Professional Documents
Culture Documents
1.Triệu chứng lâm sàng : ung thư tế bào gai luôn luôn xuất hiện trên
những thương tổn đã có từ trước, nhất là trên nhóm bệnh da tiền ung thư (Bowen,
Paget), hiếm hơn là trên những vùng da có sẹo, viêm mạn hoặc dày sừng ở người
già (kératose sénile). Bệnh xuất hiện tự nhiên, sau sang chấn nhiều lần lặp đi lặp
lại hoặc sau khi điều trị không thích hợp.Thương tổn lớn lên, lan rộng ra, lớp sừng
dày lên, trên bề mặt bị loét, thâm nhiễm sâu xuống dưới , bờ nổi cao lên (những nụ
thịt), có quầng đỏ bao bọc xung quanh, có khi xuất hiện dạng như nhú sừng
(papillome corné).
1.1. Ung thư tế bào gai loét xùi: là hình dạng lâm sàng hay gặp nhất .
U lồi cao hơn, to hơn và cùng một lúc ăn sâu, thâm nhiễm hơn, gắn vào
trung bì. Bề mặt khối u không đều , vừa có nhiều nụ thịt, vừa loét , loét đôi khi rất
nhiều, độ lớn và bờ rất thay đổi, đáy không đều thành vòm, ít hoặc nhiều xùi và
chảy máu, bờ dày cứng và bị lật cong ra,sờ vào thấy bờ cứng chắc thâm nhiễm
xuống dưới quá cả giới hạn của thương tổn. Trên bề mặt vết loét rải rác có thể thấy
chấm trắng màu sữa, khi ấn vào đùn ra những khối nhỏ màu trắng như một nhân
do tế bào loét bị ung thư sừng hoá, nhận thấy rõ khi chiếu ánh sáng Wood. Một vài
trường hợp khối u có dạng hình bán cầu , vết loét ở giữa có một bờ xung quanh
+ U đỏ hoặc hồng, kích thước bằng hạt đậu tròn, cứng giới hạn không rõ,
giống như dạng u của ung thư tế bào đáy, nhưng khác vì ở bờ có những vảy tiết
+ Khối u màu trắng hồng gồm những thuỳ nhỏ liên kết với nhau, thường
xuất hiện trên những tổn thương viêm mạn tính như lao da, loét cẳng chân, sẹo
bỏng...
1.3. Ung thư tế bào gai nông: ít gặp, giống ung thư tế bào đáy nông; chỉ
2.Tiến triển .
+ Ung thư tế bào gai có một khuynh hướng lan rộng và xâm lấn hệ thống
bạch huyết, xâm lấn vào tổ chức lân cận, loét phá huỷ phần mềm, sụn xương,
mạch máu lớn và các dây thần kinh , nhiễm khuẩn phụ.
+ Di căn hạch xuất hiện sau một thời gian, thay đổi tuỳ trường hợp làm cho
+ Di căn nội tạng hiếm gặp, thường thấy di căn ở phổi , gan, di căn ở xương
ít gặp hơn (gặp trong ung thư tế bào gai dương vật, âm hộ hoặc đầu, cổ).
Dựa vào lâm sàng và mô bệnh học: ung thư tế bào gai điển hình là tế bào
hình đa giác giới hạn rõ, nhiều nguyên sinh chất, nhiều ty lạp thể, nhiều tổ chức
sợi. Có một, hai nhân bắt mầu rõ và có mảng nhiễm sắc. Các tế bào u xếp chồng
chất lên nhau tạo thành dạng tế bào lát nối với nhau bằng cầu nối liên bào.
- Như bớt xùi , liken sừng, hạt cơm mỡ, hạt cơm thông thường có chân, các
Brôm.
+ Cắt bỏ bằng phẫu thuật theo hình elip hay hình thoi.
Những tổn thương ở vành tai, trán, má đều làm phẫu thuật cắt bỏ (những
chỉ định cơ bản là: khi kích thước trung bình hoặc lớn phải cắt bỏ cách bờ 4
+ Dùng laser: áp dụng đối với khối u ở thân mình có kết quả tốt và không
để lại sẹo.
+ Những tổn thương nhiều và rộng dùng hoá trị liệu tại chỗ: retinoide hoặc
5-fluoro- Uracile hoặc tiêm tại chỗ vào trong thương tổn interferon- a (alpha) và
interferon d ( gamma).
+ Ung thư tế bào gai có thể dùng phóng xạ, quang tuyến liệu pháp ( tia X,
tia radium ) chỉ định trong thương tổn rộng mà phẫu thuật không cắt hết được.
Kỹ thuật cổ điển là quang tuyến X nông lọc ít hoặc không lọc, điện thế 80-
100KV.
- Nếu phẫu thuật rồi điều trị quang tuyến : chỉ sử dụng liều độc nhất 1500-
2000 r .
Nếu đơn thuần điều trị quang tuyến: điều trị kéo dài ( mỗi tuần một lần) ,
tổng liều 3000 r/ 3 - 4 lần. Nếu diện tích nhỏ dùng máy Chaoul điện thế 50- 60 KV
khoảng cách ngắn. Nếu kích thước nhỏ hơn nữa dùng tia Bucky điện thế 12 KV.
Các trường hợp ung thư tế bào gai rộng, thâm nhiễm, bề mặt xùi to cần điện
thế cao hơn 200 KV, điều trị bằng nhiều đợt, mỗi đợt 3 lần chiếu, một tuần một
+ Dùng chất đồng vị phóng xạ coban: dùng kim có chất đồng vị phóng xạ
+ Với u vừa phải dùng bôi các dung dịch: podophyllin 25- 30% hoặc
colchicine 1%, bôi nhiều lần ( hay dùng cho người cao tuổi).