You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH


----------

BÀI TẬP LỚN

QUẢN TRỊ CÔNG NGHỆ

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lưu Hữu Văn

Sinh viên thực hiện: Tạ Ngô Thiên Trang


Mã sinh viên: 19051614
Lớp: BSA3070 2

Hà Nội, 6/2022
Câu 1. Trình bày các nội dung Tâm đắc đã học.

Thứ nhất: Mô hình quản trị tinh gọn Made in Vietnam

Qua mô hình quản trị tinh gọn Made in Vietnam, em đã nhận ra yếu tố con người luôn
được đặt lên hàng đầu bởi vì con người là yếu tố cốt lõi, kể cả có máy móc hay công nghệ
thì yếu tố con người vẫn là điểm khởi nguồn xuất phát sáng tạo ra những máy móc hay
công cụ đó. Mô hình này đã bao quát các yếu tố từ an toàn con người cho tới môi trường
xã hội. Tư duy “Quản trị tinh gọn Made in Vietnam” được hiểu một cách khái quát nhất
là tư duy quản trị tạo ra lợi nhuận hoặc giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tổ chức bằng
cách dùng trí tuệ của con người hoặc trí tuệ của tổ chức để cắt giảm tối đa chi phí lãng
phí. Theo đó, chi phí lãng phí tồn tại dưới hai hình thức là chi phí lãng phí vô hình và chi
phí lãng phí hữu hình. Chi phí lãng phí hữu hình phổ biến và khá dễ nhận dạng trong quá
trình sản xuất kinh doanh như dư thừa kho bãi, máy móc thiết bị không sử dụng hết công
suất, lãng phí do sai hỏng,… Còn chi phí lãng phí vô hình là những chi phí lãng phí trong
tư duy như: tầm nhìn, cách thức triển khai công việc, cơ hội phát triển, phương pháp làm
việc,… Điều đó có nghĩa là mỗi người trong tổ chức, doanh nghiệp phải luôn có ý thức
và thái độ tốt đối với công việc của mình trên cơ sở thấu hiểu công việc mà mỗi người
thực hiện là có ích cho chính bản thân, đồng thời thấu hiểu rằng, chỉ có làm thật tốt công
việc mới nâng cao được năng lực tư duy và năng lực làm việc.

Thứ hai: Thay đổi cái nhìn khác về bản chất của vấn đề

Bản thân em đã có cái nhìn sâu sắc hơn về thực tế, thực trạng của vấn đề. Đôi khi chúng
ta chỉ quen nhìn nhận vấn đề theo những lãng phí đang hiện diện mà quên mất còn tiềm
ẩn một lãng phí vô hình khác. Môn học Quản trị công nghệ này đã chạm đến khía cạnh
mà bản thân em còn thiếu sót khi đánh giá một vấn đề bất kì nào đó, từ đó em đã rút ra
được nhiều bài học bổ ích.

Thứ ba: Phát triển và cải thiện những kỹ năng mềm cần thiết

Qua môn học Quản trị công nghệ này, em tự nhận thấy bản thân mình được cải thiện các
kỹ năng mềm như khả năng thuyết trình, nêu quan điểm để trình bày vấn đề hay khả năng
phản biện để bảo vệ ý kiến của mình. Đây đều là những kỹ năng cơ bản và vô cùng cần
thiết cho quá trình học tập và làm việc sau này cho sinh viên.

Thứ tư: Cải thiện kỹ năng làm việc nhóm

Trong quá trình học tập, chúng em có cơ hội được làm việc nhóm khá nhiều, điều này đã
giúp em nhận ra tầm quan trọng của làm việc nhóm và có những bài học về kỹ năng mềm
rất cần thiết này. Lắng nghe là một trong những kỹ năng cơ bản cực kỳ quan trọng không
chỉ với riêng cá nhân nào. Trong môi trường tập thể nói chung hay trong quá trình làm
việc nhóm nói riêng, sự lắng nghe lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Việc không biết lắng
nghe đồng nghĩa với việc các thành viên trong nhóm không có sự tôn trọng, xây dựng ý
kiến với nhau. Lắng nghe cũng thể hiện thái độ quan tâm của các thành viên đối với vấn
đề chung của nhóm. Tôn trọng là một nguyên tắc mang tính bắt buộc của kỹ năng làm
việc nhóm. Tôn trọng người khác chính là tôn trọng bản thân mình. Khi làm việc nhóm,
mọi người cần có sự tôn trọng lẫn nhau. Nếu thiếu đi yếu tố này, nhóm sẽ làm việc không
hiệu quả, dễ tan rã. Đặt mục tiêu chung lên hàng đầu, sự khác biệt giữa làm việc độc lập
và nhóm là cần phải đặt mục tiêu chung lên hàng đầu. Lúc này, mỗi người cần gạt bỏ cái
tôi cá nhân để nghĩ tới mục tiêu chung. Chỉ cần một sai lầm nhỏ cũng có thể ảnh hưởng
tới lợi ích chung. Mạnh dạn bày tỏ quan điểm, trong môi trường làm việc nhóm, mỗi
người cần biết phát huy năng lực của mình và mạnh dạn chia sẻ quan điểm, ý tưởng vì sự
phát triển của nhóm. Đồng thời, khi bày tỏ suy nghĩ của mình, mỗi cá nhân cũng sẽ nhận
được sự góp ý của những thành viên khác.

Thứ năm: Cần chủ động quản lý thời gian và có tính kỷ luật cao

Kỷ luật là những hành động dựa theo kế hoạch, mục tiêu đã đề ra trước đó, bất kể bạn
đang ở trong hoàn cảnh nào và cảm xúc cá nhân ra sao. Trong công việc, tính kỷ luật giúp
chúng ta làm tốt công việc một cách nghiêm túc và có trách nhiệm hơn. Kỷ luật có thể do
bản thân tự đề ra hoặc cũng có thể do quy định trước đó nhằm thống nhất quy trình hoạt
động chung. Tính kỷ luật trong công việc là điều kiện cơ bản và mang tính tiền đề để mỗi
cá nhân trong một tập thể hoàn thành những hạng mục quan trọng. Đồng thời, phẩm chất
này sẽ giúp mỗi người có thể chống lại thói quen xấu, phá tan rào cản cho sự phát triển
của bản thân. Kỷ luật được thể hiện ở: sự tự nhận thức, sự can đảm và quyết tâm, hướng
dẫn bản thân (mỗi khi gặp tình huống khó khăn, hãy tự khuyến khích và trấn an bản thân,
nhắc nhở bản thân về mục tiêu của mình). Để xây dựng được tính kỷ luật cần phải có kế
hoạch làm việc cụ thể, chi tiết từng hạng mục, mốc thời gian, tuân thủ đúng kế hoạch đã
đề ra, đảm bảo đúng tiến độ hoàn thành công việc. Cần có sự quản lý chặt chẽ về thời
gian để sắp xếp các công việc một cách thật hợp lý và khoa học. Cuối cùng, luôn giữ thái
độ lạc quan và suy nghĩ tích cực để có thể hoàn thành tốt công việc đã được đề ra.

Thứ sáu: Sự hài lòng đối với giảng viên phụ trách học phần

Phụ trách bộ môn là TS. Lưu Hữu Văn - giảng viên tiêu biểu của Viện Quản trị Kinh
doanh, có nhiều thành tích trong lĩnh vực nghiên cứu và có nhiều bài báo được đăng trên
các tạp chí quốc tế. Trong suốt 15 tuần giảng dạy, thầy luôn chú ý bám sát đề cương môn
học cũng như giáo trình, từ đó giúp sinh viên có cái nhìn tổng quan nhất về toàn môn học.
Cá nhân thầy cũng từng đi học và làm việc tại nước ngoài nên sẽ có những kiến thức và
chia sẻ thực tế cho sinh viên.

Thứ bảy: Môn học giúp bản thân được tiếp cận sự tiên tiến sớm hơn các sinh viên
trường khác

Ở môn học này, chúng em không chỉ được học về công nghệ hay các phương pháp quản
trị công nghệ thông thường mà còn được học từ trải nghiệm của thầy về cuộc sống khi đi
qua các nước trên thế giới cũng như khát vọng cống hiến tri thức cho xã hội vì một Việt
Nam phát triển. Thầy đã cho bọn em cơ hội được tiếp cận với một môn học vô cùng thú
vị và tiên tiến mà nhiều sinh viên trường khác chưa được đưa vào giảng dạy, được nghe
về mô hình quản trị tinh gọn Made in Viet Nam trong khi nhiều người phải bỏ ra rất nhiều
thời gian và tiền bạc đến các hội thảo mới được tiếp cận. Việc được tiếp cận với môn học
này sớm đã giúp bản thân em trở thành một phiên bản tốt hơn so với trước kia.

Thứ tám: Nâng cao ý thức tự học

Trong quá trình học, thầy không chiếu slide giảng suông mà thường yêu cầu các nhóm
tranh luận để tổng hợp các câu trả lời từ nhiều ý kiến khác nhau, từ đó tìm ra một câu trả
lời đúng đắn và đầy đủ nhất cho câu hỏi của thầy. Do đó, ý thức tự học và sự tự tìm tòi
khám phá kiến thức của bản thân luôn được đề cao. Để có thể học tốt môn này, em đã
luôn tự tìm đọc các bài nghiên cứu trong nước và thế giới để hiểu rõ hơn về vấn đề được
đưa ra của môn học. Sau quá trình học, em tự nhận thấy bản thân đã có nhiều cải thiện
trong ý thức tự học và thêm niềm tin vào việc cho dù có điều gì khó thì mình cũng đều có
thể làm tốt.

Thứ chín: Sự hài lòng về ý nghĩa thực tiễn của bộ môn

Có thể nói bộ môn Quản trị công nghệ đã giúp em trang bị một khối lượng kiến thức cơ
bản, trong điều kiện nâng cao năng lực quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ đối với
doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhất là trước xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. Quản trị công nghệ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ
năng lực của đối thủ và đi trước đối thủ một bước trong đổi mới công nghệ, có các quyết
định chính xác mang tính chiến lược về tài chính và phân phối vốn nhằm tăng cường hiệu
quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp,…

Thứ mười: Những hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ

Mỗi khi có một sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường và thu hút được một tệp khách
hàng lớn, không sớm thì muộn sẽ bị đối thủ cạnh tranh sản xuất những sản phẩm tương
tự hoặc giống hệt. Trong một số trường hợp bất lợi, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
sẽ được hưởng lợi do có sự tiết kiệm về quy mô sản xuất, khả năng tiếp cận thị trường
lớn hơn, có quan hệ tốt hơn đối với các nhà phân phối chính hoặc tiếp cận với các nguồn
nguyên liệu thô rẻ hơn, do đó có thể sản xuất sản phẩm tương tự với giá thành rẻ hơn rất
nhiều, tạo áp lực rất nặng nề lên nhà sáng tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ gốc. Điều này sẽ
gạt bỏ nhà sáng tạo ra khỏi thị trường, đặc biệt khi họ đã đầu tư đáng kể vào việc phát
triển sản phẩm mới, trong khi đó đối thủ cạnh tranh lại được hưởng lợi từ kết quả đầu tư
của họ. Đó là lý do quan trọng để các doanh nghiệp phải cân nhắc khi sử dụng việc đăng
ký Quyền sở hữu trí tuệ để đảm bảo những sản phẩm sáng tạo và sáng chế của mình, hạn
chế tối đa những sự sao chép và bắt chước của các đối thủ cạnh tranh.
Thứ mười một: Những hiểu biết về công nghệ

Công nghệ là sản phẩm do con người tạo ra và được sử dụng như một công cụ sản xuất
của cải, vật chất. Công nghệ thường được hiểu là quá trình tiến hành một công đoạn sản
xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc, do đó công nghệ thường được gắn liền với
những thuật ngữ như: quy trình công nghệ, thiết bị công nghệ, dây chuyền công nghệ,…
Công nghệ bao gồm công nghệ cứng và công nghệ mềm. Công nghệ cứng gồm có: hệ
thống kiến trúc, quy trình kỹ thuật, công cụ và phương tiện dùng để chế biến vật liệu và
xử lý thông tin thành thành phẩm trong sản xuất, các thiết bị điện tử và đồ dùng trong gia
đình,… Công nghệ mềm bao gồm quy trình phần mềm, quy trình hướng dẫn thực hiện,
kinh nghiệm cá nhân, những phần mềm ứng dụng và những phát minh sáng chế,… Ngày
nay, yếu tố công nghệ không thể tách khỏi quá trình sản xuất và kinh doanh, tuy nhiên để
có thể sử dụng một cách hiệu quả thì các đơn vị cần phải có chiến lược quản trị phù hợp.
Quản trị công nghệ luôn được quan tâm và đưa vào thực tiễn nhằm tối ưu hóa các chi phí
và nâng cao hiệu quả sản xuất; ngoài ra nó còn là một yếu tố mang tính cấp thiết, ảnh
hưởng đến khả năng sinh tồn và phát triển của mỗi tổ chức và doanh nghiệp.

Thứ mười hai: Quản trị công nghệ cứng và công nghệ mềm

Vạch ra một chiến lược quản trị công nghệ rõ ràng cho doanh nghiệp, định hướng cho
doanh nghiệp phân bổ các nguồn lực phù hợp để từ đó quyết định nên sử dụng loại công
nghệ nào, năng lực đầu tư và thực hiện đến đâu đồng thời đưa ra các dự báo, đánh giá và
lựa chọn công nghệ, đổi mới chuyển giao công nghệ, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
cũng như liên kết công nghệ với sản phẩm và thị trường. Quản trị công nghệ không chỉ
phụ thuộc vào kỹ năng làm việc mà còn ở thái độ của từng cá nhân đối với công việc,
điều này liên quan đến thông tin mà con người được trang bị và hành vi, thái độ của tổ
chức hay doanh nghiệp đó. Phần công nghệ mềm thể hiện các tri thức được tích lũy trong
công nghệ, nhờ có các tri thức áp dụng trong công nghệ mà các sản phẩm của nó mang
đặc trưng riêng.

Việc quản trị công nghệ phần lớn là nhờ tổ chức, người đứng đầu tổ chức đóng vai trò
điều hòa, phối hợp các thành phần riêng biệt của công nghệ để hoạt động một cách có
hiệu quả. Đó là công cụ để quản lý, lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự, động
viên thúc đẩy và kiểm soát mọi hoạt động của công nghệ. Quản trị công nghệ là lĩnh vực
kiến thức liên quan đến việc xây dựng và thực hiện các chính sách để giải quyết vấn đề
phát triển và sử dụng công nghệ, sự tác động của công nghệ đến xã hội, tổ chức, cá nhân
và môi trường. Quản trị công nghệ có tác dụng thúc đẩy, đổi mới tạo nên sự tăng trưởng
kinh tế và khuyến khích sử dụng công nghệ hợp lý vì lợi ích của con người. Ngoài ra,
quản trị công nghệ còn liên kết những lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và quản trị để hoạch
định, phát triển và thực hiện năng lực công nghệ, từ đó vạch ra và hoàn thành mục tiêu
chiến lược, tác nghiệp của tổ chức.

Thứ mười ba: Những hiểu biết về chiến lược công nghệ

Chiến lược công nghệ là những mục tiêu, phương tiện, phương pháp và cách thức thực
hiện các mục tiêu phát triển, cải tiến, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ cũng như phát
triển tiềm lực công nghệ. Chiến lược công nghệ là một bộ phận của toàn bộ chiến lược
phát triển của doanh nghiệp, một chiến lược công nghệ đúng đắn sẽ tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Chiến lược công nghệ của các doanh nghiệp thường có sự độc
lập nhất định đối với chiến lược công nghệ của Nhà nước. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu
quả cao nhất của các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ cần có sự
phối hợp, thống nhất giữa chiến lược của doanh nghiệp với hệ thống chiến lược phát triển
tiềm lực công nghệ quốc gia. Nhu cầu đời sống ngày càng nâng cao, người tiêu dùng chấp
nhận giá cao hơn cho những sản phẩm và dịch vụ chất lượng hơn, để đáp ứng được nhu
cầu đó thì doanh nghiệp cần phải nỗ lực để tạo ra những giá trị cốt lõi, từ đó có thể phát
triển và tồn tại trong xu thế thị trường cạnh tranh như hiện nay. Đó là lý do doanh nghiệp
nên mạnh tay đầu tư cho công nghệ, các trang máy móc, thiết bị hiện đại cũng như tuyển
chọn đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề cao, có khả năng ứng biến và xử lý linh
hoạt trong điều hành và quản lý để có thể tìm ra chiến lược tốt nhất cho sự phát triển của
toàn doanh nghiệp, tổ chức. Để có được chiến lược công nghệ hiệu quả, đầu tiên doanh
nghiệp phải lựa chọn được phần công nghệ cứng phù hợp để tạo ra các sản phẩm đúng
theo yêu cầu của thị trường. Phần công nghệ mềm được lựa chọn sau đó phải có đủ trình
độ chuyên môn, kỹ thuật để có thể kiểm soát và phát triển phần công nghệ cứng, nếu
không dù máy móc có hiện đại đến mấy cũng không thể đạt được hiệu quả tối ưu. Từ đó
có thể kết luận được chiến lược công nghệ là một phần rất quan trọng trong việc tồn tại
và phát triển của tổ chức, doanh nghiệp.

Thứ mười bốn: Những hiểu biết về lựa chọn và phát triển công nghệ

Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và là một xu thế tất yếu đối với sự phát triển của thế
giới ngày nay, do vậy nó vừa là cơ hội to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng
thời cũng tạo ra những thách thức và nguy cơ bị tụt hậu trên con đường tiến tới nền văn
minh nhân loại nếu như không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng và bỏ lỡ những cơ hội. Trong tiến
trình phát triển kinh tế thế giới, khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất và hiển nhiên trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay, lĩnh vực này chịu tác động không nhỏ, đặc biệt ở những quốc gia đang phát
triển như Việt Nam. Việc chuyển giao các dây chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến của
thế giới vào từng ngành nghề và lĩnh vực, việc lựa chọn và phát triển công nghệ trở thành
vấn đề tất yếu của doanh nghiệp, nhất là người đứng đầu doanh nghiệp đó để có thể phát
triển công nghệ cứng và đầu tư vào công nghệ mềm một cách phù hợp, đưa ra các sản
phẩm phù hợp với xã hội và là một sản phẩm “made in Vietnam” được xã hội chấp nhận
và ủng hộ chứ không phải các sản phẩm nhập khẩu khác. Để làm được điều đó, ngoài việc
lựa chọn công nghệ cứng theo xu hướng hiện đại, tiên tiến, nâng cao kỹ thuật máy móc,
thiết bị thì đầu tư phát triển tư duy con người cũng là một phần rất quan trọng. Tư duy có
phát triển thì kỹ năng, tay nghề và chiến lược mới đổi mới và theo kịp các công nghệ
cứng.

Thứ mười lăm: Bộ tiêu chí đánh giá thực trạng SQCDE

Một doanh nghiệp biết xây dựng, lựa chọn công nghệ dựa theo bộ tiêu chí đánh giá
SQCDE sẽ là một doanh nghiệp luôn phát triển mạng và bền vững.

- Safety (S): cần phải đặt sự an toàn của công nghệ lên hàng đầu. Nhiều doanh nghiệp
Việt Nam hiện tại đang không lựa chọn sự an toàn của công nghệ lên hàng đầu dẫn
đến việc chưa sản xuất được sản phẩm chất lượng đã khiến môi trường bị ô nhiễm
nặng nề, tiêu biểu như sự việc của nhà máy Formosa tại Hà Tĩnh.
- Quality (Q): chất lượng của sản phẩm. Một sản phẩm “made in Vietnam” có chất
lượng tốt sẽ cho thấy sự thay đổi trong tư duy và sự sáng tạo của người đứng đầu.
- Cost (C): giá thành. Việc đưa ra giá thành hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp tiêu thụ
được sản phẩm tốt, rẻ mà chất lượng.
- Delivery (D): khả năng thu hồi vốn cũng là một vấn đề cần được quan tâm đối với
doanh nghiệp nếu như muốn có sự phát triển lâu dài.
- Environment (E): một môi trường kinh doanh lành mạnh, bền vững thì mới có đủ
khả năng thu hút được những con người sáng tạo, có tư duy và kỹ năng tốt.

Câu 2. Nghị luận về thực trạng công tác quản trị công nghệ tại một tổ chức, doanh
nghiệp hay trong thực tiễn cuộc sống của sinh viên đã trải nghiệm. Sinh viên phân
tích thực trạng một vấn đề nổi cộm của công tác quản trị công nghệ (công nghệ cứng,
công nghệ mềm), từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản trị công
nghệ có liên quan.

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO


HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ CÔNG NGHỆ TẠI TỔNG
CÔNG TY THIẾT BỊ ĐIỆN ĐÔNG ANH

1. Giới thiệu về Tổng Công ty Thiết bị điện Đông Anh


1.1. Lịch sử hình thành

Tổng Công ty Thiết bị điện Đông Anh – Công ty cổ phần tiền thân là Công ty Sửa chữa
và chế tạo Thiết bị điện được thành lập ngày 5/12/1981 theo Quyết định số 056/NL-TCCB
của Bộ Năng lượng.

Ngày 19/6/1993, Bộ Năng lượng ra quyết định số 352 NL/TCCB-LĐ thành lập lại Công
ty Sản xuất Thiết bị điện theo Nghị định số 338-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng; theo đó
Công ty là đơn vị thành viên hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Bộ Năng lượng. Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp Nhà nước số 108821 do Sở Kế hoạch và
Đầu tư TP. Hà Nội cấp.
Ngày 4/3/1995, Bộ Năng lượng ra quyết định số 120 NL/TCCB-LĐ chuyển Công ty Sản
xuất Thiết bị điện về trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (nay là Tập đoàn Điện
lực Việt Nam). Công ty Sản xuất thiết bị điện là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có tư
cách pháp nhân đầy đủ.

Ngày 2/11/2004, Bộ Công nghiệp có Quyết định số 140/2004/QĐ-BCN chuyển Công ty


Sản xuất thiết bị điện thành Công ty Cổ phần Chế tạo thiết bị điện.

Công ty Cổ phần Chế tạo thiết bị điện chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 1/6/2005
theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103008085 (nay là số 0100101322) do Sở
Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội cấp lần đầu với số vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng.

Ngày 24/1/2023, Công ty tiến hành thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần thứ
8 để chính thức đổi tên Công ty Chế tạo Thiết bị điện Đông Anh thành Tổng Công ty
Thiết bị điện Đông Anh – Công ty Cổ phần với vốn điều lệ thực góp là 66 tỷ đồng.

Ngày 6/10/2014, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội cấp Quyết định số 548/QĐ-SGDHN
chấp thuận đăng ký giao dịch cổ phiếu TBD của Tổng Công ty tại sàn UPCoM – HNX.

Với kinh nghiệm trên hàng chục năm sản xuất, kinh doanh, sản phẩm của Tổng Công ty
đã và đang có mặt trên hệ thống điện ở hầu hết các vùng miền trên cả nước.

Tổng Công ty được Nhà nước trao Huân chương Lao động hạng Nhất (2008), Huân
chương Lao động hạng Nhì (1984), Huân chương Lao động hạng Ba (1991), Huân
chương Độc lập hạng Ba (2014).

Với các nỗ lực và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, Tổng Công ty đã được Chủ tịch
nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động tại quyết định số 2186/QĐ/CTN ngày
23/11/2011.

1.2. Sản phẩm

Sản phẩm chính của EEMC là máy biến áp siêu cao áp, máy biến áp truyền tải và máy
biến áp phân phối, trung gian.
Sản phẩm của EEMC hiện nay đang có mặt trên hệ thống điện ở hầu hết các vùng miền
trên cả nước. Với hệ thống thiết kế hợp lý và tiên tiến, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật theo tiêu
chuẩn đồng thời được nhiệt đới hóa phù hợp với điều kiện khí hậu và đặc điểm lưới điện
tại Việt Nam. Năm 2016, Tổng Công ty đã đưa 2 loại máy biến áp 63MVA-115/23kV;
1600KVA-22kV/400V đi thí nghiệm ngắn mạch tại Phòng Thí nghiệm Quốc tế Intertek
và đạt được kết quả rất tốt, khẳng định một bước tiến vượt trội về khoa học và kỹ thuật
công nghệ. Sản phẩm của EEMC luôn được khách hàng đánh giá cao về chất lượng, đáp
ứng được các yêu cầu về thiết kế và vận hành như khả năng chịu quá tải tốt, độ bền, độ
ổn định và độ tin cậy cao.

2. Thực trạng về công tác quản trị công nghệ tại Tổng Công ty Thiết bị điện Đông
Anh
2.1. Các yếu tố bên ngoài
- Xu hướng phát triển công nghệ sản xuất máy biến áp:
+ Công nghệ sản xuất trên thế giới phát triển hàng ngày, do đó công nghệ sản xuất
của máy biến áp cũng liên tục được phát triển.
+ Công nghiệp càng phát triển càng đòi hỏi mức độ tin cậy và liên tục trong vận
hành ngày càng cao, dẫn đến công nghệ sản xuất máy biến áp ngày càng cao.
- Khách hàng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng công nghệ của sản phẩm: Để đảm
bảo tin cậy vận hành nên khách hàng liên tục đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng
công nghệ của sản phẩm, do đó máy biến áp cũng ngày càng tích lũy nhiều thêm
công nghệ trong các sản phẩm của mình.
- Áp lực đổi mới công nghệ ngày càng gay gắt: Các hãng điện tử khác như Siemens,
Toshiba, ABB, TBEA,… sản xuất tại nước ngoài và đã đạt được công nghệ sản
xuất máy biến áp vận hành tương đối ổn định.
- Áp lực sản phẩm có độ tin cậy trong vận hành ngày càng cao:
+ Ổn định hệ thống điện cũng là đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia, do đó sản
phẩm cung cấp phải có độ tin cậy cao.
+ Hệ thống điện không những cung cấp ổn định điện sinh hoạt mà còn phải cung
cấp cho nền công nghiệp đang phát triển.
- Nhu cầu về vận hành song song các máy biến áp linh động ngày càng cao: Việc
vận hành linh động là hết sức cần thiết do tính chất của hệ thống là mạng lưới song
song, chỉ một phần tử gặp sự cố cũng ảnh hưởng đến cả hệ thống và mất đi tính dự
phòng.

Yêu cầu đối với EEMC:

- EEMC có cơ hội phát triển hơn nữa do sự ổn định của nền kinh tế và chính sách
kinh tế vĩ mô đối với ngành công nghiệp sản xuất máy biến áp.
- EEMC cần khắc phục những điểm yếu về quản lý, nguồn lực tài chính để tăng tính
linh hoạt nhằm né tránh các nguy cơ về cạnh tranh, sự khan hiếm nguồn cung ứng,
từ đó khai thác các cơ hội một cách tốt nhất.
2.2. Các yếu tố bên trong
- Kế hoạch phát triển công nghệ của doanh nghiệp: EEMC có kế hoạch phát triển
công nghệ tuy nhiên chưa có chiến lược công nghệ hoàn chỉnh nên vẫn còn nhiều
loay hoay trong việc đầu tư và đầu tư như thế nào, lộ trình ra sao.
- Nguồn vốn đầu tư cho kỹ thuật của doanh nghiệp: Với doanh thu của EEMC, đây
có thể được coi là một trong những doanh nghiệp lớn, do đó nguồn vốn đầu tư cho
kỹ thuật cũng không phải một con số nhỏ. Tuy nhiên, đối với các công nghệ cao,
nó đòi hỏi việc đầu tư phải lâu dài, chuyên tâm và nhiều kinh phí.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp: Để tạo ra được một sản phẩm có chất
lượng cao thì cơ sở vật chất là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ một doanh nghiệp
sản xuất nào.
- Chất lượng nguồn nhân lực kĩ thuật, hoạch định kế hoạch của doanh nghiệp:
+ Từ khi hình thành cho đến nay, EEMC đã tích lũy được một lượng rất lớn về
kinh nghiệm chế tạo, tay nghề công nhân và có một lượng công nghệ sản xuất nhất
định.
+ Tuy nhiên, với lực lượng sản xuất chiếm tới 75% là công nhân kĩ thuật thì việc
đầu tư nâng cao chất lượng và trẻ hóa đội ngũ là vô cùng quan trọng cho các giai
đoạn phát triển sau này.
- Phần mềm ứng dụng cho các hệ thống thiết kế và chế tạo sản phẩm:
+ Đối với các sản phẩm máy móc, việc ứng dụng phần mềm trong gia công giúp
cho sản phẩm có chất lượng cao và tiết kiệm chi phí.
+ Phần mềm ứng dụng đáp ứng một số yêu cầu của khách hàng về kích thước, mẫu
mã.

Sự yếu kém trong chiến lược công nghệ, kế hoạch phát triển công nghệ cũng như sự thiếu
linh hoạt khi ứng phó với những biến động về giá cả sản phẩm nhập khẩu/sản xuất khiến
EEMC chưa thực sự đạt được hiệu quả tối đa trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.

3. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản trị công nghệ tại Tổng Công
ty Thiết bị điện Đông Anh
3.1. Giảm sự phụ thuộc công nghệ vào các đối tác nước ngoài

Việc giảm sự phụ thuộc công nghệ vào các đối tác nước ngoài có thể đến từ hai hình thức:
mở rộng nhà cung cấp và chủ động về mặt công nghệ.

Phương án mở rộng nhà cung cấp thực chất là tăng thêm nhà cung ứng đề phòng ngừa
việc khan hiếm hàng hóa và độc quyền công nghệ dẫn đến ép giá, ép điều khoản cung
ứng. Do đó, về lâu dài nên chủ động về mặt công nghệ. Việc tạo ra những sản phẩm mới
có thể chỉ là cải tiến hoặc nâng công suất của các thiết bị cũ. Về lâu dài, có thể nghiên
cứu chế tạo trong nước một số thiết bị, sản phẩm phụ trợ trong máy biến áp, thay thế dần
những thiết bị ngoại nhập.

3.2. Gia tăng các nguồn tài chính cho công nghệ

Gia tăng các nguồn tài chính cho công nghệ bằng việc tạo dựng quỹ R&D để đầu tư
nghiên cứu các sản phẩm công nghệ mới. Quỹ có thể được gây dựng từ việc trích lợi
nhuận hàng năm của doanh nghiệp (thường ở mức tối thiểu 2% theo quy định). Ngoài ra,
EEMC có thể có những quy định riêng để gia tăng nguồn quỹ này như xây dựng hệ thống
quản trị tinh gọn để hiệu quả tối đa việc quản lý, giảm chi phí lãng phí để tái đầu tư cho
quỹ R&D; thực hiện các dịch vụ gia tăng cho khách hàng (bảo trì, bảo dưỡng, tư vấn kĩ
thuật,…) để tạo nguồn thu cho đội ngũ kĩ thuật/quỹ R&D. Cần có quy định cụ thể về việc
đầu tư cho công nghệ của EEMC nhằm nâng cao hiệu quả cải tiến công nghệ, tạo ra những
sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

3.3. Nâng cao hiệu quả quản lý

Với mô hình Tổng Công ty Cổ phần, việc quản lý hiệu quả là điều kiện tiên quyết để phát
triển các nội dung khác trong công ty. Chiến lược công nghệ kế thừa cần được đảm bảo
bởi sự quản lý chặt chẽ, hiệu quả, am hiểu hệ thống thì mới có được những sản phẩm
ngày một tốt hơn. Muốn đạt được điều đó, EEMC cần chủ động sắp xếp lại cơ cấu tổ
chức, hoạt động cho phù hợp, đảm bảo đúng người đúng việc nhằm phát huy cao nhất
hiệu quả của người lãnh đạo. Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân,
phòng ban và trung tâm về hiệu quả công việc, khuyến khích tinh thần tự chủ và sáng tạo
của mỗi cá nhân. Cần trẻ hóa lực lượng lao động, khuyến khích cán bộ, công nhân viên
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật. Chuẩn bị lực lượng lao động kế thừa, tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng để sẵn sàng thay thế khi cần thiết.

Cần nắm bắt các cơ hội hiện có: EEMC hiện đang là lĩnh vực hoạt động tập trung chuyên
ngành về cung cấp sản phẩm cho ngành điện và được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước.

- Đầu tư phòng thí nghiệm cao áp trọng điểm ngay cạnh EEMC nên việc thí nghiệm
rất thuận lợi do thời gian và quãng đường vận chuyển.
- Được tạo cơ chế mua sắm đặc trưng cho máy biến áp.
- Được cấp kinh phí cho việc nghiên cứu chế tạo và phát triển các đề tài khoa học
về sản xuất các máy biến áp truyền tải công nghệ cao.
3.4. Nâng cao chất lượng sản phẩm cung ứng

Để thực hiện việc nâng cao chất lượng sản phẩm cung ứng, việc quy trình hóa quá trình
cung ứng và thực hiện đúng quy định là bắt buộc. Hiện tại quy trình cung ứng hàng hóa
của EEMC đã được thực hiện theo quy trình nhưng vẫn còn chậm và nhiều khâu còn chưa
đồng bộ. Điều này cần được cải tiến đồng thời với việc nâng cao hiệu quả quản lý.
Câu 3. Trình bày giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các sản phẩm, dịch vụ
thật của các doanh nghiệp Việt Nam (sản phẩm thuần việt made in Vietnam) tại thị
trường Việt Nam và trên trường quốc tế.

1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

Diễn giải một cách đơn giản nhất, quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với các tài sản
trí tuệ. Với cách hiểu như vậy, tài sản trí tuệ ở đây được coi là yếu tố cơ bản hình thành
quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ, trước tiên cần
tìm hiểu khái niệm và các đặc trưng của tài sản trí tuệ.

Theo khái niệm được thừa nhận rộng khắp, tài sản trí tuệ là những thành quả do trí tuệ
con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo, thể hiện thành những mẫu thông tin kết
hợp chặt chẽ với nhau trong các vật thể hữu hình, xuất hiện trong cùng một thời gian với
số lượng bản sao không giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới và được thừa
nhận là tài sản. Quyền sở hữu trong trường hợp này không phải là quyền sở hữu bản thân
các bản sao mà chính là những thông tin chứa đựng trong các bản sao đó. Khi được thể
chế hóa, những mẫu thông tin này biểu hiện cụ thể thành các đối tượng của quyền sở hữu
trí tuệ như tác phẩm văn học nghệ thuật, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa, sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu,…

Tài sản trí tuệ là loại tài sản đặc biệt, mang nhiều thuộc tính đặc thù và những thuộc tính
này ảnh hưởng đến tính chất của quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ mang tính chất của
một hàng hóa công cộng toàn cầu, nó có tính phi cạnh tranh và phi loại trừ trong sử dụng.
Điều này khiến quyền sở hữu trí tuệ phải được quyết định bởi Nhà nước chứ không phải
thị trường để sửa chữa thất bại của thị trường. Khi tài sản trí tuệ được bảo hộ bởi Nhà
nước, người nắm giữ tài sản đó có một số quyền nhất định đối với tào sản của mình, đó
chính là quyền sở hữu trí tuệ. Từ đó, tài sản trí tuệ mới trở thành một loại tài sản quan
trọng và có giá trị.
Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền mà Nhà nước dành cho các cá nhân, tổ chức là
chủ sở hữu tài sản trí tuệ sự kiểm soát độc quyền trong một thời gian nhất định nhằm ngăn
chặn sự khai thác các tài sản này một cách bất hợp pháp.

2. Vai trò và ý nghĩa của sở hữu trí tuệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
2.1. Sở hữu trí tuệ là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục cho chủ thể sở
hữu và xã hội

Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công nghiệp phát triển, sở
hữu trí tuệ được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng
của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời và được bảo hộ, chủ thể sở hữu sản
phẩm trí tuệ đó không những có được tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường
cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác, mà chính người mua quyền sở hữu trí
tuệ đó và người xin cấp giấy phép sử dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo
hộ. Việc bảo hộ này nhằm giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền sở hữu
trí tuệ nhưng đồng thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp các
hiệp định bảo hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí tuệ đã được bảo
hộ đó bằng việc thương mại hoá chúng. Chính việc thương mại hoá các tài sản trí tuệ đã
đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những người mua quyền sử dụng tài sản trí tuệ đó
những lợi ích kinh tế.

2.2. Sở hữu trí tuệ là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng như nền kinh
tế quốc gia trong hội nhập

Hiện nay, với mỗi quốc gia, doanh nghiệp, năng lực sở hữu trí tuệ là một trong những
năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia, doanh nghiệp
nào có được càng nhiều quyền sở hữu trí tuệ thì năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh
nghiệp đó càng cao.

Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp, khả năng tiếp cận thị
trường hạn chế cho nên để có thể phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả, cần thiết phải
đánh giá đúng vị trí quan trọng của sở hữu trí tuệ. Cách tốt nhất là phải tiếp cận các chuẩn
mực quốc tế về sở hữu trí tuệ nhằm xây dựng hệ thống sở hữu trí tuệ có hiệu quả. Điều
đó làm cho hoạt động sở hữu trí tuệ xét trên phạm vi quốc gia ngày càng có khuynh hướng
tiến gần hơn tới chuẩn mực chung của thế giới.

2.3. Sở hữu trí tuệ là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng
như từng doanh nghiệp

Bất kỳ tài sản hữu hình nào cũng đều có giới hạn và cùng với thời gian, không gian khối
lượng và giá trị của các tài sản hữu hình này không chỉ bị thu hẹp về quy mô, số lượng
mà còn có khả năng bị thay thế bởi các sản phẩm mới do tri thức tạo ra. Do đó, sở hữu
các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn, còn sở hữu tri thức, trí tuệ của nhân loại là
sở hữu cái vô hạn, vì vậy sẽ là vô cùng bền vững nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng
một cách hiệu quả – có thể nói sở hữu trí tuệ là sở hữu một thứ tài sản đặc biệt, khi sử
dụng không những không mất đi mà còn có khả năng kiến tạo những sản phẩm trí tuệ cao
hơn, là những tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở
hữu và xã hội.

Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp ước quốc tế (song phương và đa phương) về bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Hiệp ước quan trọng như Công
ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng
hoá, Hiệp ước hợp tác Patent, Công ước Benre về bản quyền,… và đặc biệt là Hiệp định
TRIPS. Ngoài ra, các Hiệp ước quốc tế đa phương và song phương liên quan đến việc
khiếu nại, xét xử, trọng tài, thi hành bản án, quyết định, tương trợ tư pháp,… giữa Việt
Nam và các nước là những cơ sở quan trọng trong công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, lợi nhuận lớn thường đổ dồn về những doanh nghiệp biết quan tâm
đầu tư và khai thác sản phẩm trí tuệ của mình hay những quốc gia sở hữu nhiều phát minh,
sáng chế của nhân loại.

2.4. Tuân thủ hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ là cách thức để các nước đang phát triển
tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ và hội nhập
hiệu quả
Việc tạo dựng và củng cố giá trị của mọi đối tượng sở hữu trí tuệ là một quá trình đầu tư
tốn kém về vật chất và trí tuệ. Do vậy, việc sao chép, mô phỏng, thậm chí đánh cắp nguyên
vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật – kinh doanh của đối thủ cạnh tranh là biện pháp hấp
dẫn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận và chiến thắng. Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí
tuệ là nguy cơ thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế công nghiệp
hoá. Bởi vậy, việc ngăn chặn nguy cơ này là vấn đề ám ảnh đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, họ sẽ chỉ chấp nhận chuyển giao công nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư nếu
họ nhận thấy đủ cơ hội khai thác an toàn và hiệu quả công nghệ đó ở quốc gia dự định
đầu tư.

Cho nên sẽ là thiển cận nếu cho rằng vì lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ mà không cần
phải có một sự bảo hộ công nghệ nào ở các nước đang phát triển. Cần thấy rằng, các nhà
đầu tư nước ngoài có xu hướng lo sợ sự bảo hộ sở hữu trí tuệ lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc
thiếu kiểm soát đối với công nghệ được chuyển giao và như vậy công nghệ chuyển giao
này sẽ dễ trở thành mục tiêu bị vi phạm bản quyền. Vì lẽ đó, xác lập được một hệ thống
bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả và việc tuân thủ hệ thống quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ một
cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên quyết tác động đến quyết định đầu tư và chuyển
giao của các công ty nước ngoài.

2.5. Một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả là một yếu tố để chống lại nguy
cơ tụt hậu và phát triển đất nước

Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản cho thấy, một quốc gia hoàn toàn có thể phát triển
mạnh mẽ mà không nhất thiết phải có nguồn lực vật chất dồi dào, mà vấn đề là nhận thức
được giá trị thực sự của tài sản trí tuệ và việc bảo hộ các tài sản trí tuệ đó. Một khi cơ sở
hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ đã được thiết lập ở một nước,
nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo hộ sáng chế sẽ thành một yếu tố thúc đẩy
sự nghiệp cải tiến kỹ thuật.

3. Giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp
Việt Nam
Việt Nam bắt đầu tham gia với cộng đồng quốc tế về vấn đề sở hữu trí tuệ khá sớm. Từ
năm 1949, Việt Nam đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả
ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá. Đến năm 1976, Việt Nam tham gia
công ước Stockholm về thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới. Nhưng quá trình tham
gia và xác lập quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam mới đi vào thực chất kể từ khi nền kinh
tế Việt Nam tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là khi Việt
Nam bắt đầu thực hiện tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Với tư cách là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã và đang tiêu chuẩn hoá, thực
hiện các cam kết về khung pháp luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó có 2 vấn đề
cơ bản mà Việt Nam phải thực hiện trong hoạt động này đó là:

- Phải có một khung pháp lý về sở hữu trí tuệ hoàn thiện, đầy đủ và đạt tiêu chuẩn
theo quy định của Hiệp định TRIPS và tham gia một loạt các điều ước quốc tế
khác như bản quyền, sử dụng tín hiệu vệ tinh,…
- Việt Nam phải có một hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu lực
của hệ thống các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn thấp, tính minh bạch và sự
nghiêm minh trong thực thi luật còn nhiều vấn đề cần xem xét, dẫn đến trình trạng vi
phạm, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang diễn ra khá phổ biến. Hầu như mọi chủng loại
sản phẩm hàng hoá đều có hàng nhái, hàng có chứa yếu tố vi phạm quyền sở hữu. Do vậy,
vấn đề đặt ra là cần có một định hướng rõ ràng, hiệu quả nhằm nâng hiệu lực của việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong thực tế. Dưới đây là một số giải pháp nhằm tăng hiệu
lực của việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam:

Một là, cần có mức xử phạt đủ nặng về mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi vi
phạm, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ để tăng tính nghiêm minh và thực thi có hiệu quả
các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

Hai là, các cơ quan chức năng phải chi tiết, cụ thể từng quy định đã được ban hành và
hình thành khung mức phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm, xâm phạm.
Ba là, phải xây dựng được hệ thống cơ chế giám sát mang tính liên ngành nhằm phòng,
chống một cách hiệu quả các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó
lưu ý đến việc chuẩn bị đủ lực lượng thực hiện và phải thực hiện một cách nghiêm túc,
thường xuyên, tránh tình trạng phát động theo phong trào.

Bốn là, thúc đẩy thương mại hoá các hoạt động sở hữu trí tuệ, tuyên truyền và nâng cao
nhận thức về giá trị kinh tế và những lợi ích hợp pháp của việc thương mại hoá các sản
phẩm trí tuệ cũng như việc tuân thủ nghiêm túc Luật Sở hữu trí tuệ.

Năm là, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy về sở hữu trí tuệ, cần quy
định rõ cơ quan đầu mối quan lý và có chế tài xử lý thích hợp đối với các vi phạm của cả
người thực thi cũng như người quản lý việc thực thi.

Sáu là, để phát triển bền vững trong hội nhập và hội nhập hiệu quả trên phương diện bảo
vệ hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ, cần đẩy mạnh đào tạo và đào tạo theo quy chuẩn quốc
tế nguồn nhân lực về sở hữu trí tuệ.

Sự tồn tại của hệ thống bảo hộ công nghệ đóng vai trò quan trọng trong các quyết định
chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư trực tiếp. Một hệ thống bảo hộ có hiệu quả
ở một nước đang phát triển sẽ tạo được niềm tin đối với nhà đầu tư, đặc biệt là trong các
quyết định chuyển giao công nghệ, đồng thời sẽ góp phần cải thiện vị thế của quốc gia đó
trong cuộc cạnh tranh khu vực cũng như quốc tế về vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ như vậy sẽ trở thành động lực chuyển giao và ứng dụng công
nghệ ở các nước đang phát triển, đồng thời cũng là cách thức để tiến trình hội nhập quốc
tế của các nước đang phát triển hiệu quả và vững vàng hơn.

Câu 4. Trình bày cảm nghĩ của bản thân về giá trị của môn học Quản trị công nghệ
đối với bản thân, doanh nghiệp và xã hội.

1. Giá trị của môn học Quản trị công nghệ đối với bản thân

Sau khi kết thúc 15 tuần học tập bộ môn Quản trị công nghệ, bản thân em đã nhận thức
rõ hơn bao giờ hết tầm quan trọng của công nghệ và việc quản trị công nghệ trong xã hội,
công việc hay ngay cả trong đời sống hàng ngày. Bản thân em đã hiểu rõ hơn công nghệ
không chỉ là những thiết bị điện tử thông thường, những thiết bị sinh hoạt trong gia đình
hay những công trình xây dựng; nó còn bao gồm cả yếu tố con người để có thể trở thành
yếu tố quyết định đến sự vận hành công nghệ nhằm phục vụ cho xã hội ngày càng hiện
đại và phát triển.

Ngoài ra, những hiểu biết về quản trị công nghệ và chiến lược công nghệ được cung cấp
trong quá trình học tập không chỉ đơn thuần giúp em tiếp cận với những kiến thức mới
mang tính học thuật và chuyên ngành, trong quá trình học em đã có cơ hội rèn luyện khả
năng tư duy và phản biện rất nhiều do tính chất của môn học và phương pháp giảng dạy
của giảng viên. Kỹ năng làm việc nhóm và tìm kiếm tài liệu tham khảo phục vụ việc tự
học của em cũng đã có sự cải thiện rõ rệt.

2. Vai trò của quản trị công nghệ đối với doanh nghiệp

Quản trị công nghệ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ năng lực của đối thủ và đi trước đối
thủ một bước trong đổi mới công nghệ, có các quyết định chính xác mang tính chiến lược
về tài chính và phân phối vốn nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế
cạnh tranh doanh nghiệp,… Trước xu thế hội nhập sâu rộng cùng khu vực và thế giới của
Việt Nam hiện nay, vai trò của quản trị công nghệ trong sản xuất kinh doanh rất lớn như:
bảo vệ được các hoạt động kinh doanh sẵn có sẽ đảm bảo được vị trí cạnh tranh đang có
của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp; tạo ra cơ hội kinh doanh mới.

Thế kỷ 21 đang chứng kiến sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế số, nền kinh tế sáng tạo
nhờ vào sự ra đời, phát triển liên tục của những công nghệ mới. Việc nắm bắt và ứng
dụng công nghệ chuyên sâu sẽ giúp doanh nghiệp vận hành hiệu quả hơn. Công nghệ luôn
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, là đòn bẩy tăng trưởng và phát
triển bền vững cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, công nghệ càng
thể hiện rõ vai trò then chốt giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng thích ứng, vượt qua
khó khăn cũng như nắm bắt cơ hội và có những hình thái hoạt động mới phù hợp với điều
kiện sản xuất kinh doanh mới.
Thông qua việc quản trị đổi mới công nghệ, các nhà quản trị sẽ nhận dạng được cơ hội
thị trường và phát triển công nghệ, giúp cho doanh nghiệp quyết định được nên duy trì
hay thay đổi các hoạt động kinh doanh, công nghệ, sản phẩm hiện tại, mở rộng sản xuất,
hay cần có công nghệ, sản phẩm mới.

Bên cạnh đó, quản trị công nghệ giúp doanh nghiệp đánh giá được một số vấn đề trong
tương lai để hoạt động có hiệu quả. Những dự báo này cho thấy sự thay đổi trong tương
lai gắn với sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội và giúp cho doanh nghiệp thấy được
ai sẽ là đối thủ cạnh tranh trong trung và dài hạn. Quản trị công nghệ cũng giúp doanh
nghiệp giảm thiểu rủi ro khi đưa ra quyết định bởi các dự án, nhất là các dự án đổi mới
sáng tạo đều có thể gặp rủi ro và chứa đựng nhiều yếu tố không chắc chắn. Từ đó, có thể
khẳng định quản trị công nghệ tốt bảo đảm rằng các quyết định đưa ra đã qua một quá
trình phân tích sáng suốt để hình thành và thực thi các mục tiêu chiến lược phát triển cụ
thể trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, quản trị công nghệ giúp cho doanh
nghiệp giành chiến thắng khi tung ra một sản phẩm hay một chiêu thức marketing mới
nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm hiện có, giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ năng lực của đối
thủ và đi trước đối thủ một bước trong việc đổi mới công nghệ.

Quản trị công nghệ tốt sẽ giúp doanh nghiệp nhìn nhận rõ năng lực thực sự của mình
nhằm khắc phục các điểm yếu và phát huy các điểm mạnh. Từ đó, doanh nghiệp có các
quyết định chính xác mang tính chiến lược về tài chính và phân phối vốn cũng như có
những quyết định khôn khéo và tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế cạnh
tranh và đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

3. Vai trò của quản trị công nghệ đối với xã hội

Những đóng góp quan trọng của quản trị công nghệ vào thành tựu phát triển chung của
đất nước giai đoạn vừa qua được thể hiện qua các kết quả nổi bật sau:

- Khoa học cơ bản đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công
bố quốc tế. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn
2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt
Nam tăng 45% so với năm 2019.
- Khoa học - công nghệ ứng dụng thể hiện những bước tiến rõ nét về trình độ công
nghệ. Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng
tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020.
Khoa học - công nghệ ngày càng đóng góp nhiều vào giá trị gia tăng của sản phẩm
hàng hóa.
- Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam bắt đầu được hình thành và
phát triển. Hiện nay, có khoảng hơn 3000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại
Việt Nam. Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo đạt xấp xỉ 1 tỷ USD liên tiếp trong 2 năm gần đây, đưa Việt Nam trở thành
quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo.
- Nguồn lực tài chính từ xã hội cho khoa học - công nghệ tăng mạnh. Tỷ trọng đầu
tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực.
- Nghiên cứu khoa học - công nghệ đã có nhiều đóng góp tích cực trong hoạt động
phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Đây là kết quả của đầu tư nghiên cứu khoa
học và công nghệ trong một thời gian dài, đã tạo nền tảng để các tổ chức nghiên
cứu phát triển nhanh các sản phẩm như kit test nhanh, vaccine, công nghệ truy
vết,...
- Hệ thống các tổ chức khoa học - công nghệ phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực khoa
học - công nghệ phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống sở hữu trí tuệ
và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng ngày càng hoàn thiện, góp phần khuyến khích
hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.

Trong lĩnh vực nông nghiệp: khoa học - công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng của
ngành và 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm
các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà-phê, hồ tiêu, cao su,…

Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông: hoạt động khoa học - công nghệ và
đổi mới sáng tạo tiếp tục hỗ trợ phát triển sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam
có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm; nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực cơ khí chế
tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ,...

Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng: nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên
tiến đã được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khám,
chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội. Dù là nước đang phát triển, nhưng Việt
Nam đã nằm trong tốp 3 khu vực Đông Nam Á và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được
vắc-xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao, như
ghép tạng và đa tạng,... Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng
nghiên cứu, phát triển kit xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản
xuất rô-bốt, máy thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu
điều trị COVID-19, nghiên cứu để sản xuất vaccine.

Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia: khoa học - công nghệ đã góp phần thiết
kế, chế tạo mới và cải tiến được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao;
xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không
gian mạng.

You might also like