Professional Documents
Culture Documents
3. Nắm được tầm quan trọng của thương tổn căn bản,cách sắp xếp và phân bố thương
tổn trong chẩn đoán các bệnh về da.
I. ĐẠI CƯƠNG
Trong thời đại y học phát triển các xét nghiệm cận lâm sàng ngày càng được
quan tâm. Nhưng đối với bệnh da liễu thì việc khám thực thể da vẫn là phần quan trọng.
Khám lâm sàng trong bệnh da chính là tìm và đọc thương tổn căn bản(TTCB),cách sắp
xếp và phân bố thương tổn trên cơ thể.
Như vậy TTCB là thương tổn ngoài da mới xuất hiện hoặc xuất hiện đã lâu
nhưng đặc tính của nó vẫn còn giữ nguyên vẹn chưa trãi qua diễn biến tự nhiên của
bệnh hoặc chưa bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như thuốc bôi, cào gãi, bội nhiễm.
(còn được gọi là tổn thương nguyên phát)
Bên cạnh nhóm tổn thương căn bản thì còn có nhóm tổn thương xuất hiện ở giai
đoạn muộn, xuất hiện khi bệnh đang diễn tiến nhưng đã bị biến dạng do cào gãi, do bôi
thuốc hoặc do bội nhiễm.
1.6 CỦ (Tubercule):Thương tổn tương tự như sẩn nhưng thâm nhiễm sâu ở phần
bì. Biến mất để lại sẹo.Củ có thể nhô cao hơn mặt da hay bằng với mặt da.
1.7 CỤC (nodule) :Thương tổn là thể đặc nằm sâu trong hạ bì và lớp bì,giới hạn
rõ, thường hình tròn hay hình trứng, thường phát hiện bằng cách sờ nắn hơn là nhìn.
Đối với cục có tính chất viêm gọi là gôm.Ví dụ : nấm sâu, hồng ban nút,giang mai…
1.8 SÙI (végétation): Cấu tạo bởi các nhú bì phát triển thành một khối nhô cao,
có giới hạn rõ. Bề mặt sùi có phủ một lớp thượng bì mỏng Ví dụ : sùi mào gà.
1.9 SẨN SỪNG( Verrucosite):Thương tổn sùi có bề mặt hóa sừng. ví dụ như
mụn cóc
1.10 NANG (kyste):Là túi chứa dịch lỏng hình tròn hoặc bầu dục.khi sờ nắn có
cảm giác lình bình như khi ấn vô nhãn cầu.Ví dụ: nang bã
Ngoài những thương tổn trên, còn có những thương tổn khác như : vết loét (săng
hạ cam, ap-tơ) , vết trợt ( săng giang mai 1,…)
2.1 VẢY(squame) : Là những phiến thượng bì mỏng tróc trên bề mặt da.Vảy có
thể mịn như cám (lang ben, vảy phấn hồng Gibert), hoặc thành miếng (vảy nến)
2.2 VẢY TIẾT HAY MÀI (croute) : Là sự đông đặc lại của chất dịch huyết
thanh, mủ hay máu trên bề mặt của da. Mài có thể mỏng hoặc dày. Tùy theo nguyên
nhân mà vảy tiết có màu khác nhau: vàng(huyết thanh), vàng xanh(mủ), đen(máu).Ví
dụ : chàm cấp, chốc, thủy đậu…
2.3 VẾT XƯỚC ( excoriation )Là vết trầy nông của thượng bì có thể thành
đường dài hay đám nhỏ do cào gãi. Thường gặp trong chàm thể tạng,ghẻ ngứa,..
2.4 VẾT NỨT(Fissure): Là sự phân cắt thành đường của da nhưng không tách
rời.Vd: nút gót chân, chàm đầu chi
2.5 VẾT LỞ HAY TRỢT(Erosion) Chỉ mất một phần lớp thượng bì, hoặc một
phần niêm mạc. rất nông màu đỏ, rỉ dịch huyết thanh, khi lành không để lại sẹo.Ví dụ:
săng giang mai
2.6 VẾT LOÉT(ulceration) Da bị mất đến tận lớp bì nên khi lành để lại sẹoĐây
vừa là thương tổn nguyên phát vừa là thương tổn thứ phát.Ví dụ : loét lổ đáo, loét sâu
quảng
2.7 LICHEN HÓA : Do gãi, cọ xát thường xuyên .Da dày lên có màu nâu, có
các đường rãnh ngang dọc nằm sâu vẽ thành ô không đều.Ví dụ : chàm mãn.
2.8 CỨNG DA:Do lớp bì đặc lại làm mất độ đàn hồi của da.Thường gặp trong
bệnh xơ cứng bì
2.9 TEO DA : Da bị teo lõm xuống do lớp thượng bì hoặc lớp bì bị mỏng đi.có
thể nhìn thấy được tĩnh mạch bên dưới.Ví dụ : lão hóa da, rạn da,…
2.10 SẸO : Sự tạo thành bất thường của lớp mô liên kết dưới da theo sau một tổn
thương da.Ví dụ : phỏng, sẹo mụn, thủy đậu,…Sẹo có thể phì đại do sự phát triển quá
mức của chất tạo keo hoặc có thể teo.
III.VỊ TRÍ CHỌN LỌC CỦA MỘT SỐ THƯƠNG TỔN :
Trứng cá : tổn thương ở vùng tiết bã : cằm, má, trán, ngực trên và lưng trên.
Vảy nến : tổn thương vùng tì đè : cùi chỏ, đầu gối, da đầu, vùng xương
thiêng( xương cùng cụt),…
Ghẻ : tổn thương vùng kẻ ngón tay, ngón chân, cổ tay, nách, rốn, mông, bộ phận
sinh dục,…
Lupus đỏ : tổn thương vùng phơi bày ánh sáng : mặt, cổ, ngực, da đầu, mặt trước
tay, …
Xếp thành hình nhẫn, hình đa cung, vòng tròn : hồng ban đa dạng, nấm da.
V. KẾT LUẬN
Thương tổn căn bản là một yếu tố quan trọng để chẩn đoán bệnh ngoài da. Tuy
nhiên để có được một chẩn đoán chính xác cần phải xem thêm cách sắp xếp các thương
tổn, vị trí và một số đặc điểm khác riêng biệt cho từng bệnh nhân.Vì vậy muốn chẩn
đoán bệnh da một cách đúng đắn và khoa học chúng ta phải phân tích tỉ mỉ các thương
tổn cơ bản.