You are on page 1of 6

Nội dung chính Dẫn chứng

Sông Đà Đá bờ sông  Đá dựng vách thành.


hung  Chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
bạo  Vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.
 Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang
bờ kia.
 Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái
ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Mặt ghềnh Hát  Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió
Lóong cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào
cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm
được qua đấy.

Hút nước  Giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu
 Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn
 Thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Nước ặc ặc lên như
vừa rót dầu sôi vào.
 Thuyền đi ngang qua bị hút nước lôi tuột xuống, bị dìm
và đi ngầm dưới lòng sông mươi phút sau mới thấy tan
xác ở khuỷnh sông dưới.
 Ô tô sang sổ ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
 Anh quay phim táo tợn ngồi trong chiếc thuyền thúng
cho cả thuyền cả máy quay xuống đáy cái hút nước rồi
thu lại hình ảnh cột nước cao vài sải.

Thác nước  Tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên
 Nghe như là oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
 Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng.

Trùng vi thạch  Mở ra năm cửa trận: 4 cửa tử, 1 cửa sinh, cửa sinh nằm
trận 1 lập lờ phía tả ngạn sông.
 Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá
trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng
đội cả thuyền lên.
 Mặt nước hò la vang dậy, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo.
 Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò
đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la
não bạt.
 Đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất.
Trùng vi thạch  Tăng thêm nhiều cửa tử và cửa sinh bố trí lệch qua phía
trận 2 bờ hữu ngạn.
 Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô
ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
 Không ngớt khiêu khích mặc dầu cái thằng đá tướng đã
tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. 

Trùng vi thạch  Bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở
trận 3 ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
 Cổng đá cánh mở cánh khép.

Sông Đà Dòng sông yêu  Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
trữ tình kiều, diễm lệ, tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
duyên dáng, hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
huyền ảo Mèo đốt nương xuân.
 Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước Sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa.

Vẻ đẹp tâm hồn  “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy
thơ mộng nhiêu tình.” (Tản Đà)
 Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau
kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
 Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó
đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân

Vẻ đẹp đượm  Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
màu cổ tích nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
 Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-
lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ -
Yên Bái – Lai Châu.

Cảnh vật ven  Cảnh ven sông ở đây lặng tờ


sông  Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa.
 Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
 Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm.
 Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt song bạc trắng như
bạc rơi thoi.
 Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm
êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò
mình nở chạy buồm vải

Người Lai lịch, ngoại  Gần 70 tuổi, quê ở Lai Châu


lái đò  hình  Thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun.
 Tay lêu nghêu như một cây sào
 Chân khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng
 Giọng nói ào ào như tiếng nước mặt ghềnh.
 Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến
xa xăm nào đó trong sương mù.
Phẩm chất  Làm nghề chở đò dọc đã 10 năm liền.
 Ông xuôi, ông ngược đã hơn 100 lần rồi.
 Nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng
nước của tất cả những con thác hiểm trở.
 Nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá.
 Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên
anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái dấu
chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng.
 Ông đò đã thôi làm nghề nhưng trên ngực vẫn bầm tụ
một củ khoai nâu… đấy là hình ảnh quý giá của một thứ
huân chương siêu hạng

Trong cuộc vượt  Chặng 1: Ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp
thác chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi...tiếng chỉ huy ngắn
gọn, tỉnh táo.
 Chặng 2: Cưỡi lên thác SĐ, phải cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ. Ghì cương lái, lái miết. Tránh mà rảo bơi chèo,
đè sấn lên để chặt đôi ra để mở đường tiến.
 Chặng 3: Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. 
1. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

2. VỢ NHẶT

Nhân vật Dẫn chứng

 Những gia đình lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám
như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ.
 Người chết như ngả rạ...Ba bốn cái thây nằm còng queo bên
đường.
Bối cảnh truyện  Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người.
 Bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng
ma. Tiếng quạ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

Nhân  Đầu trọc, hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai
vật bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vập
Tràng Lai lịch, vạp, cái lưng to rộng như lưng gấu.
ngoại hình,  Hắn vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm những điều hắn nghĩ.
phẩm chất  Được trẻ con trong làng yêu quý: Ðứa túm đằng trước, đứa
túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi.
Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch.

Chuyện  Lần 1: Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! /Lại đây mà đẩy xe
Tràng nhặt bò với anh, nì!
vợ  Lần 2:  Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về. 
 Lúc đầu: cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình
cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. => tặc
lưỡi một cái: Chậc, kệ!
 Trên đường về: phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ
một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, cái mặt cứ vênh
lên tự đắc với mình.
Trên  Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói
đường về thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào tay
nhà kia. 
 Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê
chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe
dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn
bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên.
Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt
Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.

 Về đến nhà: cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
mọc lổn nhổn những búi cỏ dại .
 Đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ.
Khi về đến
Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ.
nhà
 Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình...
Đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư?

 Buổi sáng đầu tiên có vợ: Trong người êm ái lửng lơ như


người vừa ở trong giấc mơ đi ra. 
 Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra,
xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ
 Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của
hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con
đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một
nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn
Buổi sáng phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra
hôm sau  giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà.
 Bữa cơm ngày đói: Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to
lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng
hắn đã bã ra chát xít...
 Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo
đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to
lắm.
 Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phới...

Nhân Lai lịch, Thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái
vật ngoại hình khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
người
vợ nhặt Hành động  Lần 1 gặp Tràng: cong cớn => vùng đứng dậy, ton ton chạy
theo không lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt, cười tít.
 Lần 2 gặp Tràng: sầm sập chạy đến. sưng sỉa =>Hai con mắt
trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: “Ăn thật nhá!
ừ ăn thì ăn sợ gì.” Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm
đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì,
ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: “Hà,
ngon! 

 Trên đường về: cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón
rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ
rón rén, e thẹn.
Trên
 Bị đùa: có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa
đường về
tay lên xóc xóc lại tà áo.
nhà
 Biết người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng
ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. 
 Chia sẻ với Tràng: Hoang nó vừa vừa chứ

 Về đến nhà: đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô
hẳn lên, nén một tiếng thở dài.
 Ngồi mớm xuống mép giường, ngượng nghịu, hai tay ôm
Về đến nhà khư khư cái thúng, mặt bần thần.
 Gặp mẹ: cất tiếng chào: “U đã về ạ!”
 Nói chuyện với mẹ: người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn
khép nép đứng nguyên chỗ cũ.

 Sáng hôm sau: quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn
sạt trên mặt đất.
 Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà
Sáng hôm
hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như
sau
mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.
 Trong bữa cơm: đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con
mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. 

Nhân  Tiếng ho húng hắng, miệng lẩm bẩm, đôi mắt nhấp nháy
Chân dung
vật bà  Dáng người lọng khọng
cụ Tứ
Hôm trước Khi mới về nhà:
 phấp phỏng bước theo con vào trong nhà.
 Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đứng sững
lại giữa sân, hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão
thấy mắt mình nhoèn ra thì phải
Khi hiểu ra cơ sự:
 Bà lão cúi đầu nín lặng. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho
số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh
con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...
 Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước
mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này không?
Chấp nhận nàng dâu mới:
 Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn,
đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
 khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":
“Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng
mừng lòng...”
Suy nghĩ của bà cụ:
 Thở nhẹ ra một hơi dài, nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con
gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ
chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố
mẹ trước kia không?...
 Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót...Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá...
 Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy
xuống ròng ròng.

 người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở.
 Nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước
nhà cửa.
 Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà
Sáng hôm
lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này
sau
 Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói
bốc lên nghi ngút. “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.”; “Cám
đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để”
 Nói về trống thúc thuế: Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão
không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc

 Thấy Tràng dắt theo thị: người trong xóm lạ lắm, nhìn ra bàn
tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần.
 Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ
hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói
Người trong xóm khát, tăm tối ấy của họ.
 Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có
nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Họ cùng nín
lặng.

 Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn
sạch sẽ gọn gàng.
 Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên
Khung cảnh buổi sáng ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong.
hôm sau  Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước
đầy ăm ắp.
 Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

 Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.


 Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một
đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành.
Bữa cơm ngày đói
 Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát
đã hết nhẵn.

You might also like