Professional Documents
Culture Documents
Bài mẫu 1
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”
Bánh chưng là một trong những món ăn không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến
xuân về. Từ bao đời nay, bánh chưng đã như một món ăn gắn bó, sum vầy, mang đậm hương vị Tết cổ
truyền dân tộc.
Truyện xưa kể rằng, từ đời Hùng Vương thứ 6, hoàng tử Lang liêu đã được vua cha lựa chọn để truyền
ngôi với món bánh chưng, một thức bánh làm từ lúa gạo, do chính con người làm ra. Bánh chưng thường
đi liền với bánh dày, nếu như bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại hình tượng
trưng cho đất, con người luôn phải biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi sống chúng ta. Bánh chưng bao
gồm những nguyên liệu rất đơn giản: Lá dong dùng để gói bánh, gạo nếp làm vỏ bánh và đỗ xanh, thịt
lợn, hành làm nhân bánh. Để chuẩn bị gói bánh chưng, ta phải chuẩn bị những lá dong với nhiều kích cỡ,
rửa sạch. Gạo nếp và đỗ xanh phải được ngâm sẵn, thịt lợn thái miếng và hành thái lát mỏng. Sau đó đến
công đoạn gói bánh chưng. Ngày trước ông bà ta gói bánh chưng thuần túy bằng tay, nhưng bây giờ
thường có khuôn để gói bánh được vuông vắn và dễ dàng hơn. Đầu tiên là đặt hai chiếc lạt biên dưới
khuôn, sau đó xếp một lớp lá dong vuông vắn lên bốn mép khuôn. Tiếp theo là một lớp gạo nếp. Sau khi
đã đổ gạo nếp lần thứ nhất, ta sẽ cho nhân bánh chưng gồm có đỗ, thịt và hành vào, xan đều ra giữa bánh
rồi lại đổ thêm một lớp gạo nếp nữa. Cuối cùng là gói bánh lại và dùng lạt để cố định bánh cho chắc chắn.
Khi gói bánh ta không nên xê dịch để tránh bị góc lệch. Những chiếc bánh chưng được coi là đạt tiêu
chuẩn khi phần gạo và nhân bánh được nằm vuông vắn trong lớp lá, khi gói bánh chưng, không được cho
lớp lá quá mỏng hay rách bởi nếu vậy khi luộc ruột bánh sẽ bị bung ra ngoài. Sau khi gói xong bánh
chưng, ta cần chuẩn bị một nồi lớn để luộc bánh, thường thì sẽ luộc bánh chưng bằng bếp củi vì mất khá
nhiều thời gian, xếp lần lượt bánh chưng vào nồi sau đó đổ nước vào, để lửa cháy âm ỉ trong khoảng 6-10
tiếng. Bánh chưng cần luộc lâu để chín đều và mềm thơm. Sau khi luộc xong bánh chưng cần được ép cho
vuông vắn. Lúc ấy một chiếc bánh chưng mới hoàn chỉnh.
Bánh chưng thường được dùng để cúng ông bà tổ tiên, mang làm quà biếu tặng mỗi dịp Tết đến xuân về,
vừa gần gũi lại vừa lịch sự. Bóc bánh chưng, màu bánh phải xanh màu lá dong, gạo phải mềm và chín tới
mới ngon. Bánh chưng không cắt bằng dao mà dùng chính lạt gói bánh để cắt rất dễ dàng. Lớp vỏ bánh
dính chặt và thơm mùi gạo nếp, mùi lá dong, đỗ bở tới, quyện với thịt lợn và hành tươi tạo nên một hương
vị độc đáo và riêng biệt. Bánh chưng thường được ăn kèm với hành muối và dưa món,… Những chiếc
bánh chưng trong mâm cơm ngày Tết vừa là món ăn thân thuộc vừa là mong chờ và niềm chúc cho những
điều tốt đẹp trong năm mới sẽ đến với mỗi gia đình.
Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, những món ăn mới và ngon như thế nào có ra đời, vị trí của bánh
chưng trong mỗi dịp lễ trọng đại của dân tộc vẫn không thể thay thế. Món bánh chưng mộc mạc giản dị
mà đầy ý nghĩa, vừa là sự biết ơn với ông cha ta, vừa là nét đẹp văn hóa không thể phai mờ.
Bài 2
Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa
ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ
trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh giầy của Việt Nam.
Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dày hình tròn, màu trắng, tượng trưng
Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông
Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm dành cho Mẹ, bánh dày dương dành cho Cha. Bánh chưng bánh dày là thức ăn trang
trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành
dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc
Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được
thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng
Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm,
không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật
trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn
và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh
thành”.
Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh
thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi. Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải
vị. Lang Lèo chỉ có bánh dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm
bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.
Từ đó, cứ đến Tết nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ
để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.
Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa
gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức
khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến
từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê… Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh
viện ngày nay thường chỉ sử dụng loại thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho
bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như
thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam. Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá
dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng
sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật
kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc; gói lỏng tay, ăn không
ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.
Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc
với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất
ngọt của gạo, thịt, đậu!
Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo
mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế,
người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới
ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đen nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như
thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng
mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta. Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu.
Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các loại
mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay
dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!
Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một
trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam
trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!
Dàn ý bài thuyết minh bánh chưng
I. Mở bài
Dẫn dắt người đọc về chiếc bánh chưng. Ví dụ đây là bánh truyền thống, lâu đời…Hoặc là loại bánh quan
trọng không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền dân tộc.
Hoặc giới thiệu về nguồn gốc xa xưa của bánh chưng. Từ đó liên kết đến vai trò của bánh chưng trong
hiện tại.
II. Thân bài
Nguồn gốc:
Bánh chưng gắn liền với truyền thuyết về Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Lang Liêu dâng bánh để
vua chọn truyền ngôi. Với ý nghĩa thật của bánh chưng, nên vua chua chọn Lang Liêu làm người nối
ngôi.
Bánh chưng còn có trong các sự tích khác như “Bánh chưng, bánh giầy”, “Truyện bánh chưng”.
Đặc điểm bên ngoài:
– Bánh chưng có hình vuông
– Màu xanh của lá
– Bao quanh màu xanh của lá đó là các đường lạt buộc.
Nguyên liệu
– Lớp gói bên ngoài: lá dong rừng tươi (lá riềng hoặc lá chuối), lạt giang (ống cây giang)
– Vỏ bánh: gạo nếp (nếp hương, nếp cái hoa vàng,…),…
– Nhân bánh: đỗ (đậu) xanh, thịt ba rọi hoặc thịt heo nửa nạc nửa mỡ.
– Gia vị: muối, hạt tiêu…
Quy trình làm bánh chưng
Chuẩn bị:
– Tiến hành ngâm nếp trước. Ngâm nếp qua đêm tối thiểu ngâm từ 4 – 5 tiếng.
– Ngâm nếp cùng với lá riềng hoặc lá dứa sẽ giúp nếp thơm. Đậu xanh không vỏ nên được ngâm qua
đêm.
Thực hiện:
– Đổ nếp ra rổ và chờ ráo nước. Rắc 1 đến 2 muỗng muối sau đó hãy dùng tay trộn lên.
– Đậu xanh hãy cùng trộn với muối và tiêu. Ướp thịt ba chỉ cùng với gia vị đó là muối, tiêu, đường.
Gói bánh:
– Dùng khung hình vuông để làm khuôn giúp bánh đẹp hơn.
– Xếp 4 lá dong, đặt 4 lá xuống dưới khuôn sau đó người làm đổ nếp lên trên.
– Rải đều nếp ở 4 góc khuôn còn ở giữa để trống. Cho đậu xanh vào phần giữa, tiếp theo là thịt lên, sau
đó lớp đậu xanh. Rải nếp lên sau cùng và phủ lại.
– Dùng dây gói bánh. Không nên buộc quá chặt, khi nấu bánh chưng thì bánh còn nở ra.
Luộc bánh
– Xếp bánh vào nồi sau đó hãy đổ nước sao cho ngập bánh. Bánh nhỏ thời gian luộc tầm 5 tiếng, với
chiếc bánh lớn tốn nhiều hơn.
– Chúng ta còn có thể dùng nồi áp suất, giảm đi thời gian luộc. Khi nồi luộc cạn thì châm thêm nước vào.
Khi luộc bánh nửa thời gian hãy trở bánh lại.
– Khi nào bánh chín, hãy vớt ra cho bánh vào nồi nước lạnh ngâm 15 – 20 phút. Vớt ra rôi dùng vật nặng
đè giúp ép nước ra ngoài.
Ý nghĩa
– Bánh chưng là nét đẹp truyền thống phải có trong ngày Tết của người Việt, ngày giỗ tổ Hùng Vương.
– Tinh hoa ẩm thực truyền thống của Việt Nam.
– Bánh chưng còn giúp tôn vinh sự cống hiến của nền nông nghiệp cho sự no ấm, phát triển của dân tộc.
Đề 1: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở địa phương em.
Dàn ý:
a/ Mở bài: giới thiệu về DTLS –DLT
Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Dâu là một viên ngọc quý. Xây dựng từ những năm đầu công nguyên
chùa dâu lại mang 1 giá trị đặc biệt của trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiên ở nước ta.
b/ Thân bài:
1/ Vị tri địa lý:
- Chùa Dâu nay thuộc xã Thanh Khương, huyện thuận thành tỉnh bắc ninh xưa thuộc Tống
Khương , huyện Luy Lâu quận Giao Chỉ
- Quá trình xây dựng tu tạo
+ Khoảng đầu công nguyên một số nhà sư từ Ấn Độ đi theo đường biển vào Luy Lâu để truyền đạo.
Nhanh chóng chùa đã trở thành một trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiên để từu đây lan rộng sang Lạc
Dương( Trung QUốc) và một số nơi khác
+ Ban đầu chùa Dâu chỉ là một cái am nhỏ, sau phát triển thành một ngôi chùa với tên dọi đầu tiên là Cổ
Châu tự ( nghĩa là một viên ngọc quý)
+ Đến thế kỉ thứ II sau công nguyên khoảng 187-226 thời Sỹ Nhiếp hệ tư pháp được ra đời chùa Dâu thời
bà Pháp Vân nên gọi là Pháp vân tự. Vào thế kỉ XIV (1313) có thể nói đây là một đợt hưng công lớn nhất.
+ Dưới đời vua Trần Nhân Tông, trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã cho xây lên chùa to lớn như ngày nay.
Chùa có hàng trăm gian, việc làm ấy của ông cha thời xưa đã thể hiện ý thức dân tộc, sự tôn trọng đề cao
văn hóa bản sắc dân tộc.
- Đặc điểm cảnh quan biến trúc:
+ Quan trọng nhất là tháp Hòa Phong, tháp có 9 tầng song trả qua thời gian lịch sử lâu dài nay chỉ còn ba
tầng có chiều cao khoảng 15m. Chân tháp hình vuông trong long tháp có 4 bệ gạch bốn bên, trên mỗi bệ
là một tượng bộ pháp bằng gỗ cao 1,6m. Ở hai tầng của tháp có biển đá khắc chữ “ Hòa phong tháp”
+ Tiêu biểu đó là tượng Pháp Vân cao 1m85cm tạo trong thế ngồi ở toàn sen toàn than sơn màu cánh
gián. Với chân dung tai to, long mày cong lá liễu, cổ cao ba ngấn, tay phải dơ 5 ngón tay lên trời, trong
long bàn tay có 1 viên ngọc sáng.Nét thanh thoát mềm mại của bức tượng đã toát lên vẻ nhân từ,độ lượng
của phật thiêng liêng cao quý
+ Ta còn nhận thấy rằng tín ngưỡng phật giáo Ấn Độ………
B, Thân bài:
- Vật liệu bao gồm: Một mảnh bìa cứng dài khoảng có kích thước dài khoảng 20 cm, rộng khoảng 15 cm,
giấy màu, kéo, keo dán, dập ghim, hoa khô
- Cách làm:
+Cuộn tấm bìa cứng thành hình trụ có đường kính khoảng 6cm, dùng dập ghim để cố định.
+ Dùng giấy màu cắt hình bông hoa, sau đó dán lên hình trụ trên.
+ Cắt một miếng bìa hình tròn, dùng keo dán gắn thành đế hộp bút.
- Yêu cầu của sản phẩm: Sản phẩm phải đẹp mắt, gọn gàng, trang trí hài hòa.
C, Kết bài:Qua việc tự tay làm nên chiếc hộp đựng bút, mỗi bạn học sinh vừa có thể tận dụng được
những vật liệu bỏ đi để làm nên chiếc hộp bút hữu dụng, vừa cảm thấy thích thú hơn với sản phẩm được
làm theo ý thích của riêng mình.
BÀI LÀM
Trên bàn học của bạn hẳn không thể thiếu một cái ống đựng bút xinh xắn. Nếu mua ngoài hàng thì không
nói làm gì, nhưng nếu bạn tự tay làm nó thì sẽ rất độc đáo đấy.
Để làm được một chiếc ống đựng bút, bạn cần chuẩn bị: Một tấm bìa cứng với kích thước
12 X 20 centimét. Một tấm bìa mỏng. Giấy màu. Keo dán, kéo.
Đầu tiên, bạn hãy lấy tấm bìa cứng, cuốn lại thành hình trụ để làm ống đựng rồi dùng keo dính lại. Đặt
ống đó lên tấm bìa mỏng. Vẽ một hình tròn quanh đáy ống bơ và vẽ hình cây cỏ liền vào hình tròn đó.
Dùng kéo cắt rời hình vừa vẽ. Đặt hình vừa vẽ lên giấy màu xanh lá cây, căn đều và dùng kéo cắt rời, dán
hai phần lại với nhau. Tương tự như hình cây cỏ, bạn có thể vẽ nhiều hình khác theo trí tưởng tượng của
bạn. Phủ giây màu xanh da trời quanh ống, dán lại. Phần hình tròn dán dưới đáy ống, hình cây cỏ phủ gấp
lên trên, cắt một sọc giấy bìa cứng làm thân bông hoa sao cho thân đó cao hơn ống một chút và cắt một
bông hoa đính vào thân. Cuối cùng, đặt bông hoa đính vào đáy ống.
Vậy là chúng ta đã có một ống đựng bút xinh xắn (chiếc ống này phải bền, đẹp và các mối nối phải chắc
chắn). Tương tự như vậy, bạn có thể làm được nhiều ống đựng bút với hình thù và màu sắc khác nhau.
Với chiếc ống này, bạn có thể để những chiếc bút vào đó mà không sợ bị thất lạc.
Cảm nhận về bài thơ "Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu viết bài thơ "Khi con tu hú' vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày "ác mộng" bị cùm trói
trong nhà lao Thừa Thiên. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, tâm trạng nghệ thuật, đồng hiện
qua 10 câu thơ lục bát da diết và ám ảnh. Cái mùa hè hơn 70 năm về trước ấy thật không bao giờ có thể
quên!
1. Tiếng chim tu hú vọng qua song sắt nhà tù hay tiếng chim trong nỗi nhớ, trong hoài niệm?
Chim thì "gọi bầy". Lúa chiêm thì "đương chín". Trái cây thì "ngọt dần". Âm thanh ấy, hương vị ấy thể
hiện nỗi nhớ đồng quê, nhớ làng xóm thân yêu. Chữ "đương chín" và "ngọt dần" gợi tả thời gian đang
lặng lẽ trôi qua. Một giọng thơ bồi hồi tha thiết: "Nghe chim như nhắc tấm lồng thần hôn" (Truyện Kiều):
Giữa chốn ngục tù "lòng sôi rạo rực", người chiến sĩ trẻ nhớ "tiếng ve ngân", nhớ màu "vàng" của bắp,
nhớ màu "đào" của nắng. Cánh sắc đồng quê trong hoài niệm trào lên trong tâm hồn biết bao bình dị, thân
thiết, yêu thương:
Có khao khát sống mới có nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve chứa đầy
tâm trạng. Ve không kêu mà là "ve ngân". Sáu trăm năm về trước, Nguyễn Trãi lấy tiếng ve để nói về
cảnh tình mùa hè:
Sau tiếng ve là màu "vàng" của bắp, là màu "đào" của nắng hiện lên. Chữ "ngân" tả tiếng ve “sôi" lên
và ngân dài trong vườn quê. Chữ "đầy" gợi nắng đẹp, nắng chan hòa, nắng đầy sân, nắng rực rỡ.
Nỗi nhớ trở nên bồi hồi: nhớ bầu trời xanh, nhớ con diều sáo "lộn nhào" giữa cái mênh mông "cao
rộng" của từng không. Hình ảnh con diều "lộn nhào từng không" mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung
hoành và khát vọng tự do:.
Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu. Thơ nên nhạc, nên họa. Ngôn từ trong sáng,
tinh luyện. Mỗi chữ được dùng như được chắt lọc qua
hồn quê và hồn thơ đậm đà: "đương chín", "ngọt dần”, "dậy tiếng ve ngân", "đầy sân nắng đào", "xanh,
rộng, cao", "lộn nhào"...
Trẻ trung và yêu đời, say mê và khao khát sống, khao khát tự do. Nhà thơ đang bị đày đọa trong ngục
tối, nhưng “ tinh thần ở ngoài lao" mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.
2. Giọng thơ từ tha thiết nhớ chuyển thành uất hận sục sôi:
Mùa hè đã đến, mùa hè đang qua. Bao âm thanh đã "dậy bên lòng”, thôi thúc, gịuc giã: "muốn đạp tan
phòng" xà lim chật chội. Không cam chịu cảnh tù đày! Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục
tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ "Ngột làm sao // chết uất thôi" với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc như
nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do! Mở đầu
bài thơ là tiếng chim tu hú "gọi bầy", khép lại bài thơ là tiếng chim tu hú ''ngoài trời cứ kêu". Tiếng chim
vừa gợi nhớ gợi thương, vừa giục giã lên đường chiến đấu.
"Khi con tu hú" là khúc ca tâm tình, là tiếng gọi đàn, hướng về đồng quê và bầu trời tự do với tất cả tình
yêu và niềm khao khát cháy bỏng. Bài thơ ghi lại một nét đẹp bức chân dung tinh thần tự họa của người
thanh niên cộng sản Tố Hữu thuở ấy. Để ta ngưỡng mộ và tin yêu.
Cảm nhận của em về bài thơ ”Đi đường" của Hồ Chí Minh
"Đi đường" là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong "Nhật kí trong tù". Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị
chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải
qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của minh vào bài thơ “Tẩu
lộ" này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát:
Bài thơ mang hàm nghĩa. Tác giả mượn chuyện đi đường- để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó
khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ
vang.
1. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là:
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác".
Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học
đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: "Là
gươm kề tận cổ, súng kề tai - Là thân sống chỉ coi còn một nửa" ("Trâng trối - Tố Hữu). Hình ảnh con
đường được miêu tả bằng điệp ngữ "trùng san" đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi
đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ "cao"', dịch giả đã thêm
vào, người đọc thơ cần biết:
Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm: "hành lộ nan" đã xuất hiện
trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm
sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người "ba mươi năm ấy chân không nghỉ" (Tố Hữu), để tìm
đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có "Núi cao rồi lại núi cao trập
trùng" mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:
Người xưa có nhắc: "Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy" là thế.
2. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện - hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót
(cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:
Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới
giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết
tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học "Đi đường" thật là
vô giá đối với bất cứ ai.
3. "Nhật kí trong tù" có nhiều bài thơ viết về đề tài "đi đường" như "Thế lộ nan", "Tẩu lộ", "Lộ
thượng",... Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt:
Bài thơ "Đi đường" cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt
khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm
năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có
con đường học tập. Bài thơ "Đi đường" trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên
thực hiện ước mơ của mình.
Đề bài: Cảm nghĩ về tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn.
Gợi ý
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác
phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang
tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là
lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.
Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước.
Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng
bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng
triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của
nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam
Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đua ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam
của giạc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.
Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn
khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông
đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt
gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập
cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui
lòng.”
Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những
binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm,
không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền,
đi bộ thì ta cho ngựa”.Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy
gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.
Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai
trái của họ: : “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình
phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê
trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm
tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc
ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức
tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở
lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và
chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.
“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài
yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với
giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, ten tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên
những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.