Professional Documents
Culture Documents
Chương 16 Script
Chương 16 Script
=> Khi các CEO thực hiện dự án và nhận thấy rằng dự án này đang phát triển theo hướng
xấu đi, theo tâm lý e ngại thua lỗ và sự quản lý né tránh và cảm giác hồi tiếc sẽ khiến họ
đeo bám dự án tới cuối cùng một cách mù quáng và dẫn đến lãng phí nhiều chi phí, nhiều
tài nguyên của công ty nhưng không đem lại một kết cục tốt đẹp hơn là bao.
Cho phép các ảnh hưởng tác động đến các lựa chọn, Vậy ảnh hưởng ở đây các bạn
nghĩ là gì?
có nghĩa là cho phép cảm xúc ảnh hưởng đến hành động của nhà quản lý
- Tác động tâm lý có thể ảnh hưởng đến quyết định hoạch định ngân sách vốn hay
không ? Câu hỏi này rất khó chứng minh là những tác động của tâm lý sẽ ảnh hưởng và
ảnh hưởng bao nhiêu đến các quyết định của nhà quản lý. Và để làm rõ hơn, ta sẽ đi xem
xét thí nghiệm của Thomas Kids, Kimberly Moreno và James Smith.
- Nhìn vào kết quả có sự xuất hiện của nhóm kiểm soát
- Nhóm kiểm soát: Ví dụ như là trong một thử nghiệm thuốc mới thì chia ra 2 nhóm: một
nhóm được gọi là nhóm thử nghiệm sẽ sử dụng thuốc thật đang được nghiên cứu và
nhóm còn lại sẽ không nhận được thuốc thật mà chỉ sử dụng thuốc giả dược (nhóm này
được gọi là nhóm kiểm soát hay nhóm đối tượng). Do đó, các đối tượng trong một nhóm
kiểm soát đóng vai trò là công cụ so sánh khi nhà nghiên cứu đánh giá tác dụng của
thuốc. Giúp cho nghiên cứu trở nên chặt chẽ hơn.
- Và trong ví dụ này nhóm kiểm soát được nhắc đến để so sánh với nhóm các CEO
(người bị nghi ngờ có tâm lý quá tự tin)
- 4 kịch bản đầu tiên: số các nhà quản lý chọn kịch bản có tác động trung lập cao hơn hẳn
so với kịch bản có tác động tiêu cực. Những tình huống tiêu cực ở đây là làm việc với
những CEO nổi tiếng, giỏi nhưng hống hách, cực đoan. Các nhà quản lý thường né tránh
tình huống này và chấp nhận nhận lại được sự sụt giảm trong NPV của dự án.
- Phản hồi của nhóm kiểm soát ngược lại hoàn toàn
=> Sự lạc quan quá mức đã dẫn đến việc phát sinh mối quan hệ giữa hoạt động đầu tư và
dòng tiền. => Khi xem xét một lựa chọn, một quyết định, phần lớn các nhà quản lý sẽ để
các yếu tố về tâm lý, về tình cảm xen vào và họ sẽ chấp nhận đánh đổi giữa những yếu tố
này với một mức độ tài chính tương ứng.
Nhất quấn với nghiên cứu trước đó của họ, tác động tâm lí quá tự tin thì lớn
hơn đối với những công ty có nguồn lực nội bộ dồi dào.
Vậy còn đối với phản ứng thị trường, thị trường cũng ý thức được tác động của
nhà quản lí quá tự tin làm biến động nặng nề. Khi thực hiện sáp nhập:
- NQL ít tự tin hơn làm sụt giảm 12 điểm cơ bản.
- NQL tự tin sẽ thổi phồng khả năng quan sát của họ và làm sụt giảm 90 điểm cơ
bản.
Nguyên nhân của sự kiện này là gì?
- Tìm kiếm rủi ro lớn hơn ( Nhà quản lí quan tâm lợi nhuận cao hơn so với rủi ro)
- Vấn đề đại diện (Xung đột lợi ích giữa NQL và CĐ)
Tình hệu lực này cũng được John Doukas và Dimitris Petmezas kiểm tra ở một
vài góc độ.
- Điều tra hoạt động sáp nhập ở UK từ 1980 -2004
- Sử dụng các biến đại diện khác nhau cho tâm lí quá tự tin.
- Phân loại các nhà quản lí là quá tự tin nếu họ hoàn thành ít nhất 5 thương vụ trong
vòng 3 năm
Bên mua quá tự tin nhận được một tssl công bố thấp hơn so với những bên
mua khác.
Thành quả trong dài hạn kém hơn.
4. Khởi nghiệp
Các bạn nghĩ, doanh nghiệp lớn, hay doanh nghiệp nhỏ, thì tỉ lệ thất bại sẽ cao hơn. Dĩ
nhiên là doanh nghiệp nhỏ phải không!
Đúng v, các doanh nghiệp nhỏ thất bại với một tỷ lệ đáng lo ngại. Vì các doanh nghiệp
quy mô càng nhỏ thì mức độ rủi ro phi hệ thống sẽ càng cao – có thể kể đến như: thiếu
khả năng tài chính để duy trì hoạt động, gặp khó khăn trong việc tìm nguồn tài trợ
Như vạy, nếu khởi nghiệp, bạn nghĩ tỉ lệ thành công của công ty bạn là bnhieu ptram
Khảo sát nhỏ khuấy động v thôi. Tiếp đến mình cùng xem xét
Một nghiên cứu của Cooper và Dunkelberg (1998), dữ liệu được lấy từ 2994 doanh nhân
gần đây gia nhập vào thị trường, đã chỉ ra rằng
- 81% tin rằng cơ hội thành công của họ là 70% hoặc cao hơn
- 33% chắc chắn rằng họ sẽ thành công.
Liệu họ có thành công đúng như họ nghĩ. Thực tế thì 75% các doanh nghiệp mới thất
bại trong vòng 5 năm.
Vì đâu mà dẫn đến những kì vọng sai lầm này? Tâm lí quá tự tin, được biểu hiện
thông qua hai hình thái là lạc quan quá mức và hiệu ứng tốt hơn trung bình.
- Lạc quan quá mức: (đánh giá quá cao nhu cầu thị trường) hiện diện khi con
người đánh giá xác suất của các kết quả thuận lợi hoặc bất lợi quá cao hay quá
thấp so với kinh nghiệm quá khứ hoặc những phân tích suy luận. Ở đây, nó khiến
con người nhầm lẫn khi nghĩ rằng thị trường thì đang rất muốn hàng hóa và dịch
vụ của họ. Giống như khi mình có một đôi giày mới, mình nghĩ ai cũng thấy giày
mình đẹp, ai cũng muốn có đôi giày như mình v á.
- Hiệu ứng tốt hơn mức trung bình: (đánh giá bản thân một cách tích cực hơn so
với mức trung bình) là khuynh hướng các cá nhân đánh giá khả năng của họ cao
hơn mức trung bình khi đánh giá một số thuộc tính tích cực của bản thân họ.
Khiến các DN nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh bại đối thủ ngay cả khi cơ hội mở
rộng ngành bị giới hạn (tức là không có nhiều DN khác tham gia vào cạnh tranh).
Trong thị trường tự nhiên, lợi ích gia nhập ngành của những người tham gia sẽ
phụ thuộc vào số lượng người gia nhập thị trường trong một thời kì cụ thể. Lợi
ích càng cao khi có càng ít doanh nghiệp gia nhập vào ngành vì ít có sự cạnh
tranh. Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây là sự tự tin quá mức, có thể dẫn đến sự gia
nhập thị trường quá mức hay không?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu thử nghiệm của Colin Camerer và Dan
Lovallo(1999). Thử nghiệm này đưa ra bằng chức thực nghiệm cmr sự tự tin quá mức
nó có thể dẫn đến sự gia nhập thị trường quá mức. Các chủ thể tham gia phải lựa
chọn, qua nhiều vòng là liệu họ có nên gia nhập thị trường hay không. Mô hình được
tiến hành bằng cách:
- Giả định mức chi phí gia nhập là 10$
- Không gia nhập thị trường, người tham gia sẽ giữ lại phí 10$
- Gia nhập thị trường: rủi ro mất một ít hoặc toàn bộ số phí này đổi lại việc gia nhập
có thể đem lại mức lợi nhuận dương.
Hàm lợi nhuận
Lợi nhuận = [$10/(N-c)] x (c – E)
Trong đó:
- N: người tham gia thử nghiệm
- C: sức chứa của thị trường
- E: số lượng người lựa chọn gia nhập thị trường
Ta cùng đi đến ví dụ để hiểu rõ hơn.
Giả định c=8, N=16
- 4 người lựa chọn gia nhập sẽ kiếm được 5$/người. Mang về tổng $15, là bao gồm
10$ ở mức phí ban đầu. Lợi nhuận toàn ngành là 5x4=20$
- 12 người lựa chọn gia nhập sẽ mất 5$/ người. Lợi nhuận toàn ngành là -5x12=-
60$.
Chúng ta thấy nguyên nhân chính của việc mất tiền này vì số người gia nhập
vượt quá sức chứa thị trường và lợi nhuận toàn ngành lúc này cũng âm. Vậy
chúng ta thấy càng ít hay nhiều người gia nhập thị trường sẽ tốt hơn? Rõ rang là
càng ít càng tốt.
Đó là chưa có yếu tố tuej tin vào mô hình. Camerer và Lovallo thực hiện điều
chỉnh then chốt sau để đưa yếu tố quá tự tin vào trong mô hình này.
1. Lợi nhuận phụ thuộc vào bậc ® của chủ thể, đây là đặc điểm quan trọng nhất vì sự
khác biệt về phần thưởng dựa trên thứ bậc, nó cho phép khả năng tự tin quá mức sẽ
dẫn đến sự gia nhập quá mức xảy ra, chứ không như thử nghiệm lúc ban đầu là tất cả
những người tham gia sẽ kiếm được tiền như nhau. Lát nữa chúng ta sẽ tìm hiểu rõ
hơn phần này.
2. Thứ hạng của chủ thể được xác định bởi phương cách ngẫu nhiên hoặc kĩ năng.
Trong đó kĩ năng được đánh giá sau khi hoàn thành thử nghiệm bằng cách sử dụng cả
những kiểm tra trí não hoặc vấn đáp các vấn đề khác. Giúng như trong đấu giải cầu
long hay đá banh thì chúng ta bốc thăm ra trình tự thi đấu.
3. Các chủ thể trong một vài thử nghiệm đã được thông báo trước rằng thử nghiệm
phụ thuộc vào kĩ năng. Khi được thông báo, các chủ thể có chủ ý tự lựa chọn trong
môi trường này.
4. Các chủ thể dự báo số lượng người gia nhập ở mỗi giai đoạn.
5. Quyết định gia nhập được đưa ra ở 2 vòng với mỗi số vòng là 12 giai đoạn. Với
việc sắp xếp thứ bậc dựa trên kĩ năng tring một vòng và ngẫu nhiên trong vòng còn
lại.
6. Năng lựa thị trường như sau: c=2,4,6,8
Điêu quan trọng cần nhấn mạnh ở đây chính là thứ hạng của chủ thể sẽ không
được xác định cho đến khi kết thúc thử nghiệm. Nghĩa là sao? Nghĩa là sau khi họ
đưa ra các quyết định gia nhập thị trường trong cả 2 điều kiện là thứ hạng được xác
định theo kĩ năng và ngẫu nhiên, sau đó 1 trong 24 giai đoạn sẽ được chọn ngẫu nhiên
để xác định lựa chọn của họ và phản hồi duy nhất mà họ nhận được trong thử nghiệm
này chính là tổng số người gia nhập ở mỗi vòng.
Tiếp theo chúng ta cùng đi vào điều chỉnh thứ nhất là Lợi nhuận phụ thuộc vào bậc ®
của chủ thể.
Những người gia nhập đầu tiên trong phạm vi tính đến c nhận được lợi nhuận là
Lợi nhuận = $50 x [(c +1 – r)/(1+2+…+c)]
Trong đó r=1,2,3…c
Tất cả những người gia nhập với thứ tự thấp hơn c nhận được lợi nhuận là -10$. Vì
các đối tượng đã đặt cược lúc ban đầu là 10$ nên khi gia nhập quá dung lượng thì
trường thì sẽ mất đi cái số tiền đặt cược này.
Nếu E>c+5, lợi nhuận ngành sẽ âm
Ta cùng đi đến ví dụ để hiểu rõ hơn.
Cho c=3, E=12,
Lợi nhuận của ng tham gia
Đầu tiên 1 LN =25
Thứ 2 2 LN= 17
Thứ 3 3 LN= 8,33$
Còn lại 4,5,6…12 LN = -10
Vì E =12> c+5=8 nên lợi nhuận ngành bị âm (-40).
Sau khi tìm hiểu các điều chỉnh để mở rộng mô hình, cùng đi đến vấn đề chính khi
nghiên cứu. Liệu có hay không nhiều sự gia nhập hơn (và lợi nhuận ngành thấp
hơn) khi lợi nhuận của người tham gia được xác định dựa trên kĩ năng?
Chúng ta cùng xem qua kết quả của bảng thử nghiệm
Khi thứ bậc được xác định theo ngẫu nhiên, lợi nhuận ngành là dường trong 74/96 vòng
(77%) 96 vòng là 8 thử nghiệm x12 v. Và chỉ âm trong 6 vòng (6%). Lợi nhuận trung
bình ngành là $16.87. LN TB ngành tính bằng cộng total tất cả các thử nghiệm và chia
cho 96
Khi thứ bậc được xác định theo kỹ năng, ln ngành chỉ dương trong 37 vòng (30%) và âm
trong 41 vòng(44%) tb ngành khi này -1,56.
LN tb ngành khi gia nhập dựa trên kĩ năng sẽ thấp hơn so với ngẫu nhiên.
Điều này hàm ý rằng, sự gia nhập thị trường được tăng thêm khi lợi nhuận được
xác định bằng kĩ năng, đây ln ngành khi gia nhập bằng kĩ năng là âm nè. Nên câu
trl cho câu hỏi khi nãy là có sự gia nhập nhiều hơn khi lợi nhuận được xác định
trên kĩ năng
Lợi nhuận trung bình ngành qua các vòng và điều kiện: chỉ dẫn bth và chỉ dẫn
tự lựa chọn. Khi nãy mình đã nói ở điều chỉnh thứ 3 . Các chủ thể trong một vài thử
nghiệm đã được thông báo trước rằng thử nghiệm phụ thuộc vào kĩ năng. Khi được
thông báo, các chủ thể có chủ ý tự lựa chọn trong môi trường này.
Chỉ dẫn bình thường: Lợi nhuận chênh lệch giữa ngẫu nhiên và kĩ năng là 8.96
Chỉ dẫn tự lựa chọn: Sự chênh lệch này càng được gia tăng, lợi nhuận chệnh lệch giữa
ngẫu nhiên và kĩ năng là 27.92, lớn hơn gấp 3 lần so với chỉ dẫn bình thường.
LN ngành khi gia nhập dựa trên kĩ năng rõ rang sẽ thấp hơn so với ngẫu nhiên ở cả
2 chỉ dẫn có thể được sử dụng ở đây.
Sự gia nhập thị trường được tăng thêm khi lợi nhuận được xác định bởi kĩ nawg.
Dẫn chứng sự tự tin quá mức đối với việc gia nhập và việc tự lựa chọn làm
cho tác động này mạnh hơn.
Sự chênh lệch cao hơn một cách đáng kể trong chỉ dẫn sự lựa chọn được sử dụng
được cho là nhất quán với hiệu ứng thờ ơ với nhóm tham chiếu. Sự thờ ơ nhóm
tham chiếu cho thấy rằng
- Trong cạnh tranh, chứng ta thường ít chú ý đến kĩ năng của những người mà
chúng ta đang cạnh tranh. Hơi khó hiểu ha, ví dụ như là mình tham gia thi hsg
toán, mình luôn nghĩ mình sẽ được giải, lại còn được top 3 cao điểm nhất. Lí do tại
sao, tại mình nghĩ mình giỏi mà ko qtam đối thủ của mình ở trường khác họ giỏi ra
sao. Vấn đề ở đây là các thí sinh tham gia kì thi tuyển chọn này hong phải là ngẫu
nhiên, mà đều là những người có kĩ năng, đó là lí do vì sao họ tham gia thi.
- Nhóm kĩ năng cao hơn tình nguyện tham gia Lơ đi sự thật đối thủ cạnh tranh
khác trong nhóm cũng có thể giỏi hơn về mặt kĩ năng. Đó là lí do vì sao đối tượng
đó cũng ưa thích việc tham gia.
Thờ ơ nhóm tham chiếu sẽ làm cho hiệu ứng quá tự tin trở nên mạnh mẽ hơn
Một lí do khác không thuộc về hành vi có thể giải thích cho việc gia nhập quá mức
vào thị trường là điểm mù cạnh tranh.
- Xu hướng gia nhập vào thị trường cao do đánh giá thấp số lượng đối thủ cạnh
tranh
16.5 Tâm lý quá tự tin trong quản lý có thể có mặt tích cực hay không?
Từ nãy h chúng ta tìm hiểu thì thấy tâm lí quá tự tin trong quản lí này mang lại sự đầu tư
quá mức, nhận dc tssl thấp hơn khi thâu tóm mua lại, hiệu quả dài hạn kém hơn, sự gia
nhập quá mức thị trường và những rủi ro khác…. Thì liệu tâm lí này có những tác dụng
tốt nào hay ko
Tâm lý quá tự tin ở mức trung bình có thể có tác dụng tốt
- Nếu nó dẫn đến sự phấn chấn và nỗ lực tập trung. Trong phạm vi lý thuyết người chủ -
người đại diện (Lý thuyết này nhằm giải thích mối quan hệ kinh tế giữa nhà quản lý và cổ
đông có mục tiêu không đồng nhất với nhau). Nếu tâm lý quá tự tin có thể giúp cho nhà
quản lý tập trung làm việc vì mục tiêu của cổ đông và công ty thì sẽ giảm bớt rủi ro đạo
đức (người quản lý có thể hành động theo lợi ích riêng của họ nhiều hơn so với lợi ích
của người sở hữu) trong lý thuyết người đại diện.
- Tiếp đến, bởi vì các nhà quản lý có thể e ngại rủi ro nhiều hơn so với cổ đông. Tâm lý
quá tự tin có thể trung hòa vấn đề này, dịch chuyển công ty về phía mong muốn hơn. Báo
cáo của Goel (2000) đã xem xét vấn đề này.
- Giúp các nhà quản lý không ngại sử dụng đòn bẩy TC để nắm lấy cơ hội đầu tư. Ngoài
những tác động rõ ràng trên, Dirk Hackbarth đã xây dựng một mô hình mà trong đó các
nhà quản lý không chỉ lạc quan thái quá về triển vọng của công ty, mà còn chắc chắn quá
mức về quan điểm của họ. Mô hình này đề xuất rằng tâm lý quá tự tin trong quan trị có
mối quan hệ thuận chiều với việc phát hành nợ, bởi vì lạc quan về độ biến động dòng tiền
trong tương lai thấp, khó có thể dẫn đến kiệt quệ tài chính và xuất hiện1 niềm tin rằng là
sẽ có rất ít vấn đề phát sinh trong việc chi trả lãi từ nợ vay. Tuy nhiên, bản chất của xu
hướng né tránh nợ là do những lo lắng về công việc bị trung hòa bởi tâm lý quá tự tin.
(như stress, căng thẳng hả ????)
- Cuối cùng, tâm lý quá tự tin có thể không tốt đối với cá nhân nhưng Mang lợi lợi ích về
mặt xã hội, theo Bernardo và Welch 2001 đưa ra lập luận chính: những doanh nhân quá
tự tin ít có khả năng bắt chước các đồng nghiệp của họ, do đó động kinh doanh của doanh
nghiệp có thể cung cấp thông tin có giá trị cho xã hội (không giống những người có tâm
lý bầy đàn (hay tâm lý đám đông) vốn không cung cấp thông gì). Theo khía cạnh này,
tâm lý quá tự tin phục vụ cho mục đích phát triển lâu dài.