You are on page 1of 5

1.

Thơ trong mối quan hệ với hiện thực

 
Nỗi ám ảnh với mọi người yêu thơ là chạm vào được bản thể của thơ. Thơ ngự trị ở đâu
giữa cõi đời mênh mông này; thơ là một phần của đời sống hay đứng ngoài đời sống là
những vấn đề cần nhận rõ trong quá trình xác định yếu tính của thơ, hiện thực cuộc sống
trong thơ cũng được cảm nhận từ nhiều điểm nhìn khác nhau.

-Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở
trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào cuộc
biến chuyển của lịch sử” (Saint John Perse)(9). Như vậy, dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn
chảy trong biển lớn cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết,
họ phải là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tế vi nhất. Ý thức được điều này,
các nhà lí luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam không những thấy được sự nhiệm
màu trong việc thể hiện chiều sâu đời sống tâm linh mà còn thấy được duyên nợ giữa thơ
với đời thực, với cuộc sống hiện tồn. , “thơ không phải là một thứ nghệ thuật vật vờ như
ma trơi theo gió. Thơ đi sát đời sống: rời ra một bước , nó mất sứ mạng” (Tam Ích)(10).
Và “nhà thơ trước hết phải dám lao thân vào cuộc thử lửa. Nếu chỉ ở thành phố , trong
một thính phòng, trong cái không khí trưởng giả của một đô thị thanh bình mà hô hào
lớn tiếng và phản kháng như thế, thi ca sẽ chỉ còn là cơn bạo hành ngôn ngữ” (Cao Thế
Dung)

- “Thơ có thể vừa là thực, vừa là không thực. Thực vì bắt đầu từ cuộc đời hằng ngày,
không thực vì bao giờ cũng vượt xa nó. Thơ đưa chúng ta vào một thế giới huyền ảo, sâu
xa của tưởng tượng, tôn giáo, thần thoại. Thế giới đó không phủ nhận cuộc đời hằng
ngày nhưng chỉ khác biệt thôi” (Hoàng  Thái  Linh)(14).
 
- “Thơ là sự biểu lộ ý nghĩa huyền bí của cuộc sống bằng tiếng nói của con người thu về
nhịp thuần túy nhất” (Stéphane Mallarme)(16).
- Như vậy biên độ phản ánh hiện thực trong thơ đã được mở rộng đến vô cùng. Và thơ
đã trở thành tiếng nói mầu nhiệm của đời sống tâm hồn. Thơ đã trở thành một thứ vũ
trụ tâm linh không những của nhà thơ mà của cả người tiếp nhận. “Thơ làm tôi sống lại -
Thơ giải thoát tôi ra khỏi vòng tù hãm nhọc nhằn của cuộc sống. Thơ đặt tôi trước đời
sống” (Phạm Công Thiện).
Hiện thực phản ánh trong thơ là một hiện thực đa phương, đa chiều. Nếu chỉ quan niệm
rằng phạm vi phản ánh hiện thực của thơ là tất cả những gì diễn ra trong đời sống mà ta
có thể cảm nhận rõ ràng bằng các giác quan thì vô hình trung ta đã thu hẹp biên độ
phản ánh trong thơ, không nhận ra được bản chất của thơ vốn là sản phẩm của thế giới
huyển tượng, ảo diệu, vô thức, thấu thị bởi “thơ khởi đi từ đời sống. Nhưng nó không hệ
tại những dự kiện ghi nhận được qua hoạt cảnh đời sống. Nó vượt lên trên tất cả. Nó qua
cái hữu hạn để nổ tung, vỡ lớn trong vô cùng, miên viễn. Do đấy, nếu nhìn từ một khía
cạnh nào đó, từ đời sống, thì thơ là một phản đề” (Du Tử Lê)
*) MỘT SỐ CÂU LLVH
-“Thơ trước hết là cuộc đời, sau mới là nghệ thuật” (Belinski)
“Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên)
‘Sẽ chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép “
“Sẽ chẳng có thơ nếu người làm thơ không tìm được sợi dây giao cảm đối với cuộc đời,
không tìm đến những cánh đồng phì nhiêu để từ đấy hạt giống thi ca được ươm mầm,
nảy nở”
“Thơ là cái nhụy của cuộc sống nên nhf thơ phỉa đi hút cho được cái nhụy ấy”( Phạm văn
Đồng)
“Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật đầy’ (Tố Hữu)
VD : Lê Quý Đôn từng nói “ Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không
có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được “. Có thể nói, cuộc đời là
mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế hệ này sang thế hệ khác để nuôi
dưỡng thi ca.Đến với Tố Hưu, người luôn đặt cuộc đời là “nơi xuất phát”, ta không thể
nào quên những khoảnh khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đất trời VB được phác họa trong
khung cảnh ngày xuân:
 
2. Nhà thơ và quá trình sáng tạo
 
Để đi vào thế giớí nghệ thuật thơ, có lẽ chúng ta cần xác định nhà thơ - họ là ai? Vì
chính sứ mệnh nhà thơ chi phối quá trình sáng tạo thi ca. Đây cũng là vấn đề mà các
nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam đề cập đến trong hệ thống quan niệm
về thơ. Kiên Giang tự nhận thi sĩ “là hột cát nhưng hột cát có thể lấp đầy sa mạc.  Là con
voi nhưng con voi có thể chui qua lỗ kim. Cũng là chứng nhân nhưng phải là chứng nhân
thành thật trung hậu vừa mềm dẻo vừa cương nghị”(20).Với Trần Nhựt Tân, “Thi sĩ là
người duy nhất có được ngôn ngữ: hắn đã vượt thóat được ngôn ngữ. Thi sĩ là người duy
nhất có thể vượt thoát được hố thẳm, lập ngôn”(21). Và nếu Cao Thế Dung quan niệm
“Thi nhân tự có nghĩa như một loài bất thường khao khát đam mê”(22) thì Phạm Công
Thiện cho rằng “Những thi sĩ không phải là loài người họ là những thiên thần, những
thánh hoặc những quỉ ma”(23). Còn theo Nguyễn Sỹ Tế, “Thi gia là á thánh, là “thần linh
một nửa”, và chính nhờ ở cái thứ bậc đó mà thi gia đã sắm được cái vai trò giữa thiêng
liêng và phàm tục”(24). Vì “Thơ là những xúc động đặc biệt được diễn tả bằng một ngôn
ngữ đặc biệt của một sinh linh có năng khiếu đặc biệt mệnh danh là thi sĩ”(25).
 
Như vậy, trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, nhà
thơ không phải là người bình thường mà là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Đó
là con người ở ngoài cõi sống mà Đông Hồ đã tụng ca : « Muốn lãnh được danh hiệu là
một thi sĩ, đúng với danh xưng của nó, tôi thấy phải là một người sống một đời sống tinh
thần lạ thường lắm, đặc biệt lạ thường »(26). Thật ra đây là một quan niệm mang tính
phổ biến. Đã là thi nhân chưa ai nhận mình là người bình thường cả. Chỉ có điều cái
không bình thường đó ở mỗi người được biểu hiện khác nhau. Nếu Nguyễn Công Trứ tự
họa chân dung mình là một kẻ « ngất ngưỡng cưỡi bò vàng, đeo nhạc ngựa tiêu dao đây
đó», thì Trần Tế Xương lại chua chát nhận mình là “dở dở ương ương”, là “phổng sành”.
Và đến Chế Lan Viên, chất khác thường của thi nhân được nhà thơ đẩy lên một tầng
nghĩa mới: “Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là
Tiên, là Ma, là Quỉ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm
Tương Lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái
vô nghĩa hợp lý”. Còn Rimbaud – nhà thơ tượng trưng nổi tiếng của Pháp lại cho rằng:
“Thi nhân tự biến mình thành tiên tri thấu thị". Vì thế quan niệm về thi nhân của các nhà
lý luận phê bình văn học miền Nam cũng tương đồng và chưa vượt thoát được quan niệm
truyền thống. Nhưng chính sự thống nhất cũng như không vượt thoát này cho thấy sự
nhất quán và tính điển phạm trong quan niệm về thi nhân của mọi thời. Phẩm chất thi
nhân và thi ca bao giờ cũng là những giá trị mang tính bất biến mà sự khả biến của nó,
nếu có, chỉ là tương đối và có tính tạm thời. “Giá trị cao nhất của thơ nếu không phải là
đạt tới cái đẹp và cái thực sẽ còn gì để nói nên thơ?”(27) và “Kích thước một nhà thơ là
kích thước thi giới do người ấy sáng tạo”(28).
            
Thật vậy, sáng tạo thi ca là quá trình phức tạp. Như một ngọn nến, thi nhân tự đốt cháy
tâm hồn mới mong thơ tỏa sáng giữa cuộc đời. Vì “thơ là kết tinh, thơ là ngọc đọng, thơ
là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, thơ là hạt minh châu trong biển hạt trai, thơ là
tinh hoa trong vườn phương thảo” (Đông Hồ)(29). Quá trình sáng tạo của nhà thơ là sự
kết tinh của “hồn thơ”. Để sáng tác thi ca ngoài phần kỹ thuật, thi pháp cũng như nội
dung tư tưởng, “còn đòi hỏi một nguyên lý sinh động đó là cái hồn thơ, cái khả năng cảm
hứng và diễn tả của nhà thơ nó làm cho nội dung kết cấu với hình thức và bài thơ có một
sức sống linh diệu” (Nguyễn Sỹ Tế)(30). Và “Những chất thơ có được  trong tác phẩm
đều xuất phát từ một hồn thơ. Hồn thơ là nguồn suối nguyên sinh (gennse) của cái đẹp
nghệ thuật tìm thấy trong một sáng tạo đam mê” (Trần Nhựt Tân)(31).
Với các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, hồn thơ là yếu tố không thể
thiếu trong quá trình sinh thành thơ ca. Nó không những là nguyên nhân, động lực, là
“nỗi niềm tinh vân” dậy lên đam mê và khát khao sáng tạo mà còn là tiếng gọi từ trong
vô thức của người thơ. “Chất thơ thường hướng về tác phẩm, tức là ngoại giới, hồn thơ là
dư vang chưa thành hình còn đang ở trong trạng thái tiềm thế, đồng hóa với mỹ cảm
sống động trong tâm hồn thi sĩ” (Trần Nhựt Tân)(32). Không những thế, hồn thơ còn là
“tiếng gọi” huyền nhiệm tạo mỹ cảm cho người đọc trong quá trình tiếp nhận, như Hồ
Hoàng Lạp khẳng định “Đọc một bài thơ điều làm tôi cảm hay không ở bài thơ chính là
cái hồn của bài thơ đó toát ra sau những giòng chữ. Một chút sương khói thơ lảng đảng
bay lên cao, chập chờn cảnh vật, lung linh hình bóng”(33). Rõ ràng, một bài thơ hay
phải ẩn chứa một hồn thơ lung linh sau những dòng chữ. Nên hồn thơ không chỉ là nội
lực tạo xúc cảm cho thi nhân trong quá trình sáng tạo, là sự mời gọi nguồn mỹ cảm nơi
người đọc, mà theo Trần Nhựt Tân còn là xu hướng của cả một trường phái, “Hồn thơ
vừa là mẫu số chung cho toàn thể tác phẩm của một thi sĩ, vừa là đơn vị sáng tạo của
một thi sĩ đối với các thi sĩ khác , kể cả  những thi sĩ cùng một thời đại, một khuynh
hướng chịu chung một ảnh hưởng (đôi khi) cả trong cùng một trường phái”(34).
 
3. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ
 
“Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson). Đó là thứ ngôn ngữ được
chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức chặt
chẽ tinh tế của ngôn ngữ”(35). Vì vậy với các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền
Nam, ngôn ngữ thơ là một phương tiện hình thức luôn được coi trọng, ngôn ngữ luôn là
một giá trị không thể phủ nhận trong yếu tính thơ, vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của
ngôn ngữ” (Nguyễn Quốc Trụ)(36). Và “ngôn ngữ thi ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa
giữa ngôn ngữ và tư tưởng và nhiệm vụ của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm màu kỳ
diệu ấy” (Phú Hưng)(37). Đây mới thực sự là yếu tố làm nên giá trị thơ ca. Tư tưởng
trong ngôn ngữ thơ như một chiếc dây diều vừa đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong
bầu trời của thực và mộng vừa neo thơ lại với bầu khí quyển đời sống. Ngôn ngữ thơ
theo Phú Hưng “không phải là một thứ ngôn ngữ xác ve sau mùa hè đã im bặt tiếng kêu
mà đó là một thứ ngôn ngữ không ngừng biến sinh mãnh liệt”(38). Song ngôn ngữ trong
thơ không phải là ngôn ngữ nguyên sinh của đời sống. Đó là ngôn ngữ có giá trị tạo
nghĩa, là một thứ “bóng chữ”. Nó có một “ma lực” riêng, nhiều khi vượt thoát khỏi ý thức
của người cầm bút để trở thành một thứ ám ảnh của vô thức. Như một “tiếng chim gọi
đàn”, nó tràn ra ngòi bút của thi nhân và phóng chiếu thành những cảm hứng sáng tạo.
Ngôn ngữ thơ vì thế “không những khác biệt ngôn ngữ nhật dụng, nó còn biệt lập với
người cầm bút, nó còn khả năng tự tồn, sinh sôi, nẩy nở “Chữ đẻ ra chữ và ra nghĩa”
(Bùi Hữu Sủng)(39). Ngôn ngữ luôn có khả năng tạo nghĩa và luôn biến sinh theo sự
biến sinh của đời sống xã hội. Lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam không những
coi trọng vai trò của ngôn ngữ, một yếu tố hình thức góp phần tạo nên giá trị của thơ,
mà còn đề cao ý thức trách nhiệm của nhà thơ trong việc sáng tạo ngôn ngữ. Theo họ,
nhà thơ phải là người làm mới ngôn ngữ để thơ luôn tạo nên những rung động mới mẻ từ
phía người tiếp nhận vì “mỗi thời đại có một ngôn ngữ thơ riêng” (Thanh Tâm Tuyền)
(40) và “nhiệm vụ trọng yếu của thi sĩ là tìm một ngôn ngữ mới làm thỏa mãn người
đọc” (Lê Huy Oanh)(41).
 
Sáng tạo nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng không bao giờ chấp nhận sự lặp lại,
dẫu là lặp lại chính mình. Mọi sự lặp lại trong sáng tạo nghệ thuật đều đồng nghĩa với tự
đào thải. Không thể có con đường mòn cho mọi sáng tạo. Qui luật phủ định trong sáng
tạo nghệ thuật luôn là một hệ giá trị. Người nghệ sĩ có dũng cảm vác cây thập giá đầy
khổ ải trong suốt hành trình sáng tạo thì mới mong tồn sinh trong lòng người đọc. Đây là
yêu cầu khắc nghiệt với thi nhân. Bởi thế, lý luận phê bình văn học ở miền Nam luôn đề
cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ trong đó có sáng tạo về ngôn ngữ, như Tô Thùy Yên
quan niệm "Nhiệm vụ người làm thơ là bơm chất máu của sự sống thời đại vào ngôn ngữ
có vẻ đã khô héo”(42).
 
Sáng tạo thơ, nếu nói không cực đoan, là sáng tạo ngôn ngữ, làm mới ngôn ngữ. Đây là
một trong những yếu tố góp phần tạo nên phong cách nhà thơ. Ngôn ngữ thơ không bao
giờ là con chữ vô hồn mà là hiện thân của tư tưởng, tình cảm, là mối tương giao giữa
nhà thơ với người đọc, là sự khẳng định phẩm chất thi nhân của nhà thơ giữa cuộc đời.
Vì “ngôn ngữ thơ tự nó đã có một giá trị nhiệm màu trong sự truyền đạt cảm thông”
(Cao Thế Dung)(43). Với sứ mệnh “cao trọng hóa tiếng nói của con người”, nhà thơ có
phong cách phải sáng tạo ra một “tiếng nói riêng”, “một giọng điệu riêng”, một lối dùng
chữ riêng trong thế giới nghệ thuật của mình. Đây cũng là quan niệm của Duy Thanh,
“Nhà thơ độc đáo đều có một ngôn ngữ riêng. Chính là cái rung cảm trước thời đại biểu
diễn qua lối nhìn bằng tiếng nói của hắn”(44). Mỗi nhà thơ đều dùng chất liệu ngôn ngữ
như một công cụ sáng tạo. Và thơ bao giờ cũng vươn tới cái đẹp, đồng hành với cái đẹp.
Vì thế trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn học miền Nam, ngôn ngữ thơ
không chỉ chứa đựng tư tưởng mà còn biểu hiện cái đẹp của thi ca, là sự thức nhận mỹ
cảm nơi người đọc. Bởi “Ngôn ngữ thi ca là một ngôn ngữ có nội dung phản ảnh được dư
vang nghệ thuật” (Trần Nhựt Tân)(45). Ngôn ngữ thi ca, vì thế là một giá trị góp phần
tạo nên sự hằng sống của thơ. “Thơ không phải là một mớ lý thuyết mà là một thực thể
ngôn ngữ, vấn đề chính vẫn là ngôn ngữ ấy thực thể ra sao?”( Đặng Tiến) (46). Và thơ
ca ám ảnh người đọc phải chăng cũng vì vẻ đẹp toát ra từ “thực thể ngôn ngữ” ấy. Vũ
trụ tâm hồn thi nhân có hòa điệu với tâm hồn người đọc không, có “tri âm” với người tiếp
nhận hay không, tất cả phải thông qua chiếc cầu ngôn ngữ, nói như Bùi Giáng “thi ca
vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống”(47). Ngôn ngữ thơ
bao giờ cũng là hóa công của người nghệ sĩ. Mỗi chữ trong thơ đều là sự vang vọng từ
tâm hồn thi nhân.Vì “Thực chất của thơ là cái linh hồn, là sự sống của những chữ ta
dùng. Làm văn xuôi, chữ không có sức mạnh ma quái như vậy (…) thi nhân là một thần
linh nói một thứ chữ riêng mà thế nhân phải diễn tả dài dòng thô lậu”(Nguyên Sa) (48).
Như vậy ngôn ngữ lúc này không còn là con chữ lạnh lùng mà đã có một cuộc sống ở
một thế giới khác do nhà thơ sáng tạo nên, nói như Chế Lan Viên “làm thơ là tạo ra một
hành tinh thứ hai bằng ngôn ngữ”(49). Ở đây ta thấy quan niệm về ngôn ngữ thơ của
các nhà lý luận phê bình văn học miền Nam có những điểm tương đồng với quan niệm
của Chế Lan Viên ở chỗ nhà thơ cũng rất chú trọng đến việc dùng chữ trong thơ, với ông
“trong bài thơ, nhiều khi một chữ cũng rất là quan trọng, hiểu sai hay thay đổi đều
không được”(50). Song quan niệm này lại có phần khác biệt với quan niệm của Xuân
Diệu: “Trong sự sáng tạo của nhà thơ thứ nhất là sáng tạo chất sống, thứ nhì là sáng tạo
chất sống, thứ ba, thứ tư mới đến sáng tạo ngôn ngữ. Và tôi dám nghĩ rằng loại thơ sáng
tạo ngôn ngữ quá tài giỏi cũng chỉ mới là loại thơ thứ nhì”(51). Phải chăng quan niệm
của Xuân Diệu cũng là quan niệm mang tính phổ quát của nền lý luận phê bình văn học
chúng ta một thời đã qua.Ở đó các nhà lý luận phê bình tuy không phủ nhận vai trò của
yếu tố hình thức nghệ thuật trong thơ song cũng chưa thật sự đặt nó vào đúng giá trị.
Không những thế nhiều khi trong sáng tác và tiếp nhận, do đề cao yếu tố nội dung tư
tưởng, xem nhẹ yếu tố hình thức nghệ thuật nên làm mờ nhạt khát vọng và khả năng
khám phá, sáng tạo của người nghệ sĩ trong việc cách tân hình thức nghệ thuật. Đây
cũng là điều khác biệt khá cơ bản trong quan niệm về thơ của lý luận phê bình văn học
cách mạng so với lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam thời kỳ 1954-1975.
 
Như vậy, trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, ngôn ngữ
thơ là một phương diện nghệ thuật rất quan trọng. Song không chỉ có ngôn ngữ, hình
ảnh thơ cũng là một yếu tố được chú trọng trong quan niệm thơ của lý luận phê bình văn
học ở đô thị miền Nam. Hình ảnh thơ bao giờ cũng là sự kết tinh của việc sử dụng ngôn
ngữ. Vì thế hình ảnh thơ luôn có ý nghĩa trong việc tạo hiệu ứng nghệ thuật. Và đến lượt
mình, hình ảnh cũng là yếu tố góp phần khẳng định sự hiện hữu của thơ. Vì “Thơ là biểu
tượng, là hình ảnh. Thơ tạo dựng một vũ trụ qua trung gian biểu tượng một vũ trụ phi
thực, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa trong tính cách phi thực của nó. Hơn đâu hết , biểu tượng
hình ảnh là điều kiện của thơ ,lý do tồn tại của thơ, biểu tượng chính của thơ”(Huỳnh
Phan Anh)(52). Như vậy dù là tiếng vọng từ tâm linh, là tiếng gọi từ trong vô thức thì
thơ cũng phải tồn sinh dựa vào nhiều phương thức biểu hiện, trong đó không thể không
có ngôn ngữ và hình ảnh - những thi liệu đầu tiên mà người đọc chạm tới trước khi bước
vào khám phá thế giới mộng mị và hư ảo của thơ. “Thơ là vũ trụ những hình ảnh có giá
trị một sự mê hoặc, một thứ ma thuật. Nó biến thành hình ảnh của chính hình ảnh”(53).
Nhưng “Thơ không là thực tại, không là tổng số những hình ảnh xác định một thực tại rõ
ràng. Nó là một ước muốn hơn thế nữa là một đam mê mù quáng cũng nên”( Huỳnh
Phan Anh)(54). Rõ ràng, hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà
chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, có tính hàm súc, tạo hiệu ứng
nghệ thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập ngôn và cá tính sáng tạo của người
nghệ sĩ. “Văn ảnh là một lập ngôn mà chất thơ cô đọng đủ để có một khả năng truyền
cảm mãnh liệt khiến ta không những phóng mình vào cái đẹp mà còn băng mình vào hố
thẳm» ( Trần Nhựt Tân)(55).
 
4. Quan niệm về nhạc tính và âm điệu trong thơ
 
Cùng với ngôn ngữ và hình ảnh, nhạc tính và âm điệu trong thơ cũng là một yếu tố thi
pháp được các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam đề cập khá nhiều trong
quan niệm thơ của mình. Theo họ, “Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính
thơ trở thành văn xuôi”(Bằng Giang)(56). Bởi nhạc tính như một nét duyên thầm làm
nên vẻ đẹp của thơ, cũng là một yếu tố tạo mỹ cảm cho người đọc. “Ly khai với nhạc
tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên”(Tam Ích)(57). Và “Thơ là sự phối
hợp của âm thanh”(58).Thơ bao giờ cũng là sự kết hợp hài hòa giữa ý và nhạc. Nếu “rơi
vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm
say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên)(59). Rõ ràng, nhạc tính là tiếng nói
linh diệu của thi ca, gợi thức trí tưởng tượng của người đọc,  nói như La Fontaine “Chẳng
có thơ nào không có nhạc, song chẳng có thơ nào không có tưởng tượng”(60).
 
Là một yếu tố không thể thiếu trong thơ, nhạc được tạo nên từ cách dùng ngôn ngữ,
cách gieo vần, phối thanh... Nếu ngôn ngữ và hình ảnh là những yếu tố song hành thì
âm điệu cũng là yếu tố đồng hành với tính nhạc. Nói một cách hình ảnh, nếu ngôn ngữ là
sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân lên từ sợi dây
đàn ấy, “âm điệu là bố cục của tiết nhịp” mà “nhạc tính là dây giao cảm của từng yếu tố
trong toàn bộ bố cục ấy”(Trần Nhựt Tân)(61). Vì vậy trong quan niệm lý luận phê bình
văn học ở đô thị miền Nam, âm điệu cũng là một yếu tố hình thức nghệ thuật quan trọng
trong thơ. Việc kiến tạo âm điệu trong thơ cũng chính là kiến tạo nhạc tính. Và âm điệu
cũng là chiếc cầu nối thơ với người đọc, nói như Trần Nhựt Tân “âm điệu là một cảm
nghiệm thi tánh như một sinh khí hội thoại của thơ với người thưởng lãm” (Trần Nhựt
Tân)(62). Và như thế thi nhân chính là «tạo hóa đã xây dựng nên một thế giới âm thanh
thiên lại, đã tạo nên một bầu trời hương khói lung linh vần điệu u huyền» (Đông Hồ)
(63), để dẫn dụ người đọc đi vào thế giới màu nhiệm của thơ ca.
 
Quan niệm về ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu và nhạc tính trong thơ của lý luận phê bình
văn học ở đô thị miền Nam cũng tương hợp với quan niệm thơ phương Tây và quan niệm
thơ ca truyền thống của dân tộc. Bởi đây là những hằng số giá trị của thơ ca. Nhưng thơ
vẫn còn những ẩn số khác mà con người phải khám phá trong quá trình tìm đến bản thể
thơ. “Thơ là vần điệu. Thơ là ý nghĩa tác động lên tâm hồn người đọc. Thơ là ẩn dụ nhằm
gây rung động hay cảm xúc.Hay thơ là ngôn ngữ thơ, chỉ có vậy” (Huỳnh Phan Anh)(64).
Thơ mãi là một thế giới đầy bí ẩn mà khi giải mã, không  phải lúc nào cũng có sự thống
nhất; ngay cả trong quan niệm về việc chú giải, phê bình.
 

You might also like