Professional Documents
Culture Documents
Chuyên đề:
Chẩn đoán phân biệt các tổn thương:
NANG DO RĂNG CANXI HÓA
BƯỚU BIỂU MÔ DO RĂNG CANXI HÓA
BƯỚU DO RĂNG DẠNG TUYẾN
U RĂNG SỢI NGUYÊN BÀO MEN
Phồng xương mặt trong xương hàm trên X-quang thấy hình ảnh thấu quang đơn hốc
giới hạn rõ với một cấu trúc calci hóa nhỏ
Tổn thương thấu quang gây di lệch răng và tiêu ngót chân răng
4. Mô bệnh học
Một tổn thương dạng nang được giới hạn rõ bởi vỏ bao sợi và một lớp biểu mô răng lót
trong lòng nang có độ dày từ 4 đến 10 tế bào. Các tế bào đáy của lớp biểu mô bị phân
cực, có thể có hình khối hoặc hình cột và tương tự như các nguyên bào men. Các tế bào
gai trải qua quá trình sừng hóa về phía lòng nang. Lớp tế bào gai sắp xếp lỏng lẻo giống
như lớp biểu mô vảy phân tầng hoặc có thể có các đặc điểm của lưới hình sao (stellate
reticulum) của u nguyên bào men
Đặc điểm mô bệnh học đặc trưng nhất của nang do răng canxi hoá là thay đổi sự hiện
diện của số lượng “tế bào ma” trong thành phần biểu mô. Các tế bào ma ái toan này là
các tế bào biểu mô bị thay đổi, có đặc điểm là mất nhân nhưng vẫn bảo tồn đường viền cơ
bản của tế bào
Dải biểu mô và các tế bào sắp xếp dạng lưới hình sao
3. Lâm sàng
a. Dịch tễ học:
Hiếm gặp, tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn 10-15 lần so với u nguyên bào men.
Khi xem xét 2412 u do răng và u loạn sinh đúng chỗ (hamartomas), loại
bướu này chỉ chiếm 1%.
Có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến từ 30-60 tuổi. Tuổi trung
bình tại thời điểm chẩn đoán là khoảng 40 tuổi.
Ở nam và nữ đều bị ảnh hưởng như nhau.
b. Vị trí:
Hàm dưới thường bị ảnh hưởng gấp đôi so với hàm trên, trong đó vùng
răng sau là vị trí thường gặp
Khoảng 6% trường hợp xảy ra ở ngoại vi(ngoài xương), thường ở vùng
nướu phía trước.
c. Lâm sàng
Thường không triệu chứng, phát hiện tình cờ khi chụp X quang.
Tổn thương tiến triển chậm, đủ lớn sẽ gây phồng xương, không làm
thay đổi thần kinh cảm giác
Tổn thương ngoại vi ở nướu là khối chắc, không đau.
Tổn thương sưng phồng mặt ngoài – trong, mất đáy hành lang, di lệch răng
4. X-quang
Tổn thương làm phồng xương theo chiều ngoài trong và chiều đứng, bướu có thể thấu
quang đơn hốc hay đa hốc (gọi là hình ảnh bọt xà phòng), thấu quang đơn hốc thường
gặp ở hàm trên; hoặc cũng có khi tổn thương xuất hiện dưới dạng gặm nhấm (moth-
eaten). Ranh giới của bướu với mô xương lành bên cạnh rất thay đổi. Một số có bờ rõ,
viền cản quang, hình vỏ sò; trong khi một số khác có bờ không rõ, bờ là một giao diện lan
toả không thể xác định rõ với xương lành bên cạnh
Hầu hết các tổn thương đều liên quan đến răng ngầm, thường là răng cối lớn hàm dưới.
Hình ảnh X quang cho thấy sự phát triển chân răng của răng liên quan bị gián đoạn và
thường bị tổn thương đẩy di lệch đáng kể. Có thể thấy tổn thương đẩy phân kỳ chân răng
hoặc làm tiêu ngót chân răng
Ở giai đoạn đầu, tổn thương có thể thấu quang hoàn toàn; khi trưởng thành, tổn thương
có hình ảnh thấu quang-cản quang lẫn lộn, với các cấu trúc canxi hóa có các kích thước
và mật độ khác nhau; tuy nhiên cũng có một số khối u lớn hoàn toàn thấu quang; hoặc ở
một số trường hợp, toàn bộ tổn thương cản quang trông giống u xương
b. Vi thể
U không có vỏ bao và có tính thâm nhiễm.
Các tế bào biểu mô đa diện lớn, sắp xếp thành dải hoặc đảo nằm trong mô liên kết
sợi. Tế bào có tế bào chất nhiều, ưa eosin, đường viền tế bào rõ và thường có cầu
nối giữa các tế bào. Nhân nằm ở vị trí trung tâm và thường có một hạt nhân nổi
bật.
Tế bào học có thể gợi ý một quá trình ác tính. Sự đa hình đáng kể của tế bào và hạt
nhân không phải là hiếm. Tế bào có nhân thay đổi đáng kể về kích thước và hình
dạng , nhân tăng sắc thường xuất hiện Có thể thấy các tế bào đa nhân khổng lồ rải
rác. Ở ngoại vi, các tế bào này có thể lan rộng vào các khoảng tủy lân cận, có vẻ
như là thâm nhiễm. Mặc cho tính đa hình này(có thể làm tăng khả năng ác tính),
nhưng hình ảnh phân bào là rất hiếm. Hiếm có sự ghi nhận chuyển đổi ung thư
biểu mô di căn đến các hạch vùng. Các đặc điểm gợi ý chuyển dạng ác tính tiềm
ẩn bao gồm hoạt động phân bào đáng kể, hình ảnh phân bào không điển hình,
xâm lấn thần kinh và lan rộng trong lòng mạch.
Vùng tế bào sáng đôi khi có thể được thấy, gọi là biến thể tế bào sáng. Các tế bào
này âm tính với glycogen. Các trường hợp hiếm hoi chứa chủ yếu các tế bào sáng
với tế bào chất không bào, nhưng phần lớn các khối u này biểu hiện chủ yếu các
vùng tế bào ưa eosin.
Nằm xen kẽ với các tế bào biểu mô và hiện diện trong chất nền xung quanh là chất
ưa eosin bắt màu sáng, đồng nhất có khả năng vôi hoá. Đặc điểm này giúp hỗ trợ
chẩn đoán loại bướu này. Chất ưa eosin này nhuộm dương tính giống như chất
dạng tinh bột (amyloid) khi nhuộm với các thuốc nhuộm đỏ Congo, tím tinh thể
(hay tím gentian), và thioflavin T và đây là một loại protein độc đáo trước đây
chưa được mô tả. Chất này thể hiện tính lưỡng chiết màu xanh táo giống như chất
dạng tinh bột (amyloid), khi nhuộm đỏ Congo. Đôi khi, sự tích tụ trong biểu mô
của chất này tạo ra một mô hình dạng lưới của các đảo tân sinh. Chất giống
amyloid này có thể trải qua sự vôi hóa Liesegang, được đặc trưng bởi các vòng
mỏng đồng tâm, ưa bazơ. Khi đã bị vôi hóa, các chất canxi hoá này thay đổi từ âm
tính sang dương tính mạnh khi nhuộm PAS.
Chất giống như amyloid đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu. Khi đánh giá bằng các
kỹ thuật hóa mô miễn dịch, một số nghiên cứu cho thấy chất này chứa cytokeratin,
ameloblastin, sợi trung gian, thành phần màng đáy hoặc protein liên quan đến men
răng. Trình tự axit amin và phép đo khối phổ đã chỉ ra rằng chất này bao gồm các
sợi nhỏ được tạo thành từ một loại protein độc nhất và chưa được mô tả trước đây.
Việc phát hiện tình cờ các tế bào Langerhans trong bướu biểu mô do răng canxi
hoá đã được báo cáo, nhưng tầm quan trọng của chúng trong vẫn chưa được xác
định.
Đánh giá cẩn thận một số bướu do răng dạng tuyến sẽ thấy rằng có những trường
hợp biểu hiện các ổ bướu biểu mô do răng canxi hoá. Bởi vì bướu do răng dạng
tuyến chứa tiền nguyên bào men, mạng lưới hình sao và tầng trung gian, không có
gì đáng ngạc nhiên khi bướu biểu mô do răng canxi hoá có thể được phát sinh từ
tầng trung gian của bướu nguyên phát. Mặc dù một số trường hợp gần giống đến
90% u Pindborg, những khối u kết hợp này dường như chủ yếu đại diện cho bướu
do răng dạng tuyến và chứng minh bởi sự phân bố tuổi và hoạt động lâm sàng phù
hợp.
Tóm lại, đặc trưng của bướu biểu mô do răng canxi hoá trước tiên và quan trọng
nhất là đặc trưng biểu mô. Chất dạng tinh bột dồi dào, số lượng vôi hoá thay đổi
và tế bào sáng ít gặp.
Các đảo biểu mô đặc trưng gồm các tế bào ưa axit, đa diện và có các cầu nối
liên bào.
Minh họa một bướu do răng dạng tuyến. Trong đó có sự tăng sinh mạnh mẽ trong lòng
nang với các cấu trúc dạng ống trong lớp biểu mô
Các đặc điểm mô học thú vị và độc đáo đã tạo ra một mức độ tranh cãi nhất định
về cách phân loại nó. Các sơ đồ phân loại cũ hơn đã xác định u do răng dạng tuyến
là một tổn thương có nguồn gốc biểu mô tạo răng, và thuật ngữ
adenoameloblastoma đã được áp dụng trước đây. Bằng chứng hiện tại cho thấy
rằng có thể có ngà răng được hình thành trong một số tổn thương này.
c. Lâm sàng
U do răng dạng tuyến tăng trưởng chậm và hoạt động vô hại cùng với đặc điểm tuổi tác
cho thấy rằng đó có thể là u loạn sinh đúng chỗ (hamartoma).
Bệnh nhân thường không có triệu chứng và có thể gây phồng xương hoặc xô lệch răng.
Loại ngoại vi được đặc trưng bởi sưng nướu, không đau.
Bướu do răng dạng tuyến kích thước lớn gây biến dạng mặt
Một vùng thấu quang lớn, giới hạn rõ, ở U do răng dạng tuyến có những đốm
vùng răng nanh-răng cối nhỏ và bên trong cản quang
có một răng nanh.
4. Mô bệnh học
a. Đại thể: Hầu hết u do răng dạng tuyến là những khối nhẵn, tròn và đối xứng. Trên
mặt cắt, bề mặt cắt rắn chắc với những vi nang khu trú, hoặc dạng nang, các tổn
thương dạng nang thường bao gồm cả răng ngầm.
b. Vi thể:
Bướu dạng tuyến do răng là một tổn thương có giới hạn rõ, thường được bao bọc bởi một
lớp vỏ bao sợi dày bên ngoài. Về cơ bản, khi cắt đôi tổn thương, có thể thấy được phần
trung tâm của bướu chủ yếu là dạng đặc hoặc có thể thấy được một vài nhú dạng nang
Các tế bào biểu mô có hai hình thái: tế bào hình thoi xếp như dòng chảy, hình hoa hồng
hay nốt tròn xoáy ốc. Bên trong các cấu trúc này có thể có các chất ưa axit và giống như
là bản sao của màng đáy.
Thứ hai là các tế bào hình hộp/ trụ thường lót các khoang nhỏ dạng ống hay khoang lớn
dạng nang. Các khoang này thực tế là các khối cầu không rõ ràng. Nhân của các tế bào
phân cực sẽ hướng về màng đáy (cách xa lòng của khoang)
Có thể hiện diện các thành phần vôi hóa với số lượng nhiều ít khác nhau, thường dưới
dạng các giọt nước nhỏ.
Bướu do răng dạng tuyến phát sinh từ biểu Tế bào dạng hoa hồng
mô bao chân răng Hertwig có thành phần
mô liên kết dày và lớp biểu mô nang phát
triển trong lòng sang thương.
Các tế bào hình trụ phân cực rõ ràng Tế bào với sự vôi hóa
IV. U răng sợi nguyên bào men (Ameloblastic Fibro-Odontoma)
U răng sợi nguyên bào men được định nghĩa là khối u có các đặc điểm chung của u
nguyên bào men nhưng lại chứa men răng và ngà răng bên trong tổn thương. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng u răng sợi nguyên bào men chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát
triển của u răng (odontoma) và không coi nó là một thể bệnh riêng biệt. Có một điều chắc
chắn rằng các đặc điểm mô bệnh học của u răng đang phát triển có thể trùng lặp đôi chút
với u răng sợi nguyên bào men. Tuy nhiên, có những báo cáo lâm sàng được ghi nhận
đầy đủ về biểu hiện sự tiến triển bệnh làm biến dạng mặt đáng kể và phá hủy xương của u
răng sợi nguyên bào men. Những tổn thương như vậy dương như là một tổn thương tân
sinh thực sự. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa u răng đang phát triển và u răng sợi nguyên
bào men có thể khó chỉ dựa trên các cơ sở mô bệnh học.
− Sự thay đổi trong hệ thống phân loại của WHO:
Bướu có nguồn gốc hỗn hợp (WHO, 2005): u sợi nguyên bào men, u ngà sợi
nguyên bào men, u răng sợi nguyên bào men.
Bướu có nguồn gốc hỗn hợp (WHO, 2017): chỉ còn u sợi nguyên bào men. Vì
u ngà sợi nguyên bào men, u răng sợi nguyên bào men được xem là một giai
đoạn của u răng (Odontoma).
1. Bệnh sinh
U răng sợi nguyên bào men là u lành tính có nguồn gốc từ biểu mô do răng của cơ quan
men và trung mô do răng của tủy răng nguyên thủy 🡪 là một sự phát triển bất thường
trong khi tạo thành mô cứng (men và ngà)
U răng sợi nguyên bào men 🡪 sự hiện diện của ngà và men trong khối u
2. Lâm sàng
Giống với u sợi nguyên bào men và u răng, sang thương chủ yêu gặp ở người trẻ. Hiếm khi
thấy u mới phát triển ở người >25 tuổi. Những u phát triển ở người lớn tuổi thường có từ
trước.
U thường xuất hiện ở vùng răng cối lớn hàm dưới, tuy nhiên cũng có thể xảy ra ở bất kì vị
trí nào ở cả hàm trên và hàm dưới cũng như không có sự khác nhau về giới tính.
U răng sợi nguyên bào men thể hiện là một khối phồng xương, thường phát triển đến một
kích thước tối đa rồi ngừng tăng trưởng, không có triệu chứng và có thể gây tiêu ngót chân
răng, đẩy lệch các răng đang phát triển và làm di lệch kênh răng dưới.
Hình một răng sợi nguyên bào men lớn, thổi phồng
xương hàm trên với nhiều khối cản quang
Khối sưng bên trái Khối sưng ở hành lang hàm dưới bên phải
3. X-quang
Tổn thương biểu hiện hình ảnh thấu quang đơn hốc hoặc đôi khi là đa hốc, giới hạn rõ, có
viền cản quang xung quanh tổn thương. Vật chất canxi hóa bên trong tổn thương có thể
xuất hiện dưới dạng nhiều đốm cản quang nhỏ hoặc có khi là một khối cản quang đặc.
Hầu hết các trường hợp đều liên quan đến răng ngầm, thường xuất hiện ở rìa của tổn
thương, hoặc thân răng của răng ngầm nằm hẳn trong lòng tổn thương
Thường đẩy lệch các răng đang phát triển, tiêu ngót các chân răng và đẩy lệch kênh răng
dưới
Tổn thương thấu – cản quang giới hạn rõ, làm di lệch kênh thần kinh răng dưới,
làm cho R6 mọc ngầm
4. Mô bệnh học
Đặc điểm mô bệnh học của u răng sợi nguyên bào men là sự kết hợp giữa u sợi nguyên
bào men và u răng. Ngoài sự hiện diện của mô giống nhú răng cùng với các dải và đảo
biểu mô như trong u sợi nguyên bào men, còn có các thay đổi do cảm ứng (inductive
change) dẫn đến tạo ngà và men.
Đôi khi, u cho thấy những thay đổi do cảm ứng chỉ giới hạn vào việc tạo ngà. Những
trường hợp này gọi là u ngà sợi nguyên bào men (ameloblastic fibrodentinoma) thực sự
chỉ là một biến thể của u răng sợi nguyên bào men.
Thành phần của răng sợi nguyên bào men gồm cả u răng (mô cứng) lẫn u sợi nguyên bào men (mô mềm)
Hiện diện các đảo và dải biểu mô Ngà và khuôn men
+ sự hình thành mô cứng
5. Chẩn đoán phân biệt:
Khi u răng sợi nguyên bào men biểu hiện với những đặc điểm lâm sàng (tuổi, vị
trí) và hình ảnh X-Quang điển hình cho những tổn thương này, chẩn đoán thường
rõ ràng.
Khi các đặc điểm lâm sàng xuất hiện không điển hình, chẩn đoán phân biệt với u
răng sợi nguyên bào men nên bao gồm u nguyên bào men, u nhầy do răng, nang
thân răng, nang sừng do răng, u hạt tế bào khổng lồ trung tâm và bệnh mô bào
(histiocytosis).
Chẩn đoán phân biệt với u răng sợi nguyên bào men bao gồm những tổn thương có
thấu quang – cản quang, bao gồm u biểu mô do răng canxi hóa, nang do răng
canxi hóa, u răng đang phát triển và u do răng dạng tuyến.
7. Điều trị và tiên lượng:
Vì khối u có vỏ bao và không có cả năng xâm lấn, tổn thương có thể được điều trị
thông qua phẫu thuật bảo tồn như nạo hoặc cắt khối u.
Hiện tượng tái phát từng được ghi nhận trong một số y văn nhưng không phổ biến.
2. X – quang
Nang do Bướu biểu Bướu do U răng sợi nguyên bào
răng canxi mô do răng răng dạng men
hóa canxi hóa tuyến
Giống - Thường là tổn thương đơn hốc, đôi khi đa hốc
- Giới hạn rõ
- Liên quan đến răng ngầm
- Gây tiêu chân răng, di lệch các răng lân cận
Khác Ở giai đoạn Ở giai đoạn Hình ảnh Vật chất canxi hóa bên
đầu, tổn đầu, tổn thấu quang trong tổn thương có thể
thương có thương có không xuất hiện dưới dạng
thể thấu thể thấu đồng nhất nhiều đốm cản quang
quang hoàn quang hoàn có những nhỏ hoặc có khi là một
toàn; khi toàn; khi đốm cản khối cản quang đặc
trưởng trưởng quang
thành, tổn thành, tổn không đều.
thương thương có
phát triển hình ảnh
các cấu thấu
trúc canxi, quang-cản
có hình ảnh quang lẫn
thấu lộn, với các
quang-cản cấu trúc
quang lẫn canxi hóa
lộn có các kích
thước và
mật độ
khác nhau
3. Mô bệnh học
Nang do răng Bướu biểu mô Bướu do răng U răng sợi nguyên
canxi hóa do răng canxi dạng tuyến bào men
hóa
- Có vỏ bao - Các đảo, dải - Có vỏ bao - Các dải và đảo
hoặc tấm rời biểu mô như trong
- Lớp biểu mô - Có thể hiện
rạc của các tế u sợi nguyên bào
răng lót trong diện các thành
bào biểu mô men
lòng nang có phần vôi hóa
độ dày từ 4 đa diện trong với số lượng - Sư hình thành các
đến 10 tế bào mô sợi, có các nhiều ít khác mô cứng như men
cầu nối liên nhau, thường - ngà
- Có thể có các
bào dưới dạng các
đặc điểm của
giọt nước nhỏ.
lưới hình sao - Vòng
Liesegang
- Sự hiện diện
canxi hoá
của “tế bào
ma”
- Mặt không cân xứng theo đường giữa, (P) > (T)
- Sưng nhẹ vùng góc hàm bên phải hàm dưới, không đau, giới hạn không rõ
2. Khám trong miệng
- Khối sưng ở phía sau hàm dưới bên (P), đường kính #4cm, không đỏ, gây phồng
xương.
- Không có dị cảm hoặc mất cảm giác ở vùng này
3. Khám chuyên khoa
- Khám thần kinh:
Chưa phát hiện bất thường
- Khám tim mạch:
Chưa phát hiện bất thường
- Khám hô hấp:
Chưa phát hiện bất thường
- Khám các cơ quan khác: Chưa phát hiện bệnh lý ở các cơ quan khác
VI. CẬN LÂM SÀNG
Biểu mô do răng cho thấy sự biệt hóa của men (mũi tên) và ngà (dấu sao)
- Bệnh nhân nam, 10 tuổi đến khám vì sưng mặt vùng hàm dưới bên (P)
- Khám lâm sàng ghi nhận:
▪ Sưng nhẹ vùng góc hàm bên phải hàm dưới, không đau, giới hạn
không rõ
▪ Khối sưng ở phía sau hàm dưới bên (P), đường kính #4cm, không
▪ Phim toàn cảnh: Tổn thương thấu quang, đơn hốc, bờ rõ, kích thước
4 x 2,5 cm, bên trong rải rác các thành phần cản quang, hủy xương
vỏ