép sa thải
nếu một công ty có sự quan tâm đúng mức đến lợi ích của người lao động. Chính
phủ cũng đồng thời tăng cường các chương trình hỗ trợ thông qua việc cung cấp đào
tạo nghề và cung cấp thông tin về tái tuyển dụng.
- Những hình thức nghề nghiệp mới
Để điều chỉnh cung về lao động theo sự biến động của thị trường, thì cần
phải phát triển những loại hình việc làm mới như việc làm tạm thời, việc làm bán
thời gian và việc làm tại nhà, ... Thoả ước ba bên cho phép sử dụng rộng rãi hơn các
dịch vụ việc làm tạm thời. Trước đây, các dịch vụ này chỉ xuất hiện trong một số
loại hình như vệ sinh làm sạch hay an ninh, mặc dù có rất nhiều tổ chức hoạt động
trong các lĩnh vực khác có nhu cầu cao.
Việc luật hoá các tổ chức việc làm tạm thời sẽ tạo cơ hội cho các công nhân
chuyên nghiệp, cho những người chưa có việc làm ở tuổi trung niên và các thợ xây
nhà thông qua việc bảo vệ quyền lợi và điều kiện làm việc cho các công nhân làm
việc tạm thời. Việc sử dụng các công nhân làm việc tạm thời còn cho phép các công
ty điều chỉnh dễ dàng qui mô nhân lực của mình trong điều kiện kinh tế có nhiều
biến động.

51
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Nhằm khuyến khích việc làm bán thời gian, bảo hiểm thất nghiệp cũng đã
được nhân rộng để bảo đảm cho các công nhân bán thời gian và chính phủ tiếp tục
đẩy mạnh các chương trình đào tạo nghề và tư vấn việc làm.
- Trả lương theo kết quả công việc và linh hoạt
Những khuyến khích dựa trên những nỗ lực cá nhân thúc đẩy các nhân viên
làm việc tích cực hơn và cũng nâng cao tính hiệu quả, năng động của họ. Tiền công
vì vậy phải dựa trên kết quả công việc hơn là dựa trên thâm niên tuổi tác và vị trí
cấp bậc. Uỷ ban Ba bên đã nghiên cứu đề xuất một loại hình lương thường niên hay
lương trả theo kết quả công việc đối với một số khu vực thuộc chính phủ và đưa ra
những khuyến khích về thuế nhằm khuyến khích các công ty thực hiện cơ chế trả
lương theo kết quả công việc.
Những khoản trích nộp bắt buộc được áp dụng nhằm bảo vệ đời sống của
người lao động nghỉ hưu khi không có an sinh xã hội. Các biện pháp mới này sẽ loại
bỏ phần lớn sự cần thiết của việc trích nộp vào lương. Uỷ ban cũng sẽ có một số sửa
đổi về luật, chú trọng tới việc giảm bớt thời gian làm việc từ 44 giờ/1tuần xuống 40
giờ/1tuần, tăng thêm những kỳ nghỉ tháng và nghỉ năm nhằm tạo ra nhiều thời gian
nghỉ ngơi cho người lao động.
- Phát triển lực lượng lao động nữ
Những thay đổi trong cơ cấu công nghiệp và công nghệ đòi hỏi cần có một
lượng dân số đông hơn tham gia vào lực lượng lao động, bao gồm cả nữ giới, người
khuyết tật và người cao tuổi. Hệ thống này nên bao gồm nhiều trang thiết bị chăm sóc
trẻ em hơn và các biện pháp khác để loại bỏ những trở ngại về mặt cơ cấu làm cản trở
việc tuyển dụng lao động nữ. Chính phủ sẽ cung cấp những khoản trợ cấp chi phí
tuyển dụng lao động nữ, ví dụ như các khoản chi phí liên quan tới sinh đẻ và nghỉ đẻ.
Những khoản trợ cấp cũng sẽ được cấp cho những công ty thực hiện tái tuyển dụng
lao động nữ như một phần của chương trình bảo hiểm thất nghiệp. Tháng 10/1998,
chính phủ cam kết hỗ trợ chi trả 1/3 đến 1/2 tiền lương của công nhân cho các doanh
nghiệp tuyển dụng các lao động nữ là chủ gia đình đang bị mất việc làm. Tạo ra các
cơ hội việc làm ngắn hạn cho nữ giới trong các gia đình có thu nhập thấp, chủ yếu là
các công việc liên quan đến các dịch vụ xã hội và chăm sóc y tế.
Chính phủ còn đưa ra một số chỉ tiêu phát triển cơ hội nghề nghiệp cho nữ
giới ở các vị trí cao hơn trong chính phủ nhằm đạt được một con số phần trăm nữ
giới nhất định.

52
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

- Phát triển các trung tâm việc làm


Việc phát triển các trung tâm việc làm là hết sức cần thiết để linh hoạt hoá
một cách hiệu quả lực lượng lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của nó,
chính phủ Hàn Quốc đã không ngừng nhân rộng các trung tâm việc làm công. Các
trung tâm này tuyển dụng các chuyên viên tư vấn việc làm chuyên nghiệp từ các
khu vực tư nhân nhằm cung cấp các dịch vụ chất lượng và thân thiện. Đa số các
trung tâm đều được thành lập ở những khu vực có nhu cầu tìm việc làm cao. Những
qui định đối với các trung tâm việc làm tư nhân sẽ được giảm thiểu nhằm tạo ra
nhiều cơ hội việc làm hơn cho người lao động.
2.4.2.2. Các biện pháp đối phó thất nghiệp
Sau cuộc họp phối hợp chính sách kinh tế vào ngày 26 – 3 – 1998, chính phủ
đã thông báo “Chính sách thất nghiệp cả gói” bao gồm bốn phần chính đó là: an
toàn nghề nghiệp, tạo thêm nghề, hướng dẫn và đào tạo nghề, phúc lợi dành cho
người thất nghiệp. Chính sách thất nghiệp cả gói bước đầu đã được cấp phát 7,9
nghìn tỷ won, sau đó tăng lên 8,5 nghìn tỷ won (tăng thêm 600 tỷ won từ Quỹ Bảo
hiểm việc làm vào 2 – 6 - 1998). Tuy nhiên, số người thất nghiệp vẫn lớn hơn dự
tính do nền kinh tế tiếp tục suy giảm và quá trình tái cơ cấu tài chính và công ty
đang diễn ra mạnh mẽ nhất. Vì vậy, chính phủ đã tăng khoản hỗ trợ cả gói lên
khoảng 10,1 nghìn tỷ won vào nửa cuối năm 1998 [16; 19] .
Để ứng phó với tình trạng thất nghiệp kéo dài chính phủ đã thiết lập một
mạng lưới an sinh xã hội, đồng thời đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu cho
những công nhân có thu nhập thấp và mới thất nghiệp như lương thực thực phẩm,
chăm sóc y tế và hỗ trợ về giáo dục tiểu học, trung học cơ sở cho con em họ. Giáo
dục và đào tạo nghề cũng được cải tiến và mở rộng đào tạo thêm những nghề mới
phù hợp với tiến trình tái cơ cấu của chính phủ. Bên cạnh đó, một loạt các chính
sách thất nghiệp phụ trợ cũng đã được hoạch định đối với một số nhóm công nhân
đặc thù như công nhân làm việc theo ngày, phụ nữ thất nghiệp, thanh niên thất
nghiệp, những người thất nghiệp có trình độ cao...
Để đảm bảo việc làm cho các công nhân xây dựng làm việc theo ngày, 300 tỷ
won từ Quỹ Bảo đảm Niềm tin hỗ trợ việc thay thế công nhân nước ngoài đã được
chuyển sang quỹ nhà công nhằm giúp bình ổn các công ty xây dựng vừa và nhỏ.
Chính phủ cũng cắt giảm nguồn vốn thành lập dành cho các công ty mạo hiểm và
đơn giản hoá các thủ tục thành lập nhà máy. Bảo đảm việc làm cũng được thúc đẩy
thông qua những khoản trợ cấp đối với các công ty đang cố gắng duy trì việc làm

53
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

đầy đủ bằng cách rút ngắn thời gian làm việc, phân bổ lại các vị trí làm việc của
công nhân hay đóng cửa tạm thời.
Liệu pháp tốt nhất đối với vấn đề thất nghiệp đó là tạo thêm việc làm. Vì
vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành thực hiện một loạt các dự án về xây dựng
nhà cửa và các dự án xây dựng địa phương, tạo thêm các việc làm công, đẩy mạnh
vốn đầu tư chung toàn xã hội. Có khoảng 2.695 tỷ Won dành cho các dự án đầu tư
chung, các dự án phát triển vùng và các dự án khôi phục kinh tế địa phương. Các dự
án này đã tạo ra khoảng 90.000 việc làm. Thêm vào đó là khoảng 440.000 việc làm
được tạo ra từ các dự án việc làm công với mức ngân sách hàng năm dành cho nó
lên tới 1,04 nghìn tỷ won. Bên cạnh đó còn có một số biện pháp thúc đẩy việc làm
như khuyến khích và hỗ trợ các công ty đầu tư mạo hiểm và mới thành lập, giảm
bớt các rào cản đối với các công ty xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài vào thị
trường Hàn Quốc.
Các chương trình đào tạo nghề cũng được mở rộng cho các đối tượng bị mất
việc làm. Cả hai loại hình đào tạo công lập và dân lập đều tham gia vào chương
trình này với các khoá học đa dạng như quản trị và kinh doanh, khởi nghiệp, kiểm
định chất lượng, vv... Các trường đại học thì cung cấp các khoá đào đạo nghề mà
sau khi tốt nghiệp có thể dễ dàng xin được việc làm ngay, nhờ đó có thể đẩy mạnh
sự gắn kết giữa đào tạo và việc làm. Nhiều chương trình đào tạo mới được xây dựng
dựa trên những phân tích về những thay đổi trong cơ cấu công nghiệp và nhu cầu
nhân lực. Chính phủ cũng rất nỗ lực đẩy mạnh hệ thống đào tạo định hướng khách
hàng mà trong đó người thất nghiệp có thể chọn lựa một chương trình và một tổ
chức đào tạo ngay tại thời điểm đăng ký thất nghiệp.
Chính phủ cũng chú trọng đưa ra các biện pháp giải quyết việc làm cho thanh
niên Hàn Quốc. Giải pháp cơ bản cho tình trạng thất nghiệp của giới trẻ là tạo thêm
nhiều công ăn việc làm mới với một phương thức bền vững bằng cách củng cố tiềm
năng phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, một công việc đóng vai trò quan trọng
trong việc đáp ứng nhu cầu về nhân lực của ngành công nghiệp là đào tạo lao động
thông qua hợp tác ngành công nghiệp trong các học viện, xây dựng một hệ thống
đảm bảo quá trình chuyển từ học tập sang lao động một cách hiệu quả và nâng cao
chất lượng cơ sở vật chất của thị trường lao động.
Tuy nhiên, phải mất một thời gian dài trước khi các giải pháp dài hạn này có
thể mang lại những kết quả rõ ràng. Vì thế, các giải pháp tạm thời đang được thực
hiện cùng lúc cho giới trẻ để họ không mất đi khả năng và động lực làm việc của

54
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

mình. Các giải pháp tạm thời nhằm giảm thiểu các nhân tố cản trở nghề nghiệp của
giới trẻ đang được xúc tiến, ví dụ như tạo ra những công việc năng động trong ngành
kinh tế nhà nước bên cạnh đó hỗ trợ tạo công ăn việc làm trong các ngành kinh tế tư
nhân, mở ra nhiều cơ hội việc làm cho giới trẻ để có kinh nghiệm làm việc và tăng
cường củng cố các dịch vụ giới thiệu việc làm và đào tạo hướng nghiệp [2; 39].
- Các giải pháp tạm thời
Chương trình về kinh nghiệm làm việc trong giới trẻ là một trong những giải
pháp chủ yếu về việc làm cho thanh niên. Đây là chương trình nhằm cung cấp nhiều
hơn nữa kinh nghiệm làm việc và nâng cao hiểu biết về nghề nghiệp cũng như lao
động cho giới trẻ. Chương trình này gồm có hai phần, một là hệ thống hỗ trợ kinh
nghiệm làm việc và hai là hệ thống hỗ trợ việc làm. Về hệ thống hỗ trợ kinh nghiệm
làm việc, sinh viên các trường đại học, cao đẳng hoặc sinh viên đã tốt nghiệp được
làm việc như những thực tập sinh cho các cơ quan nhà nước hoặc các công ty tư
nhân để có kinh nghiệm làm việc cũng như nhận được sự giúp đỡ trong lựa chọn
nghề nghiệp trong tương lai. Hơn thế nữa, học bổng trao cho các thực tập sinh xuất
sắc giúp hoàn thiện hơn quá trình thực hiện chương trình này. Còn về hệ thống hỗ
trợ việc làm, các công ty thuê các sinh viên thực tập và những sinh viên này sẽ nhận
được tiền trợ cấp trong 3 tháng và sau đó những sinh viên này sẽ vào biên chế và lại
nhận được tiền lương trong 3 tháng tiếp theo. Cũng theo phương thức này các công
ty đang được khuyến khích tiếp tục thuê thêm nhiều sinh viên thực tập.
Hệ thống dịch vụ tại một điểm duy nhất hiện đang được xây dựng để cung
cấp các dịch vụ chuyển nghề, tư vấn và hướng dẫn nghề nghiệp thông qua phòng hỗ
trợ nghề nghiệp cho giới trẻ tại trung tâm bảo đảm việc làm trên toàn quốc. Hơn
nữa, nhờ các “chương trình tìm kiếm việc làm” nhiều công việc tạm thời được
thông tin cho giới trẻ, những người thường là chưa được tuyển dụng. Qua đó giúp
những thanh niên thất nghiệp có thể tìm kiếm được công việc thích hợp.
- Các giải pháp trung và dài hạn
Tại Hàn Quốc chương trình làm việc khoảng 40 giờ một tuần bắt đầu triển
khai ở ngành kinh tế nhà nước và các doanh nghiệp lớn có từ 1000 công nhân trở
lên từ tháng 7 năm 2004. Chương trình này sẽ được áp dụng cho các doanh nghiệp
có từ 300 công nhân trở lên, bắt đầu thực hiện từ tháng 7 năm 2005. Chính phủ Hàn
Quốc hy vọng chương trình giảm giờ làm có thể nâng cao chất lượng lao động nhờ
sự phân công lao động. Thêm vào đó để thực hiện tốt phân công lao động, chính

55
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

phủ sẽ trợ cấp cho các công ty áp dụng giảm giờ làm sớm hơn ngày bắt buộc và
đồng thời thuê thêm nhiều công nhân.
Lương thấp và điều kiện làm việc không thuận lợi là nguyên nhân chính
khiến giới trẻ không muốn làm việc cho SMEs. Đó là lý do tại sao dự án minh bạch
đang được triển khai. Dự án hỗ trợ về tài chính cho các công ty đang cố gắng xoá bỏ
các điều kiện làm việc không thuận lợi này. Các dự án khác nhằm loại bỏ những
nguyên nhân mà giới trẻ không muốn làm việc cho SMEs cũng đang được tiến
hành. Trong đó có các dự án như cung cấp trang thiết bị cho SMEs để tránh nhiệt
quá cao, mùi và bụi bặm trong môi trường làm việc. Các giải pháp khác nhằm
khuyến công nhân làm việc cho SMEs lâu dài hơn và tạo ra động lực như những
điều kiện phúc lợi xã hội, đào tạo trong và ngoài nước, ưu tiên công nhân của SMEs
trong việc mua nhà ở [2; 40].
Đào tạo hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp cho giới trẻ đang được mở
rộng. Bài kiểm tra năng khiếu và mối quan tâm tới nghề nghiệp thường được áp
dụng cho giới trẻ hiện đang được tiến hành đối với học sinh cấp cơ sở, các chương
trình tư vấn các loại nghề nghiệp khác nhau cho giới trẻ được triển khai và phân bổ.
Các chương trình như du lịch việc làm, game việc làm, tìm kiếm việc trên mạng…
đang được xúc tiến và các thông tin đa dạng về việc làm được gửi đến giới trẻ qua
thư điện tử.
Cụ thể hoá các dự án trung và dài hạn về cung và cầu lao động sẽ được tiến
hành và kết qủa được đánh giá trong chương trình giảng dạy, qui mô của từng tầng
lớp, sự lựa chọn nghề nghiệp, đào tạo hướng nghiệp để tránh mất cân bằng giữa
cung và cầu về lao động. Bên cạnh đó, xây dựng một hệ thống có thể lồng ghép các
thông tin về thị trường lao động rải rác hàng loạt được lên kế hoạch để hỗ trợ phát
triển nguồn nhân lực bằng một phương pháp tổng thể.
Tóm lại, có thể nhận thấy những thay đổi rõ nét trong thị trường lao động của
thanh niên Hàn Quốc kể từ sau khủng hoảng kinh tế 1997. Đó là sự suy giảm cơ hội
việc làm, sự thay đổi về mặt cơ cấu theo xu hướng tăng tỷ lệ lực lượng lao động tạm
thời, giảm tỷ lệ lao động có hợp đồng dài hạn. Bên cạnh đó là vấn đề mất cân bằng
giữa cung và cầu nên các công ty lớn không tuyển dụng hết nguồn lao động trong
khi các công ty vừa và nhỏ lại thiếu. Hàn Quốc đã nhận thức rõ vấn đề này và đưa
ra nhiều giải pháp khác nhau nhằm tạo nhiều cơ hội việc làm cho thanh niên, ổn
định thị trường lao động.

56
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

2.4.2.3. Xây dựng mạng lưới an sinh xã hội


Chính phủ Hàn Quốc tiếp tục mở rộng bảo hiểm thất nghiệp như một mạng
lưới an sinh xã hội chủ yếu dành cho người thất nghiệp. Đối với những người thất
nghiệp không được bảo hiểm hỗ trợ thì sẽ nhận được các hỗ trợ khác từ các dự án
việc làm công, đào tạo nghề, cho vay thất nghiệp và phúc lợi tạm thời dành cho
những người thất nghiệp được xếp vào loại dưới mức nghèo khổ. Mạng lưới an sinh
xã hội khuyến khích khả năng tự lực hơn là việc chỉ hỗ trợ về mặt thu nhập nhằm
duy trì động lực của công nhân và giảm thiểu chi phí. Trong khi việc áp dụng các
chương trình đào tạo nghề và việc làm công như một mạng lưới an sinh xã hội
nhằm đem lại một phần bảo hiểm thất nghiệp, phúc lợi cơ bản cho người lao động
có thu nhập thấp, thì những người thất nghiệp dài hạn sẽ được nhận thêm các khoản
hỗ trợ để có thể chi trả những chi phí sinh hoạt tối thiểu, giáo dục và y tế [49; 20].
Bảo hiểm thất nghiệp vẫn tiếp tục được mở rộng cho tất các công nhân. Cho
tới năm 1997, bảo hiểm thất nghiệp chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có tuyển
dụng từ 30 công nhân trở lên và con số này đã giảm xuống là 5 công nhân trở lên kể
từ tháng 3 năm 1998. Các doanh nghiệp còn lại có số công nhân ít hơn 5 người và
chủ yếu là các công nhân làm việc bán thời gian và tạm thời cũng được hỗ trợ kể từ
tháng 10 năm 1998, sớm hơn kế hoạch đặt ra trước đây là từ tháng 7 năm 1999 mới
áp dụng. Số tháng làm việc tối thiểu để được nhận hỗ trợ đã giảm từ 12 tháng xuống
6 tháng, do đó làm tăng số lượng người bị sa thải được nhận bảo hiểm việc làm.
Thời gian tối thiểu của các khoản chi trả bảo hiểm tăng từ 1 tháng lên 2 tháng và
mức chi trả cũng tăng lên tương đương với 70% lương tối thiểu từ mức 50% trước
đây. Chính phủ đồng thời cũng đã triển khai các khoản phúc lợi cơ bản tạm thời và
cho vay với lãi suất thấp nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cấp thiết tối thiểu của các
công nhân thất nghiệp hay những người có thu nhập thấp.
Sự thất nghiệp gia tăng và đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả sự dụng lao động
để tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn đã dẫn tới sự biến đổi có tính đột phá
trong hệ thống tuyển dụng và trả lương của Hàn Quốc. trong đó lương được trả theo
thời gian làm với công ty, thời gian được đào tạo và tuổi của người lao động.Từ
năm 1997, các doanh nghiệp bắt đầu chuyển dang hệ thống trả lương theo hiệu quả
đóng góp của người lao động. Tháng 1 - 1999, 15% số doanh nghiệp có trên 100 lao
động đã áo dụng hệ thống trả lương mới này, và đến cuối năm 1999 hơn 50% doanh
nghiệp đã áp dụng. Chính phủ có nhiều ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp này.

57
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

2.4.2.4. Xây dựng quan hệ quản lý - lao động mới


Thái độ đối đầu và bất hợp tác giữa lao động và quản lý trước đây không thể
giải quyết được khủng hoảng hay làm thoả mãn được cả hai phía. Lao động và quản
lý cần phải làm việc phối hợp với nhau như những đối tác để có thể cạnh tranh trên
các thị trường thế giới. Quan hệ lao động - quản lý mới dựa trên sự tham gia và hợp
tác là chiến lược duy nhất để có thể giúp cả hai bên tồn tại và phát triển. Cơ sở nền
tảng quan trọng của nó là sự tin cậy lẫn nhau.
Mặc dù hầu hết các công ty đều chịu tác động của sự suy giảm kinh tế vào
năm 1999 nhưng nhiều công ty đã nỗ lực áp dụng biện pháp cắt giảm tiền công thay
vì biện pháp sa thải và điều này đã được chấp thuận thông qua đàm phán giữa giới
chủ và lao động. Thành công này cho thấy rằng hầu hết các công nhân đều nhận
thức được những khó khăn hiện tại [49; 21].
Các tổ chức nhân đạo, phi chính phủ, dân sự và tôn giáo đã cố gắng giúp đỡ
người thất nghiệp, các tổ chức này thường tập trung vào việc nuôi ăn người đói và
thông tin tìm việc làm. Theo Viện nghiên cứu Hàn Quốc, cần tập trung hơn vào việc
tư vấn tâm lý cho những người mất việc để họ làm quen và tự điều chỉnh bản thân
với hoàn cảnh khó khăn. Đặc biệt, cần có một nhà tư vấn tam lý của Bộ Lao động
làm việc trực tiếp tại các văn phòng phát trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, nơi mà
người công nhân lần đầu tiên hiểu rõ thực trạng của họ. Ngoài ra, nhiều khoa tâm lý
ở các trường các trường đại học sẵn sàng cung cấp giúp đỡ bằng cách trực tiếp tư
vấn cá nhân hay qua đường điện thoại.
Chính phủ Hàn Quốc cũng đã tập trung vào hạn chế việc sa thải và tiếp tục
xúc tiến tạo them việc làm mới. Chính phủ cũng lo việc thực hiện các cam kết với
IMF có thể gây các bất ổn xã hội dẫn tới cuộc rối loạn ghê gớm như ở Indonesia.
Trong tuần lễ từ ngày 8 - 15 tháng 6 – 1998 Tổng thống Kim Dae Jung đến
Washington để bàn với Qũy tiền tệ và Mỹ về việc mà ông cho rằng: “Biện pháp
nâng cao lãi suất và các biện pháp khắc khổ khác mà IMF áp đặt để ổn định nền
kinh tế đã đem đến nhiều đau đớn hơn là thành quả”. Trong lúc tiền tệ tương đối ổn
định thì nạn thất nghiệp lại gia tăng, thị trường chứng khoán suy giảm và nền kinh
tế tiếp tục suy thoái 2 lần trong 2 tháng, Chính phủ Hàn Quốc đã yêu cầu IMF cho
phép giảm bớt mức tăng lãi suất - nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn phá sản và thất
nghiệp tới mức kỷ lục [55; 13].

58
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

2.4.3. Kết quả đạt được


Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tuy vẫn còn không ít khó khăn
nhưng năm 1999 đánh dấu sự phục hồi kinh tế của Hàn Quốc. Điều này phản ánh
các chính sách kinh tế vĩ mô phối hợp, tiếp theo một quá trình điều chỉnh khắc
nghiệt nhưng nhanh chóng và thực hiện kiên quyết của các chính sách cơ cấu nhằm
kiềm chế sự suy sụp có hệ thống của khu vực tài chính và công ty, lấy lại niềm tin
của công chúng và sự chuyển mình trong thương mại khu vực, trong đó phần nào có
sự đóng góp của nền kinh tế quốc tế đang khởi sắc hơn. Để tháo gỡ khó khăn, Chính
phủ Hàn Quốc đã phải chấp nhận vay khẩn cấp của IMF 57 tỷ USD với những điều
kiện ngặt nghèo, tiến hành cải cách mạnh mẽ, xây dựng nền kinh tế thị trường dân
chủ, phá bỏ quyền lực của các tài phiệt, coi trọng các công ty vừa và nhỏ, giảm bớt
sự can thiệp của Nhà nước, chống câu kết chính trị - kinh doanh, mặt khác, Hàn
Quốc đã áp dụng chính sách “thắt lưng buộc bụng”, huy động quốc dân quyên góp
tiền vàng ủng hộ Chính phủ. Chỉ trong vòng một tháng phát động, 2 triệu người Hàn
Quốc đã tự nguyện đem vàng dự trữ, tư trang quý của họ ra bán với giá trị lên đến
1,3 tỷ USD [42; 11]. Kết quả là Hàn Quốc đã thành công trong việc khắc phục
khủng hoảng, trong thời gian 3 năm (1998- 2000) [14; 52].
Có thể nói, Hàn Quốc là nước dẫn đầu quá trình phục hồitrong số các nước
chịu khủng hoảng nặng nề nhất. Những chuyển biến tích cực về mặt kinh tế ở Hàn
Quốc đã kéo theo những thay đổi về mặt xã hội và gặt hái được những kết quả đáng
ghi nhận:
- Với những cố gắng, nỗ lực nêu trên, thị trường tài chính và ngoại hối Hàn
Quốc đã bình ổn trở lại sau những chấn động lớn, đạt được nhiều kết quả đáng
khích lệ, cụ thể là: Khối lượng và tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại giảm
mạnh, từ mức cao trong năm 1997 tính đến tháng 9 – 1999, nợ nước ngoài của Hàn
Quốc đã giả xuống còn 140,9 tỷ USD trong khi các khoản tiền cho nước ngoài vay
đã lên đến 141,3 tỷ USD [20; 269]. Hàn Quốc đã trả xong nợ của IMF và đến tháng
7 – 2003, dự trữ ngoại tệ đã đạt 133 tỷ USD [14; 52].
- Tỷ lệ thất nghiệp đã nhanh chóng giảm trong 8 tháng đầu năm 1999, chỉ
còn 1,4 triệu lao động mất việc làm [42; 11]. Tỷ lệ thất nghiệp từ 8,7% tháng 2 –
1999 giảm xuống còn 4% cuối năm 1999 [20; 269]. Nhờ có việc làm nên sức mua
trên thị trường Hàn Quốc được cải thiện rõ rệt.
- Các chỉ số phát triển kinh tế đã bắt đầu có dấu hiệu tăng trở lại: Theo
thống kê của Bộ Tài chính và Kinh tế Hàn Quốc công bố ngày 1 – 3 – 1999, mức

59
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

tăng GDP tăng 10,2% so với mức -5,8% năm 1998 do khối lượng xuất khẩu tăng ở
mức 20% năm 1999. Riêng quý 4 – 1999 tăng 13,5% so với cùng kỳ 1998 và là
mức tăng theo quý cao nhất trong 12 năm qua. Sản lượng công nghiệp tháng 4 –
1999 tăng 17,1 % so với so với tháng 4 – 1998 [20; 269]. Tháng 2 – 2000, xuất
khẩu tăng nhanh, Hàn Quốc đã xuất siêu 800 triệu USD mặc dù trước đó dự đoán sẽ
nhập siêu. Kim ngạch xuất khẩu đạt 12,82 tỷ USD tăng 37,3% [53; 19].
- FDI tăng nhanh trong năm 1999 nhờ vào tốc độ phục hồi kinh tế nhanh
chóng và việc giảm các thủ tục quy định trong đầu tư nước ngoài. Theo báo cáo của
Bộ Công nghiệp, Thương mại và Năng lượng Hàn Quốc, trong 10 tháng đầu năm,
dòng FDI vào Hàn Quốc đạt 10,25 tỷ USD tăng 85% so với cùng kỳ năm 1998 và
dự tính cả năm Hàn Quốc sẽ thu hút được khoảng 15,2 tỷ USD vốn FDI, nhiều nhất
kể từ năm 1962 [43; 64] .
Năm 1999, Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung đã tuyên bố: “Hàn Quốc đã
hoàn toàn vượt qua khủng hoảng tài chính, với kim ngạch xuất khẩu tăng, lãi suất
thấp và tốc độ cải cách các cơ sở tài chính và các cơ sở khác mạnh” [43; 15].

60
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CUỘC KHỦNG


HOẢNG TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở HÀN QUỐC 1997 – 1998
VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA

3.1. Một số nhận xét


3.1.1. Tính chất của cuộc khủng hoảng
Về tính chất, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Hàn Quốc cũng được
đặc trưng bởi 3 tính chất sau:
- Thứ nhất, về thực chất, cuộc khủng hoảng này mang tính chất cơ cấu với
sắc thái tài chính – tiền tệ đậm nét, chứ không phải là cuộc khủng hoảng chu kỳ hay
sự đổ vỡ của một mô hình phát triển nào. Thị trường tài chính – tiền tệ Hàn Quốc là
nơi chịu ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng hoảng và cũng là nơi khởi phát đầu
tiên ở Đông Bắc Á, khởi đầu từ một “cú sốc” tỷ giá do những quyết định thả nổi –
phá giá đồng bản tệ mà chính phủ Hàn Quốc đột ngột đưa ra (8 - 1997) , sau những
cố gắng kìm giữ giá đồng bản tệ cố định cao giả tạo và quá mức chịu đựng [31; 7].
Cuộc khủng hoảng khởi phát từ lĩnh vực tài chính – tiền tệ và cũng sẽ được khắc
phục chủ yếu nhờ những giải pháp nhằm lành mạnh hóa và hoàn thiện hệ thống tài
chính – tiền tệ của mỗi khu vực, nhất là đảm bảo sự cân đối cơ cấu vốn huy động,
cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất, xuất khẩu, …
- Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Hàn Quốc mang tính quốc
tế sâu sắc , cả về nguyên nhân, tác động lan truyền lẫn những nỗ lực tài chính nhằm
vượt qua khủng hoảng. Tính chất quốc tế của cuộc khủng hoảng thể hiện qua thông
điệp – cảnh báo chung về chính sách tăng trưởng kinh tế mà nó đưa ra cho tất cả các
nước, nhất là các nước thuộc thị trường mới nổi dậy trong thế giới đang phát triển.
- Thứ ba, cuộc khủng hoảng kèm theo suy thoái kinh tế mạnh, diễn ra theo
tính chất làn sóng, lan tỏa từng đợt đuổi bắt nhau, sau đó ảnh hưởng định chế lẫn
nhau theo kiểu “hiệu ứng Domino” và bắt đầu từ những chấn động tại các nước
“trung tâm nhạy cảm” không cố định ở khu vực. Sauk hi đồng Won bắt đầu phá giá
vào cuối tháng 8 – 1997 đã dẫn đến Đài Loan phải tuyên bố thả nổi đồng đô la Đài
Loan vào ngày 17 – 10 – 1997 và ngay lập tức ngày 23 – 10 – 1997 Hồng Công phá
giá [31; 7]. Sự gia tăng ngày càng cao về mức độ tương tác lẫn nhau và ý nghĩa của
các sự kiện, các vấn đề kinh tế của mỗi nước tùy thuộc vào vị thế của chúng trong bối
cảnh nền kinh tế thế giới đang vận động theo hướng tự do hóa và toàn cầu hóa.

61
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

3.1.2. Đặc điểm của khủng hoảng


Bên cạnh những nhận xét trên về tính chất của cuộc khủng hoảng ta còn thấy
rõ rằng khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã gây nên một cuộc khủng hoảng niềm tin,
trước khi xảy ra khủng hoảng một không khí hứng khởi đang tràn ngập trong khu
vực. Cho đến nửa đầu những năm 1990, sau gần 30 năm liên tục tăng trưởng vào
loại hàng đầu thế giới, một số quốc gia đang phát triển ở châu Á, tập tung ở Đông
và Đông Nam Á đã thực sự trở thành “thần tượng phát triển”, “một tấm gương đáng
để noi theo” đối với thế giới thứ ba – nơi mà đến những năm tận cùng của thế kỷ 20
vẫn còn có tới 40% các quốc gia thuộc nhóm nước thu nhập thấp và tình trạng lạc
hậu còn rất phổ biến [44; 13].Các quốc gia trong khu vực dường như đều tin rằng đi
theo con đường phát triển mà Nhật Bản và các nước khác ở Đông Á đã trải qua
trong mô hình đàn nhạn bay, họ có thể rút ngắn lộ trình trở thành các con rồng châu
Á. Họ cho rằng thế kỷ 21 là “thế kỷ của Nhật Bản”, “thế kỷ của Đông Á”, hay rộng
hơn “thế kỷ của châu Á – Thái Bình Dương”, sự “thần kỳ”này sẽ còn tiếp tục nhiều
năm nữa và lang rộng xuống cả Tây và Nam Á. Trung tâm tăng trưởng của thế giới
đang chuyển từ Đại Tây Dương về Thái Bình Dương [36; 7].
Đồng thời, cùng với việc hạ thấp những giá trị châu Á, một số nhà tư tưởng
phương Tây ra sức đề cao chủ nghĩa tư bản Âu –Mỹ, xem chủ nghĩa tư bản Âu - Mỹ
ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản châu Á .Theo họ, “khủng hoảng kinh tế châu Á cũng
chính là khủng hoảng của chủ nghĩa, sự đỗ vỡ vủa mô hình thị trường tự do gắn với
dân chủ”. Mô hìnhknh tế của các nước châu Á thực chất là áp dụng các nguyên lý
kinh tế thị trường [57; 12], nhưng không chú trọng yếu tố thị trường mà lại nhấn
mạnh tính kế hoạch của chính phủ . Sự phối hợp giữa các tổ chức công nghiệp lớn,
trợ giúp cho xuất khẩu, bảo vệ thị trường nội địa và đảm bảo việc làm cả đời cho
công nhân. Mô hình này bắt nguồn từ Nhật Bản được Hàn Quốc và nhiều nước
Đông Nam Á áp dụng ở mức độ khác nhau nhưng hiện không còn là giải pháp cho
các nước phát triển. Không ít học giả thậm chí còn đưa ra những kiến giải để chứng
minh cho nhận định đậm màu bi quan của họ là “Thần kỳ Đông Á sắp kết thúc”.
Động cơ là buộc nhân dân châu Á không còn tin vào khả năng của mình trong con
đường tìm kiếm con đường riêng để phát triển và đi vào hiện đại. Do vậy, tìm
phương thức để sớm thoát khỏi khủng hoảng hiện nay không chỉ là nhu cầu phát
triển của châu Á mà còn là trách nhiệm không thể thoái thác đối với việc bảo vệ các
giá trị truyền thống của khu vực.

62
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Cuộc khủng hoảng cho ta thấy được đặc trưng cơ bản quá trình tự do hóa khu
vực tài chính ở Hàn Quốc không được kiểm soát hợp lý, sự vay vốn tràn lan và đầu
tư quá mức cần thiết cùng với sự phá sản các Chaebol là nguyên nhân cơ bản dẫn
đến cuộc khủng hoảng. Bằng các chính sách và biện pháp cải cách thích hợp cùng
với sự trợ giúp của IMF, nền kinh tế Hàn Quốc đã nhanh chóng phục hồi. Tuy
nhiên, bên cạnh những đánh giá tích cực cũng có nhiều phê phán về những điều
kiện của IMF đối với Hàn Quốc với những ràng buộc trong quản lý kinh tế vĩ mô
[50; 172 - 174].
Bên cạnh những tác động tiêu cực rõ ràng mà khủng hoảng đưa lại cho Hàn
Quốc, thì cuộc khủng hoảng cũng có những mặt tích cực riêng của nó. Cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 - 1998 là một đòn đánh nặng nề vào tư tưởng của
người dân cũng như lãnh đạo của Hàn Quốc nói riêng và các nước Đông Á nói
chung cần xem lại con đường phát triển kinh tế của đất nước mình, cần phát triển
dựa trên nôi lực đất nước là chính, không thể xây dựng một đất nước thực sự cường
thịnh bền vững khi dựa vào các nguồn lực bên ngoài, bằng các bong bóng kinh tế
ảo. Một lời cảnh báo nữa đó là không thể chỉ tăng trưởng kinh tế mà không quan
tâm đến sự công bằng xã hội, đến sự bền vững của môi trường nếu không sẽ có
những hậu quả vô cùng lớn không thể lường trước được, cuộc khủng hoảng cũng
như một lực đẩy vô cùng lớn thúc đẩy chính phủ các nước không còn mơ màng
trong sự “thần kỳ Đông Á”, mà phải tiến hành cải cách tìm ra con đường mới cho
công cuộc phát triển xây dựng, phát triển nền kinh tế của đất nước mình.
Một điểm quan trọng cần lưu ý nữa đó là thông qua cuộc khủng hoảng ta
thấy rằng ASEAN lúc bấy giờ còn có vai trò rất hạn chế đối với kinh tế khu vực,
ASEAN đã không đưa ra được một quyết định cụ thể để giúp cho các nước thành
viên của mình. Trong tuyên bố chung về tình hình khủng hoảng tài chính được công
bố ở Kualalumpua ngày 15 – 12 – 1997 ASEAN chỉ kêu gọi các nỗ lực quốc tế, khu
vực và quốc tế lớn hơn. Do đó không có một chiến lược khắc phục khủng hoảng
nào chung của toàn hiệp hội . Mỗi nước thành viên phải tự lo đối phó với khủng
hoảng. Như vậy khủng hoảng tài chính-tiền tệ đã cho thấy các nước thành viên
ASEAN chưa xây dựng được thói quen đặt lợi ích quốc gia trong lợi ích chung của
toàn khu vực, chưa nhìn lợi ích quốc gia của mỗi nước từ góc độ lợi ích chung của
toàn hiệp hội.

63
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

3.2. Những bài học kinh ngiệm rút ra


3.2.1. Đối với Hàn Quốc
Qua kinh nghiệm xử lý khủng hoảng, Hàn quốc cũng đã rút ra ba nội dung
được xem là trụ cột của ổn định tài chính là: Hoạt động kinh doanh lành mạnh (hệ
thống quản trị công ty của ngân hàng), mạng lưới an toàn tài chính hiệu quả (bao
gồm bảo hiểm tiền gửi, quy chế an toàn và vai trò của người cho vay cuối cùng) và
cuối cùng là nguyên tắc thị trường hữu hiệu trên cơ sở minh bạch.
Đồng thời, Hàn Quốc cũng rút ra được những bài học và những vấn đề liên
quan tới chính sách là:
- Tầm quan trọng của sự nhất quán dân tộc và các nhà lãnh đạo chính trị,
không vì ảo tưởng chính trị mà dầu tư quá lãng phí vào những công trình ít mang lại
hiệu quả kinh tế [31; 12].
- Đánh giá chính xác bản chất khủng hoảng để có giải pháp đúng đắn và kịp
thời đối phó, hoạch định chính sách để điều chỉnh tỷ giá hối đoái một cách chính
xác và cách kịp thời. Đồng thời đây là điều cần thiết để duy trì niềm tin nhà đầu tư
nước ngoài, sự minh bạch ở cấp độ doanh nghiệp và chính phủ là rất quan trọng.
- Đánh giá thực tế vấn đề: Chính phủ không nên công bố số tiền dành cho xử
lý nợ xấu từng năm. Đồng thời, cần phải có thông tin cần thiết, xác thực không bị
ảnh hưởng bởi lực lượng chính trị trong việc đưa ra điều chỉnh cần thiết một cách
kịp thời, trên cơ sở giá trị thị trường để giảm thiểu chi phí tài chính và tổn thất.
- Sự giám sát một cách thận trọng sự phát triển của nền kinh tế. Hàn Quốc đã
tăng cường một cách đúng đắn sự giám sát thận trọng kể từ khi cuộc khủng hoảng
xảy ra. Là một quốc gia có của nền kinh tế dựa trên sáng kiến của chính phủ, thì sự
tăng cường giám sát bảo đảm an toàn có thể mang lại sự phát triển của một hệ thống
tài chính lành mạnh.
- Chính sách cân bằng giữa cải cách và khuyến khích nền kinh tế.
- Cải cách về quy chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cơ cấu lại.
- Từng bước toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính. Điểm đầu tiên liên quan
đến trình tự của tự do hóa tài khoản vốn, Hàn Quốc tích lũy nợ ngắn hạn quá nhiều
và sự cần thiết phải phát triển thị trường vốn dài hạn tại Hàn Quốc.
Những bài học sai lầm trong quá khứ, đặc biệt là từ cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ giúp Hàn Quốc rút ra những kinh nghiệm cần thiết để điều chỉnh
những chính sách phát triển vĩ mô, tạo ra những xung lực phát triển mới bền vững

64
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

hơn, thận trọng hơn trong tương lai. Cựu Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung đã
nói: “Sự chịu đựng và những đau đớn này không phải là không có giá trị. Chúng tôi
rút ra được những bài học vô giá từ cuộc khủng hoảng. Chúng tôi hiểu được rằng
giải pháp cho những vấn đề của chúng tôi đòi hỏi lớn gấp bội các biện pháp cải cách
riêng lẻ đã được thực hiện trong quá khứ. Những vấn đề này không yêu cầu gì hơn
là sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận ý tưởng phát triển – đó là mô hình chuyển
hướng sang theo đuổi song song giữa dân chủ và kinh tế thị trường” [44; 11].
Kinh nghiệm xử lý khủng hoảng của Hàn Quốc rất có ý nghĩa trong việc xây
dựng một hệ thống tài chính lành mạnh cũng như trong việc xử lý khủng hoảng tài
chính của một quốc gia.
3.2.2. Đối với Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực (bắt đầu từ Thái Lan, lan
sang Indonesia, Hàn Quốc…), Về phía Viê ̣t Nam, cuô ̣c khủng hoảng là sự cảnh báo
trước những nguy cơ Viê ̣t Nam có thể gă ̣p phải trong quá trình phát triển kinh tế.
Việt Nam không bị ảnh hưởng bao nhiêu trong cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu
năm 1997, một phần vì kinh tế Việt Nam lúc đó còn chưa hội nhập sâu vào với kinh
tế thế giới, một phần nữa là vì Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán và chưa có
sự “mở cửa” cho việc tự do chuyển đổi ngoại tệ, hoặc mua bán tự do các loại tiền
phiếu, cổ phiếu hoặc mua cổ phiếu của người nước ngoài … [28; 7]. Cuộc khủng
hoảng bắt đầu tác động vào nền kinh tế Việt Nam từ năm 1998: Làm giảm sút xuất
khẩu của Việt Nam, nhiều doanh nghiệp bị đình đốn, tăng trưởng kinh tế sa sút, thất
nghiệp tăng. Khủng hoảng cũng làm cho sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trở nên
đắt hơn trên thị trườn thế giới do đồng tiền Việt Nam đã tăng giá so với nhiều đồng
tiền của các nước bị khủng hoảng trong khu vực. Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
giảm. Mức độ vốn đầu tư đăng ký vào năm 1998 chỉ còn bằng 75% và vốn thực
hiện chỉ còn trên 50% so với mức của năm 1997 [57; 14].
Từ thực tế cuộc khủng hoảng, ta rút ra được những bài học đối với nền kinh
tế Việt Nam:
Thứ nhất, hiê ̣u quả kinh doanh của các doanh nghiê ̣p và hiê ̣u quả kinh tế
quốc gia là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và phải trở thành
mô ̣t mục tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lí ngành và mỗi doanh
nghiê ̣p [45; 149 - 151]. Cần đưa ra các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuâ ̣n, và tỉ suất giá
trị gia tăng trên vốn riêng của doanh nghiê ̣p theo các ngành, theo các thành phần
kinh tế và theo địa phương trong cả nước. Cần lựa chọn một cách tập trung và phù

65
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

hợp với các mục tiêu ưu tiên trong quá trình phát triển (lựa chọn vùng, ngành, sản
phẩm, thị trường, qui mô các dự án và nhịp độ tăng trưởng). Nhà nước phải có định
hướng đầu tư của toàn xã hội theo một cơ cấu hợp lý.
Thứ hai, để các doanh nghiê ̣p và nền kinh tế phát triển bền vững thì lãi suất
vốn vay để đầu tư phải tương đương với hoă ̣c nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh
nghiê ̣p. Vâ ̣y, để phát triển bền vững , lãi suất tín dụng chủ yếu phải hình thành từ
quan hê ̣ cung cầu vốn trên thị trường chứ không dựa vào ý chí của nhà nước. Nếu
lãi suất tín dụng nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiê ̣p và sản phẩm của
doanh nghiê ̣p có tính cạnh tranh cao, thì doanh nghiê ̣p có thể sẽ càng phát triển
nhanh và hiê ̣u quả kinh doanh cao [45; 151 - 152].
Đồng thời, sự phát triển của kinh tế thị trường phải đi liền với xây dựng một
hệ thống ngân hàng đủ mạnh, có kinh nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách tiền
tệ trong nền kinh tế thị trường.
Việc mở rộng thị trường vốn của mỗi nước là điều hết sức cần thiết. Song,
việc mở rộng cánh cửa thị trường vốn không có nghĩa là hoàn toàn buông lỏng. Việt
Nam cần phải duy trì một tỷ lệ hợp lí:
+ Quan hệ tỷ lệ giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài.
+ Quan hệ tỷ lệ giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong khi gọi vốn từ
nước ngoài. Nếu tỷ lệ vốn ngắn hạn lớn không ổn định và mong manh sẽ là một vấn
đề có tác động rất nhạy cảm khi thị trường tiền tệ trong nước có diễn biến xấu. Sự
rút vốn đồng loạt và ồ ạt sẽ là yếu tố gây rối loạn thị trường vốn trong nước.
+ Quan hệ giữa thời hạn vay và đối tượng được đầu tư. Nếu thời hạn vay
ngắn, nhưng lại dược đầu tư vào bất động sản, một khi thị trường bất động sản bế
tắc thì khả năng trả nợ sẽ khó và nợ quá hạn sẽ lớn, gấy mất ổn định trong hệ thống
tài chính.
Thứ ba, cần có mô ̣t tổ chức chuyên trách của chính phủ theo dõi sự biến
đô ̣ng của lạm phát, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và quốc tế, cán cân
tài khoảng vãng lai, nợ quốc gia, hiê ̣u quả kinh doanh của các doanh nghiê ̣p để đề
suất chính sách và điều tiết cần thiết, đảm bảo phát triển quốc gia bền vững với tăng
trưởng tương đối cao [45; 153].
Thực chất cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Á là khủng hoảng nợ nước ngoài,
đặc biệt là vốn vay tư nhân và ngắn hạn, dẫn tới cầu về USD tăng cao, vượt quá
cung và đồng nội tệ mất giá nhanh chóng dẫn đến mất khả năng trả nợ. Vì vậy, bài

66
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

học đầu tiên là Việt Nam phải có chiến lược, qui hoạch và biện pháp để quản lý và
sử dụng vốn vay nước ngoài (ODA, vốn vay ngắn hạn và dài hạn) một cách hiệu
quả nhất, cũng đảm bảo hoàn trả vốn vay đúng thời hạn. Việt Nam cần có khung
luật pháp nghiêm minh và hệ thống quản lý của Nhà nước chặt chẽ nhằm kiểm soát
những khoản vay nước ngoài ngày càng gia tăng. Chính sách vay vốn nước ngoài
cần khuyến khích hướng vào vay vốn dài hạn, hạn chế và quản lý chặt chẽ vốn ngắn
hạn; cần phải thận trọng với những luồng vốn ngắn hạn ồ ạt.
Trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như điều hành vĩ mô, cần duy trì
một thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: lạm phát, tăng
trưởng , tỷ giá hối đoái, lãi suất, ngân sách, cán cân thương mại và cán cân thanh
toán. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần được điều hành một cách linh hoạt, đồng bộ
và phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau, phát huy cao độ nội lực để tăng trưởng
nhanh và phá triển bền vững, đối phó tốt với các “cú sốc” từ bên ngoài. Sự thâm hụt
của cán cân vãng lai là một vấn đề cần được quan tâm thường xuyên và có biện
pháp điều chỉnh thích hợp.
Thứ tư, phát huy cơ chế thị trường tối đa đi đôi với xây dựng một nhà nước
mạnh, trong sạch và hiệu quả, thu hút tối đa nguồn nhân lực bên ngoài trên cơ sở
huy động hiệu quả nguồn lực bên trong. Đồng thời giải quyết các vấn đề trước mắt
trên cơ sở tầm nhìn và đầu tư dài hạn, nhất là giáo dục [57; 13].
Thứ năm, giảm thiểu vai trò can thiệp của nhà nước vào các quyết định kinh
doanh sản xuất của các doanh nghiệp chính là cách thức để tạo ra hệ thống kinh
doanh minh bạch nhằm hạn chế sự phình to của nền kinh tế bong bóng cũng như
hạn chế nạn tham nhũng phát triển [44; 200] .
Thứ sáu, khuyến khích thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ bên ngoài cùng
với tăng cường khả năng kiểm soát khi thị trường tài chính trong nước chưa đủ
mạnh để có thể cạnh tranh bình đẳng [44; 196].
3.2.3. Đối với nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng
Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa
thị trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không
phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những tác động của cuộc khủng
hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt nhất.

67
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình
trạng quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các
khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu
Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa
số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn
vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, vì không hề có các công
cụ điều tiết.
Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó
không trang bị cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để
giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của các nước
đang phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây dựng hệ thống luật pháp phù
hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm
1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu
Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu
tư dư thừa vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy
đua sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc
“thừa tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản,
từ đó lại quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn
giá trị thực của tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải
hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có
tỷ lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh
toán Quốc tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ
lệ này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ”
vì nguồn cơn của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong
tầm kiểm soát trực tiếp của họ.

68
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do sự “tắc trách” của
người châu Á gây ra. Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức cân
bằng hoặc thặng dư, và không hề có lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra phần nhiều
là do những thay đổi về mô hình của hoạt động trung gian tài chính quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập
niên 90 đã làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế
giới. Vì thế, các giám đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao
hơn, thông qua các dự án đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ,
việc thâm hụt ngân sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn
đến tốc độ lạm phạt giảm và do đó lãi suất giảm.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi
suất ở châu Á cao hơn, còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng
đồng đôla Mỹ hoặc yên Nhật  có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn
vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm
tình hình thâm hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền, tình
hình càng trở nên xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Thị
trường tài chính châu Á chao đảo.
Bên cạnh đó, còn có một số biện pháp để phản ứng tốt hơn với cuộc khủng
hoảng như: Điều chỉnh các luật về phá sản và các cơ chế về cơ cấu lại; tăng cường
bảo hộ xã hội; cần có một khuôn mẫu mới cho hệ thống tài chính quốc tế để phòng
tránh được sự bất ổn định, lây lan và khủng hoảng tâm lý … [8; 147]
Bài học thứ tư: Các chương trình điều chỉnh của IMF nên được thích ứng với
những đặc điểm riêng của từng nước [59; 53]. Tại Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia
nơi mà IMF đã chẩn bệnh, cả ba bệnh nhân đều nhận được một toa thuốc giống
nhau gồm 4 muc: Cải tổ khu vực tài chính, giảm mức tăng trưởng bằng cách cho
tăng lãi suất, giảm chi phí bằng cách cắt bỏ những chương trình tốn kém của chính
phủ, mở rộng thị trường nội địa [17; 84]. Quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa sẻ
được đẩy lên một nấc mới, nhờ các chương trình điều chỉnh kinh tế rộng rải theo
hướng này ở các nước khu vực sau khi đã “uống thuốc của IMF”.

69
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

KẾT LUẬN

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình trạng nghèo đói và lạc hậu phổ biến
trong từng ngõ ngách của tất cả các nước ở châu Á. Ước mơ thoát nghèo đè nặng
lên lên chúng và các chính phủ. Vào năm 1960, GDP của Hàn Quốc chỉ là 82 USD,
tương đương hoặc cao hơn Việt Nam lúc đó chút ít, không khác mấy những thôn
quê nghèo khó, hay những làng chai tối tăm, những thị trấn chắp vá, nhếch nhác.
Vốn là nước nghèo tài nguyên, thị trường trong nước hạn hẹp, hầu như
không có tích lũy, đầu năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện công nghiệp hóa
với chiến lược phát triển kinh tế hướng ra bên ngoài, lấy xuất khẩu làm động lực.
Chỉ qua hơn một phần tư thế kỷ, Hàn Quốc đã có bước phát triển thần kỳ, đến giữa
những năm 1980 đã trở thành một trong những nước và lãnh thổ mới công nghiệp
hóa (NICs). Sau một thời gian rất ngắn, GDP của Hàn Quốc năm 1970 là 1.310
USD/người, nghĩ là đã vượt qua ngưỡng bị coi là nước nghèo. Chỉ số phát triển con
người HDI của Hàn Quốc là 0,877, xếp thứ 12 trong 169 quốc gia trên thế giới.
Tháng 10-1996, Hàn Quốc đã gia nhập Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
(OECD) của các nước tư bản phát triển nhất thế giới. Sự thành công của Hàn Quốc
đã trở thành niềm ước ao của nhiều nước đang phát triển, khiến các nước này thôi
“hướng về phương Tây” để “nhìn sang phương Đông”với hy vọng sẽ tìm được
những kinh nghiệm cho sự phát triển của kinh tế nước nhà.
Có thể nói, chặng đường công nghiệp hóa thần tốc của Đông Á nói chung và
Hàn Quốc nói riêng cho đến nay vẫn là liều thuốc thần gây ấn tượng mạnh, kích
thích đối với nhiều nước, nhất là các nước đi sau trong đó có Việt Nam [46; 3 - 8].
Thế rồi, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ đã ập đến Hàn Quốc vào tháng
11 - 1997. Với cuộc khủng hoảng này, một lần nữa Hàn Quốc lại làm cho thế giới
bất ngờ. Trong số các NIC Đông Á thì Hàn Quốc là nước bị khủng hoảng tài chính
trầm trọng nhất. Là điểm nóng nhất của cuộc khủng hoảng, nhưng chỉ sau khoảng,
nhưng chỉ sau khoảng 2 năm tiến hành khôi phục khủng hoảng, dân tộc Hàn Quốc
lại đưa thế giới đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác – khôi phục hoàn toàn nền kinh
tế với mức độ phục hồi nhanh nhất và tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao.
Việt Nam và Hàn Quốc là hai nước có nhiều nét tương đồng về lịch sử và
văn hóa: cùng ở trong khu vực địa lý phương Đông châu Á (đồng châu), cùng có
chung màu da vàng (đồng chủng), cùng chịu ảnh hưởng của nền văn minh cổ đại

70
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Trung Hoa (đồng văn), cùng bị xâm lược, áp bức bóc lột của phong kiến Trung
Quốc, thực dân phương Tây và đế quốc Nhật Bản (đồng cừu). Với “bốn đồng” đó,
nhân dân hai nước Việt – Hàn đã từng có quan hệ giao lưu văn hóa lâu đời trên
nhiều phương diện [52; 41 – 43]. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc vốn có lịch sử từ
lâu đời và đã trải qua những bước thăng trầm. Sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng,
mở ra bước ngoặt trong sự phát triển quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc sau chiến tranh
lạnh đó là việc hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ vào
ngày 22 – 12 – 1992. Sau sự kiện này, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã phát triển
nhanh chóng và càng ngày càng trở nên mật thiết, đưa hai nước vươn lên tầm cao
mới trong khôn khổ “Quan hệ hợp tác toàn diện trong thế kỷ XXI” từ tháng 8 –
2001. Quan hệ Việt – Hàn kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức đến nay
chưa dài, nhưng đã có những thành tựu rất đáng khích lệ và đang đứng trước những
triển vọng đầy hứa hẹn.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu và rộng với
kinh tế thế giới. Sự thành công (và kể cả thất bại) của Hàn Quốc trong tiến trình
phát triển đất nước, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997
– 1998 là những kinh nghiệm quý giá, những gợi ý cần thiết đối với Việt Nam đang
trong quá trình phát triển đất nước.

71
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngọc Anh (2007), “Kinh tế Hàn Quốc sau 10 năm”, Kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương, 192 (số 49), tr. 33
2. Phan Cao Nhật Anh (2008), “Việc làm của thanh niên Hàn Quốc sau
khủng hoảng kinh tế”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, 87(số 5), tr. 34-41
3. Phương Anh (1998), “Cải tổ tại Hàn Quốc”, Việt Nam và Đông Nam Á
ngày nay, (số10), tr. 13
4. Phương Anh (1998), “Thử thách đối với Hàn Quốc”, Việt Nam và Đông
Nam Á ngày nay, (số 10), tr. 16-17
5. Mai Văn Bảo (2005), “Kinh tế Đông Bắc Á: Đặc điểm và xu hướng biến
đổi”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 58(số 4), tr. 3
6. Walden Bello (1999), Mặt trái của những con rồng, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội
7. Ngô Xuân Bình (2005), “Hướng tới một cộng đồng châu Á phát triển bền
vững”, Nhật Bản và Đông Bắc Á, 55(số 1), tr. 6-13
8. Bottelier (1999), Đông Á con đường dẫn đến phục hồi, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
9. Hồ Châu (1997), “Hàn Quốc chiến lược toàn cầu hóa hướng tới thế kỷ
21”, Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, (số 7), tr. 15-16
10. Chu Việt Cường (1999), “Sáp nhập Chaebol – lối thoát khỏi cơn bão tài
chính của Hàn Quốc?”, Ngiên cứu Đông Nam Á, 34(số 1), tr. 56-59
11. Khương Duy (1996), “Hàn Quốc: Một mô hình tiến hành công nghiệp
hóa khắc nghiệt”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 39 (số 1), tr. 26-34
12. Đỗ Đức Định (1995), Kinh tế ĐôngÁ, nền tảng của sự thành công, Nxb
Thế giới, Hà Nội
13. Bùi Trường Giang (1998), “Nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu”, Những
vấn đề Kinh tế Thế giới, 55 (số 5), tr. 4-5
14. Nguyễn Hoàng Giáp (2009), Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến
tranh lạnh và quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
15. Đặng Kim Hà (1999), “Bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
châu Á và vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn”, Nghiên cứu kinh tế, (số 253),
tr. 29-40

i
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

16. Võ Thanh Hải (2006), “Nguồn gốc và lịch sử phát triển của các Chaebol
ở Hàn Quốc”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, 66(số 6), tr. 69-71
17. Tá Hân (2000), Châu Á từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh
18. Hoàng Văn Hiển (1997), Kinh tế Nics Đông Á: Singapore – Hồng Công
– Đài Loan – Hàn Quốc, Nxb Đại học Huế, Huế
19. Hoàng Văn Hiển (1998), Giáo dục và Đào tạo ở Hàn Quốc, Nxb Lao
động, Hà Nội
20. Hoàng Văn Hiển (2000), Quá trình phát triển kinh tế và xã hội của Hàn
Quốc trong giai đoạn 1961 -1993 và kinh nghiệm đối với Việt Nam), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
21. Dương Phú Hiệp (1999), Con đường phát triển của một số nước châu Á
Thái Bình Dương,Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội
22. Vũ Đăng Hinh (1996), Hàn Quốc – Nền công nghiệp trẻ trỗi dậy, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội
23. Vũ Hoàng (2012), “Sự hy sinh của Hàn Quốc và bài học cho châu Âu”,
Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, (số 385), tr. 20-21
24. Học viện Quan hệ Quốc tế - Bộ Ngoại giao (1997), Hỏi đáp về tình hình
thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
25. Trần Lan Hương (1998), “Đặc điểm và tác động của Chaebol đối với mô
hình công nghiệp hoá Hàn Quốc”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 51 (số 1), tr. 45-50
26. Nguyễn Thị Thu Hường (2009), “Một số nhận định về ảnh hưởng của
Khổng giáo đối với đối với sự phát triển của Chaebol Hàn”, Nghiên cứu Đông Bắc
Á, 107(số 7), tr. 55-63
27. Ngụy Kiệt (1993), Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
28. Nguyễn Hoàng Kim (1997), “Những bài học từ cuộc khủng hoảng tiền tệ
ở Đông Nam Á”, Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, (số 18 kỳ 1), tr. 7-15
29. Hoa Hữu Lân (1997), “Khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á và những
vấn đề đặt ra hiện nay”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 50 (số 6), tr. 25-31

ii
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

30. Hoa Hữu Lân (1998), “Từ sự chao đảo của đồng Won suy nghĩ về nền
kinh tế Hàn Quốc hiện nay”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 52 (số 2), tr. 28-31
31. Hoa Hữu Lân (1998), “Bàn thêm về khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở
Đông Nam Á hiện nay”, Ngiên cứu Đông Nam Á, 31(số 2), tr. 9-12
32. Nguyễn Trúc Lê (2013), “Kinh nghiệm tái cấu trúc doanh nghiệp từ Tập
đoàn Samsung – Hàn Quốc”, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, (số 395), tr.36
33. Lê Bộ Lĩnh (1998), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số
nước châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
34. Hoàng Thị Bích Loan (1999), “Một số giải pháp của các Chaebol Hàn
Quốc trước cơn lốc của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ”, Những vấn đề Kinh
tế Thế giới, 57 (số 1), tr. 18-21
35. Phạm Ngọc Long (1997), “Khủng hoảng tiền tệ Thái Lan và ảnh hưởng
đến các nước trong khu vực và Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế, (số 233), tr. 20-32
36. Nguyễn Thị Luyến (2007), Hiện tượng thần kỳ Đông Á –các quan điểm
khác nhau, Nxb Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội
37. Võ Đại Lược (1998), “Về cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính ở một số
nước châu Á”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 53 (số 3), tr. 9-11
38. Phạm Thị Xuân Mai (2008), “Cải cách kinh tế của Hàn Quốc trong thập
kỷ qua”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, 88(số 6), tr. 23-29
39. Phạm Thị Nga (1997), “Đánh giá lại mô hình công nghiệp hóa ở Đông
Á”, Nghiên cứu kinh tế, (số 225), tr. 61
40. Ngân hàng Thế giới (1999), Đông Á phục hồi và phát triển, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
41. Kim Ngọc (1998), Kinh tế thế giới 1997 đặc điểm và triển vọng, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
42. Kim Ngọc (1999), “Qúa trình phục hồi kinh tế châu Á nguyên nhân và
triển vọng”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 62 (số 6), tr. 8-11
43. Kim Ngọc (2000), Kinh tế thế giới 1999 – 2000 đặc điểm và triển vọng,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
44. Hoàng Thị Thanh Nhàn (1999), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Hàn Quốc,
Malaixia và Thái Lan, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

iii
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

45. Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng kinh tế - tài chính ở châu Á
1997 – 1999, nguyên nhân, hậu quả và bài học đối với Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hồ Chí Minh
46. Hồ Sỹ Qúy (2012), “Một số vấn đề về mô hình phát triển ở Đông Á và
Đông Nam Á”, Viện Thông tin Khoa học xã hội, (số 3), tr. 3-8
47. Phụng Sơn (1999), “Cuộc sống mới của người lao động Hàn Quốc”, Việt
Nam và Đông Nam Á ngày nay, (số 5), tr. 38
48. Josephe Stiglitz (2002), Suy nghĩ lại sự thần kì Đông Á, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
49. Võ Hải Thanh (2009), “Tác động của khủng hoảng tài 1997 chính đối với
thị trường lao động Hàn Quốc và các biện pháp cải cách của Chính phủ”, Nghiên
cứu Đông Bắc Á, 106( số 12), tr. 8-23
50. Nguyễn Thị Thắm (2005), Niên giám nghiên cứu Hàn quốc 2004, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
51. Nguyễn Xuân Thắng (1997), “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Hàn Quốc”, Nghiên cứu kinh tế, (số 230), tr. 51-58
52. Chương Thâu (2005), “Vài nét tương đồng về lịch sử và văn hóa giữa
Việt Nam và Hàn Quốc thời hiện đại”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 57 (số
3), tr. 41-43
53. Theo Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2000), “Hàn Quốc kinh tế tăng
trưởng 10,2% năm 1999”, Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, (số 44), tr. 19
54. Theo Ngân hàng Thế giới (2001), “Hàn Quốc: Sự thành công của một
nhà nước can hiệp mạnh”, Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, (số 3), tr. 11
55. Hải Triều (1998), “Thiệt hại xã hội của khủng hoảng tại Hàn Quốc”, Việt
Nam và Đông Nam Á ngày nay, (số 11), tr. 12-13
56. Ngô Trinh (1996), “Thị trường người lao động nước ngoài ở Hàn Quốc”,
Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 40 (số 2), tr. 25
57. Nguyễn Minh Tú (2000), “Khủng hoảng tài chính châu Á và bài học đối
với Việt Nam khi bước vào thế kỷ mới”, Nghiên cứu kinh tế, (số 260), tr. 8-15
58. Đinh Công Tuấn (1997), “Tình hình và kinh nghiệm phát triển của Hàn
Quốc”, Những vấn đề Kinh tế Thế giới, 50 (số 6), tr. 49-52
59. Janet L. Yellen (2007), “ Những bài học sau 10 năm khủng hoảng ở châu
Á”, Viện Thông tin Khoa học xã hội, (số 8), tr. 51-54

iv
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

PHỤ LỤC

v
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Bảng1. Xu hướng tăng trưởng của Hàn Quốc (%)


  1996   1998    2000   2002  2004   2005   2006
1. GDP 7,0    -6,9     8,5     7,0    4,7     4,2     5,0
2. Tiêu dùng 7,0    -10,6    7,1     7,6    0,4     3,9     4,5
+ Tư nhân 6,7    -13,3    8,4     7,9   -0,3     3,6     4,2
+ Chính phủ 8,0     2,3     1,6     6,0    3,7     5,0     5,8
3. Tổng vốn đầu tư 10,5    -30,6   10,7     5,9    4,8     2,1     3,0
Đầu tư vào thiết bị 9,2    -42,3   33,6     7,5    3,8     5,7     7,6
4. Xuất khẩu 12,2    12,7   19,1    13,3    19,6    8,5     12,4
5. Nhập khẩu 14,3    -21,8   20,1    15,2    13,9    7,3     11,3
Nguồn: Kyung Tae lee, Inkoo Lee, 2007, Crisis, Reforms and Structural Changes
in the Korean Economy,Conference paper Ten Years after the East Asian Crisis:
lessons and Future Economic Prospects.2007, tr. 7.
Bảng 2: Thay đổi việc làm trong các ngành công nghiệp (1997-2001)
(Đơn vị:Nghìn lao động)
1997 1998 1999 2000 2001
Nông nghiệp và đánh cá 2.385 2.480 2.349 2.288 2.193
Khai khoáng 26 21 20 18 19
Chế tạo 4.482 3.898 4.006 4.244 4.199
Dịch vụ công 77 61 61 63 56
Xây dựng 2.004 1.578 1.476 1.583 1.575
Bán hàng, khách sạn, nhà hàng 5.805 5.571 5.725 5.943 5.820
Giao thông vận tải, truyền thông 1.162 1.169 1.202 1.263 1.322
Tài chính, bảo hiểm, kinh doanh 1.900 1.856 1.925 2.089 1.838
Hành chính công 3.265 3.359 3.516 3.569 4.338
Nguồn: Tổng cục Thống kê Quốc gia Hàn Quốc, điều tra dân số kinh tế

Bảng 3: Thay đổi việc làm trong các ngành công nghiệp (1997-2001)
(Đơn vị:Nghìn lao động)

vi
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

1997 1998 1999 2000 2001


Nông nghiệp và đánh cá 2.385 2.480 2.349 2.288 2.193
Khai khoáng 26 21 20 18 19
Chế tạo 4.482 3.898 4.006 4.244 4.199
Dịch vụ công 77 61 61 63 56
Xây dựng 2.004 1.578 1.476 1.583 1.575
Bán hàng, khách sạn, nhà hàng 5.805 5.571 5.725 5.943 5.820
Giao thông vận tải, truyền thông 1.162 1.169 1.202 1.263 1.322
Tài chính, bảo hiểm, kinh doanh 1.900 1.856 1.925 2.089 1.838
Hành chính công 3.265 3.359 3.516 3.569 4.338
Nguồn: Tổng cục Thống kê Quốc gia Hàn Quốc, điều tra dân số kinh tế
Bảng 4: Xu hướng thất nghiệp theo giới, giáo dục và tuổi
(Đơn vị: %)
Tỷ lệ thất nghiệp 3/2000 1999 1998 1997
Tổng số 5,2 6,3 6,8 2,6
Nam 5,1 7,1 7,6 2,8
Nữ 4,2 5,1 5,6 2,3
Trung học cơ sở trở xuống 3,8 5,2 5,8 1,5
Trung học phổ thông 5,4 7,6 8,2 3,3
Cao đẳng và đại học 4,9 5,2 5,7 3,0
15 ~ 19 tuổi 15,3 19,7 20,9 9,9
20 ~ 29 tuổi 8,1 10,2 11,4 5,4
30 ~ 59 tuổi 3,8 5,2 5,5 1,6
60 tuổi trở lên 2,1 2,4 2,4 0,7
 Nguồn: Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, hiện trạng việc làm năm 2000.
Bảng 5: Các xu hướng trong cơ cấu việc làm, theo hiện trạng việc làm
(Đơn vị: Nghìn người)
9/2000 1999 1998 1997
Dân số ở độ tuổi lao động (tuổi 15+)     35.243 34.736
Dân số phi hoạt động kinh tế     13.853 13.123
Dân số hoạt động kinh tế     21.390 21.604
Dân số thất nghiệp     1.463 556

vii
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Dân số có việc làm 21.432 20.281 19.994 21.106


Lao động ngoài khu vực hưởng lương 8.269 7.759 7.804 7.880
Lao động tự làm chủ quản lý 6.223 5.841 5.776 5.981
Chủ quản lý có tuyển dụng 1.537 1.384 1.426 1.633
Lao động độc lập 4.686 4.457 4.350 4.348
Lao động gia đình 2.046 1.918 2.028 1.899
Lao động hưởng lương 13.163 12.522 12.191 13.226
Lao động thường xuyên (toàn thời gian 10.808 10.233 10.455 11.334
+ tạm thời)
Lao động toàn thời gian 6.319 6.050 6.457 7.151
Lao động tạm thời 4.488 4.183 3.998 4.182
Lao động theo ngày 2.356 2.289 1.735 1.892
Nguồn: Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, hiện trạng việc làm năm 2000.
Bảng 6: Các xu hướng trong tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, theo giới và tuổi
(Đơn vị: %)
1999 1998 1997
Tổng (dân số độ tuổi 15-64) 64,7 64,7 66,1
Tổng (dân số độ tuổi 15 trở lên) 60,5 60,7 62,2
Nam (tuổi 15 trở lên) 74,4 75,2 75,6
Nữ (tuổi 15 trở lên) 47,0 47,0 49,5
15 - 19 tuổi 10,9 10,2 10,6
20 - 29 tuổi 53,5 54,8 59,0
30 - 59 tuổi 75,7 67,2 76,3
60 tuổi trở lên 41,4 40,8 44,1
 Nguồn: Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, hiện trạng việc làm năm 2000.
Bảng 7: Các xu hướng trong phân phối thu nhập
(Đơn vị: %)
1996 1997 1998 1999
Hệ số Gini        
Thu nhập toàn bộ 0,29 0,28 0,31 0,30
Lợi nhuận thu được 0,29 0,29 0,30 0,36
Tăng trưởng thu nhập so với năm 1996        
Nhóm 20% hộ gia đình giàu nhất   20,9 5,6 3,7
Nhóm 20% hộ gia đình nghèo nhất   - 8,2 - 10,3 - 8,4
 Nguồn: OECD (2000, p.123)
Bảng 8

viii
EBOOKBKMT.COM - HỖ TRỢ TÀI LIỆU HỌC TẬP

Nguồn: Bộ Kinh tế Tri thức www.mke.go.kr

ix

You might also like