You are on page 1of 10

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

(Nguyễn Tuân)
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những đóng góp
xuất sắc trong cat hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Nguyễn Tuân có phong cách
nghệ thuật độc đáo trong đó nổi bật nét tài hoa- uyên bác, ông chủ yếu khám phá con
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Chữ người tử tù là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập Vang bóng một thời . Tập
truyện ngắn Vang bóng một thời (1940) gồm 11 truyện ngắn viết về những thú vui
tao nhã, những vẻ đẹp xa xưa nay chỉ còn vang bóng, những giá trị văn hoá cổ truyền
nay đã lạc lõng, lẻ loi
II. TÌM HIỂU TÁC PHẨM
1. Hình ảnh nhân vật quản ngục.
Đây là nhân vật thể hiện rõ nét một trong những đặc điểm phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân, một nhà văn chương khám phá con người ở phương diện tài hoa
nghệ sĩ. Tuy chỉ là con người coi tù, nhưng khi hiện lên trong ngòi bút của Nguyễn
Tuân , quản ngục lại được khám phá, miêu tả trong vẻ đẹp của con người có tâm hồn
nghệ sĩ, là người biết yêu cái đẹp, biết trọng người tài. Nhân vật quản ngục đã góp
phần thể hiện sâu sắc tư tưởng chủ đề của tác phẩm và quan điểm thẩm mĩ của nhà
văn. Có thể nhận ra vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách quản ngục qua diễn biến tâm tư
cũng như cách ứng xử của quản ngục trong cuộc kỳ ngộ với Huấn Cao.
1.1. Khi nghe tin Huấn Cao sắp đến trong đoàn tử tù, quản ngục đã thăm dò qua
thơ lại một cách thận trọng, kín đáo nhưng vẫn không giấu nổi thái độ kính nể và sự
ngưỡng mộ. Với cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của một kẻ phản nghịch chống
lại triều đình có tiếng là nguy hiểm. Có thể nhận thấy điều quan trọng đầu tiên trong
ấn tượng của quản ngục về Huấn Cao là tài viết chữ. Sự chú ý đặc biệt đó đã hé mở
phần nào con người của quản ngục khi ông ta quan tâm đến Huấn Cao không phải về
quan điểm chính trị hay sự nguy hiểm mà trước hết là ở phương diện tài hoa. Có thể
nhận ra trong chi tiết đầu tiên này nét phong cách của Nguyễn Tuân , một nhà văn
luôn quan sát con người từ phương diện tài hoa.
1.2. Con người quản ngục đã hiện rõ hơn ở tâm tư, dáng vẻ của ông trong đêm
đợi tù. Trong bóng đêm thăm thẳm, quạnh quẽ của nhà giam, quản ngục băn khoăn
ngồi bóp thái dương, nghĩ ngợi, trăn trở. Trong cái nhìn tư lự của quản ngục, hình
ảnh ngôi sao chính vị nhấp nháy trên bầu trời ít nhiều có mối liên hệ với tâm trạng
thao thức chờ đợi của ông ta đêm nay. Có lẽ sự ngưỡng mộ, trọng nể của quản ngục
với Huấn Cao đã nhập hình ảnh người tử tù vĩ đại sắp vĩnh biệt cuộc đời với ngôi sao
Hôm sắp từ biệt vũ trụ. Hình ảnh chiếc án thư cũ vàng đã nhợt, sơn đã mờ, đĩa dầu sở
trên cây đèn nến với lần mực dầu được nhắc lại tới 2 lần cùng chi tiết miêu tả quản
ngục đầu đã điểm hoa dâm, râu đã ngả màu gợi cảm xót xa: quản ngục đã trải qua
gần hết cuộc đời ở nơi ngự trị cái xấu, cái ác. Công việc xấu xa độc ác đã giam cầm
chính cuộc đời lương thiện của ông. Trong chốn tối tăm dơ dáy ấy, quản ngục luôn
thấy mình cô độc, chia sẻ những tâm tư của ông đêm nay chỉ là những đồ vật cũ kỹ,
tàn tạ cùng ngọn đèn leo lét. Hình ảnh những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự bây
giờ đã biến mất hẳn càng cho thấy quản ngục luôn phải sống hai vai trong hai cuộc
đời, ban ngày là quản mục mẫn cán với những sự vụ đáng chán, ban đêm lại trở về
với cõi riêng của sự trăn trở suy tư. Những hình ảnh so sánh về gương mặt như mặt
nước ao xuân bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ, về một thanh âm trong trẻo chen vào
giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn , xô bồ; về những cái thuần khiết giữa
một đống cặn bã.... đã thể hiện cách đánh giá của nhà văn với con người quản ngục,
một kẻ chọn nhầm nghề mà sự kiện Huấn Cao sắp tới sẽ là dịp để quản ngục nhìn lại
rõ lòng mình cùng tình cảnh đáng buồn của cuộc đời mình. Những xét đoán của quản
ngục về tính cách thơ lại cho thấy sự sâu sắc, từng trải của ông, quản ngục đã đánh
giá nhân cách con người thông qua tình cảm của họ, lấy tiêu chí biết kính mến khí
phách... biết tiếc, biết trọng người có tài để phân định tốt xấu, vô tình hay hữu
tình...Từ tiêu chí nhìn người mà thấy được chính con người quản ngục , một thanh
âm trong trẻo thuần khiết giữa chốn xô bồ, cặn bac. Thực ra đây cũng chính là tiêu
chí nhìn người của Nguyễn Tuân - một nhà văn luôn quan sát, khám phá, miêu tả,
khen chê con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, luôn kính mến, trân trọng cái đẹp,
người tài.
1.3. Nhân cách của quản ngục mỗi lúc một hiện rõ trong cảnh đón Huấn Cao
sáng hôm sau. ngay khi nhận tù, quản ngục đã thể hiện lòng kính nể, tuy cố giữ kín
đáo mà cũng đã rõ quá trong ánh mắt hiền lành, trong sự biệt nhỡn với riêng Huấn
Cao - thái độ khiến bọn lính lấy làm lạn, còn tử tù thì ngạc nhiên. Con người thực
trong quản ngục đã vô tình bộc lộ bởi sự kính trọng không thể che giấu với Huấn
Cao, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc nhận rằng tất cả những dặn dò sự vụ, những đe
nẹt, thuận chí cả những mánh khoé hành hạ thường lệ với tù nhân có lẽ chỉ là tấm
bình phong an toàn để quản ngục giữ mình cho yên ổn trong hoàn cảnh để lao, nơi
con người sống với nhau bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc.
1.4. Suốt nửa tháng trời Huấn Cao ở nhà lao, quản ngục chân thành, cung kính
biệt đãi Huấn Cao. Nguyên nhân sự biệt đãi ấy xuất phát từ niềm kính trọng và yêu
mến sâu sắc của quản ngục với tài năng và khí phách của Huấn Cao, với ý muốn giúp
cho Huấn Cao đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại. Việc làm này có thể coi là
một hành vi dũng cảm của viên tiểu lại giữ tù dám bất chấp luật pháp , làm đảo lộn
trật tự hà khắc của nhà tù, biến kẻ từ tù thành thần tượng để cung phụng, tôn thờ.
Mặc dù Huấn Cao tỏ thái độ cao ngạo, khinh mạn, quản ngục vẫn sai người hàng
ngày dâng rượu và thức ngắm, dáng vẻ khép nép, nói năng rất mực cung kính, lễ
phép và ko lấy làm oán thù thái độ khinh bạc đến điều của ông Huấn. Có thể thấy
quản ngục đã quá hiếu khí phách của con người chọc trời khuấy nước, càng hiểu rằng
trong con mắt của Huấn Cao, ông ta chỉ là một gã tiểu lại coi tù hèn mọn. Quản ngục
đã sắp xếp thứ hạng người trong xã hội không phải bằng những tiêu chí thông thường
của đẳng cấp hay cảnh ngộ mà bằng tài hoa, khí phách của họ, và với tiêu chí ấy,
quản ngục nhận thức sâu sắc sự hèn kém của mình trước Huấn Cao - một người cách
xa y nhiều quá. Nhưng thái độ khép nép, nhẫn nhục lại không hề hạ thấp con người
quản ngục mà chỉ càng khiến người đọc hiểu thêm vẻ đẹp trong nhân phẩm của ông
theo đúng cách ông nhìn nhận thơ lại: một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết
tiếc, biết trọng người tài, hắn không phải là kẻ xấu hay vô tình - thậm chí còn có thể
coi đó là tư thế để thủ bái mai hoa, tư thế đáng kính trọng của con người biết cúi đầu
trước sự cao khiết của hoa mai, trước cái đẹp.
Càng hiểu tầm vóc và khí phách của con người Huấn Cao cũng như thân phận hèn
mọn của mình, quản ngục càng khổ tâm vì một nỗi niềm riêng chưa thể bày tỏ. Từ
lâu sở nguyện của quản ngục là được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay
ông Huấn Cao viết. Một gã tiểu lại giữ tù mà khao khát, mong mỏi được sở hữu,
chiêm ngưỡng chữ ông Huấn, lại coi đó là một báu vật trên đời. Sở thích và quan
niệm ấy đã tách quản ngục ra khỏi môi trường sống tầm thường chốn đề lao dơ đáy,
lừa lọc, thể hiện nhân cách thanh sạch, cao quý của ông. Nỗi mong mỏi xin được chữ
ông Huấn, sự khổ tâm khi có Huấn Cao ở trong tay mà lại không đủ can đảm giáp
mặt một người cách xa nhiều quá, cảm giác bồn chồn sợ hãi khi mai mốt ông Huấn bị
hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất... tất cả những nỗi
niềm day dứt khổ sở ấy đã thể hiện sự trân trọng kính mến vô cùng của quản ngục
với cái Đẹp và người Tài.
1.5. Khi được tin ông Huấn phải vào kinh chịu án tử hình, viên quản ngục tái
nhợt người. Đó là nét mặt một người đang sợ hãi và xúc động đến cực điểm, trước
hết, đó là sự thương tiếc Huấn Cao, sau đó là nỗi tiếc hận đau đớn khi án tử hình sẽ
mang cả Huấn Cao và những báu vật mà quản ngục khao khát cả cuộc đời vào cõi hư
vô. Tình huống khắc nghiệt ấy đã đẩy quản ngục tới chỗ phải bỏ qua cả sự kín đáo và
thận trọng để bộc lộ nỗi lòng, cũng là sở nguyện lớn lao, cao quý với thơ lại để rồi
qua thơ lại, tấm lòng của quản ngục đã may mắn khiến Huấn Cao cảm động và đồng
ý cho chưc. Với thái độ biệt nhỡn liên tài, quản ngục đã được Huấn Cao xếp vào
hàng những người tri âm tri kỷ khi đồng ý cho chữ, được ông Huấn coi đó là một tấm
lòng trong thiên hạ. Trong đêm cuối cùng, khi ông Huấn đồng ý cho chữ, quản ngục
đã được miêu tả trong tư thế khúm núm, và sau đó, khi nghe lời dạy cuối cùng của
Huấn Cao, quản ngục cảm động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng
nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội xin bái lĩnh". Trước hết
đây là tư thế , dáng vẻ của một con người yêu mến cái đẹp sẵn sàng liều lĩnh để một
lần chiêm ngưỡng và sở hữu cái đẹp . Nhưng qua vẻ xúc động mãnh liệt của quản
ngục, còn có thể nhận ra sự cao quý đáng trân trọng trong tâm hồn ông: có được chữ
của ông Huấn , cũng là báu vật quản ngục khao khát suốt đời, vậy mà người ta không
thấy sự mãn nguyện, vui sướng, chỉ thấy nỗi đau xót, tiếc thương cho một nhân cách
vĩ đại sắp vĩnh biệt cuộc đời; hoá ra cái mà quản ngục tôn thờ, ngưỡng môn không
chỉ là cái đẹp của nghệ thuật mà hơn hết là cái đẹp của Tài Năng, Nhân cách và
Thiên lương, những vẻ đẹp tập trung trong hình ảnh người tù vĩ đại. Người đọc đã
nhận ra ở quản ngục một nhân cách đáng kính trọng khi biết yêu quý, kính trọng
người tài và cái Đẹp, lại càng trân trọng quản ngục hơn khi chứng kiến sự đau xót,
tiếc nuối của ông trong đêm cuối vĩnh biệt Huấn Cao.
=> Thông qua những nét ngoại hình, dáng vẻ đầy ấn tượng và đặc biệt là những chi
tiết miêu tả nội tâm chân thực, nhân vật quản ngục đã được thể hiện với sở thích cao
quý và thanh khiết, với lòng yêu mến cái Đẹp và kính trọng người tài. Như vậy tuy
không phải nhân vật chính với vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ, quản ngục vẫn là nhân vật
được Nguyễn Tuân khám phá trong phương diện tài hoa nghệ sĩ bởi tấm lòng biệt
nhỡn liên tài, là nhân vật thể hiện những quan niệm độc đáo, tích cực của nhà văn về
con người và nghệ thuật.
2. Hình ảnh nhân vật Huấn Cao
Đây là nhân vật chính của truyện ngắn, cũng có thể coi là một nhân vật lý tưởng
trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong khi Huấn Cao hội tụ tất cả những
vẻ đẹp của tài hoa , khí phách, thiên lương
2.1. Huấn Cao xuất hiện trong tác phẩm trước hết là một con người tài hoa, và
trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp tài hoa của nhân vật này chỉ
yếu ở nghệ thuật thư pháp.
Tính chất tượng hình và những tầng ý nghĩa sâu xa, hàm xúc đã khiến người xưa
đưa việc viết chữ nho lên thành một môn nghệ thuật, một thú chơi tao nhã, đó là nghệ
thuật thư pháp, vẻ đẹp của thư pháp toát ra từ hình thức, đường nét cho đến nội dung
ý nghĩa của chữ. Người viết chữ không chỉ thể hiện tài hoa trong những nét chữ
phượng múa, rồng bay mà chủ yếu gửi gắm , bộc lộ những hoài bão, tâm nguyện,
khát vọng, ý chí của mình qua nghĩa chữ. Do vậy chiêm ngưỡng Chữ là chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của cái tài hoa , tâm hồn và khí phách.
Tài năng trong nghệ thuật thư pháp của Huấn Cao được Nguyễn Tuân thể hiện
bằng nhiều cách. Đầu tiên là gián tiếp qua những lời đồn đại, Huấn Cao chưa đến mà
tên tuổi và danh tiếng của ông đã đến trước trong sự ngờ ngợ của quản ngục. Bình
sinh ông mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân,
vậy mà cả vùng tỉnh Sơn đã biết tiếng về cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của ông.
Chữ của Huấn Cao còn được miêu tả trong những lời ca ngợi và niềm mong mỏi
khao khát của quản ngục: "Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông
Huấn mà treo là có được báu vật ở trên đời." Vẻ đẹp trong đường nét và ý nghĩa của
chữ còn được chính Huấn Cao khẳng định, đó là những nét chữ vuông tươi tắn nó nói
lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Và cũng chính tài năng phi
thường , xuất chúng của Huấn Cao đã lý giải được gì sao quản ngục lại kính trọng
ông đến thế, thậm chí dám bất chấp nguy hiểm để biệt đãi, để thổ lộ nỗi lòng và cuối
cùng, vứt bỏ cả sự thận trọng vốn có để vào phòng giam xin chữ tử tù, mong được
lưu giữ báu vật trên đời. Tài hoa của Huấn Cao đã khiến cho chữ của ông thậm chí
còn quý giá hơn cả mạng sống của con người.
2.2. Không chỉ tài hoa, Huấn Cao còn là con người có khí phách ngang tàng
Theo công văn nhận tù, Huấn Cao là người đứng đầu bọn phản nghịch chống lại
triều đình. Nhìn ở góc độ của nhân dân Huấn Cao là đẳng trượng phu chọc trời khuấy
nước, là con người dũng cảm, ngang tàng dám đứng lên chiến đấu chống lại cả một
thế chế xã hội tàn bạo, bất công.
Ngay khi vừa xuất hiện Huấn Cao đã gây một ấn tượng mạnh cho người đọc bằng
việc ông rỗ gông trước cửa nhà lao: " Huấn Cao , lạnh lùng, chúc mũi gông nặng,
khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng, đánh thuỳnh một cái".
Nét mặt lạnh lùng, cử chỉ mạnh mẽ, âm thanh của đầu chiếc thang gông đập xuống
nền đá, hình ảnh trận mưa rệp trên nền đá xanh... đó là những chi tiết đầy ấn tượng
phác hoạ hình ảnh một vị tướng ngạo ngược, ngang tàng. Thái độ ngạo nghễ ấy cho
thấy Huấn Cao có thể làm bất cứ điều gì ông muốn mà không hề đếm xỉa đến phản
ứng của ngục quản hay bọn lính.
Suốt nửa tháng ở nhà lao mới, trước cách cư xử kì lạ của quản ngục, dù có ngạc
nhiên, Huấn Cao vẫn "thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái
hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm". Nhưng nhận biệt đãi mà vẫn khinh bạc đến
điều, Huấn Cao không quan tâm đến bất kỳ ẩn ý nào có thể giấu bên trong cách cư xử
của quản ngục, cũng ko bận tâm đến bất kỳ sự trả thù nào sao khi bị sỉ nhục y. Với
Huấn Cao , dù là dụ dỗ, mua chuộc hay trả thù đều là vô nghĩa.
Bản lĩnh và khí phách của Huấn Cao đã thể hiện rõ nét trong cảnh cho chữ cuối
cùng. Không chỉ tư thế đĩnh đạc, đàng hoàng, chỉ riêng việc Huấn Cao dành đêm
sống cuối cùng của mình, bình thản viết chữ, cho chữ và khuyên bảo quản ngục, cứu
vớt một con người đã cho thấy ông đứng trên mọi sự sống chết ở đời.
2.3. Tài hoa và khí phách khiến Huấn Cao được người đời kính phục, song có lẽ ông
sẽ không thể được yêu quý ngưỡng mộ và nể trọng đến thế nếu không có một tấm
lòng nhân hậu, không biết trọng nhân cách , nghĩa tình.
Huấn Cao có tài viết chữ, nhưng ông đã khẳng định: "Ta nhất sinh không vì vàng
ngọc hay quyền thế mà ép mình giết câu đối bao giờ" . Với ông Huấn, mỗi bức tranh
chữ là một tác phẩm nghệ thuật quý giá, và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là
một thế giới cao khiết không có chỗ cho doanh lợi, càng không chấp nhận sự hèn
đớn. Đây cũng là quan điểm của chính Nguyễn Tuân, một nhà văn luôn đối lập nghệ
thuật với tính vụ lợi. Lời khẳng định của Huấn Cao cho thấy tiết tháo trong sạch, kiên
cường của một nhà nho tài hoa tài tử coi thường cả những cám dỗ vật chất lẫn sức
mạnh cường quyền. Với Huấn Cao, viết chữ là một việc cao quý thiêng liêng không
chỉ để thể hiện tài hoa trong nghệ thuật thư pháp mà quan trọng hơn là hộc lộ và gửi
gắm cái tâm, cái chí của mình, mà cái tâm và cái chí ấy thì chỉ có thể chia sẻ với
những người tri âm tri kỉ, đó là lý do giải thích vì sao mà "tính ông vốn khoảnh, trừ
chỗ tri kỉ, ông ít khi chịu cho chữ". Thực ra cái gọi là khoảnh trong tính cách của
Huấn Cao chỉ càng thể hiện sự quý trọng với bạn bè, sự trân trọng với cái đẹp, cũng
là với chính tài hoa, tâm trí của mình.
Quản ngục là viên tiểu lại giữ tù mà Huấn Cao từng khinh bạc đến điều, là kẻ đại
diện cho cái trật tự xã hội xấu xa tàn ác mà Huấn Cao đã chiến đấu chống lại, nhưng
quản ngục cũng là người khao khát có được báu vật trên đời là chữ ông Huấn, Huấn
Cao đã ngạc nhiên và bận tâm về sự biệt đãi kì lạ của quản ngục, tới khi biết được
tấm lòng biệt nhỡn liên tài và sở thích cao quý của quản ngục thì Huấn Cao thực sự
xúc động. Con người đứng trên mọi sự sống chết ở đời, con người coi thường cả
vàng ngọc và quyền thế, con người luôn cao ngạo, ngang tàng ấy đã phải thốt lên lời
than ân hận " Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Như vậy,
với Huấn Cao điều quan trọng nhất trong cuộc đời là tấm lòng. Người biết trân trọng
tấm lòng chắc chắn cũng phải có một tấm lòng. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã
được nâng lên rất nhiều khi ông không chỉ có tài hoa, khí phách mà còn có lòng yêu
cái thiện, trân trọng thiên lương của con người. Từ vị trí là kẻ thù , Huấn Cao đã coi
quản ngục là người tri kỉ, đã nhập quản ngục vào hàng những người bạn thân của
mình khi đồng ý cho chữ. Có thể thấy Huấn Cao không chỉ quý trọng cái đẹp , ông
còn quý trọng những con người biết yêu, biết trọng cái đẹp. Chính tấm lòng của
Huấn Cao đã đem đến cho ông một vẻ đẹp trọn vẹn, hoàn mỹ, vẻ đẹp của thiên lương
cao quý. Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã thể hiện một quan niệm thẩm mĩ
tiến bộ : tâm gắn liền với tài, cái đẹp gắn liền với cái thiện.
2.4. Cảnh cho chữ là cảnh tập trung rõ nét nhất các vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao
về cả tài hoa, khí phách, thiên lương.
Cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân khẳng định là một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có. Cảnh tượng phi thường ấy đã được miêu tả bằng bút pháp tương phản và
cảm hứng lãng mạn nhằm tôn vinh cái đẹp, cái thiện. Trong không khí trang trọng, cổ
kính của cảnh cho chữ, vẻ đẹp tài hoa, khí phách và thiên lương của Huấn Cao đã
được tập trung miêu tả sinh động, gợi cảm và toả sáng rực rỡ, quả thật, đây là một
cảnh tượng xưa nay chưa từng có bởi sự xuất hiện những yếu tố tương phản đầy ấn
tượng.
2.4.1. Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo tự do, nay người nghệ sĩ tài hoa đang say
mê tô từng nét chữ lại là một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Nghệ thuật
giúp cho cái đẹp bất tử, nhưng người sáng tạo nghệ thuật lại là một tử tù đang ở đêm
cuối cùng của cuộc đời, chỉ sớm mai, người phải vào kinh lĩnh án tử hình.
Nghịch lý xót xa ấy khiến cái đẹp trở nên mong manh, quí giá và giờ khắc tạo ra
cái đẹp càng trang trọng, thiêng liêng. Đó cũng là nguyên nhân tạo ra tâm thế kì lạ
của các nhân vật: hoàn thành việc cho chữ và xin chữ mà người cho không sung
sướng, người xin không mãn nguyện, cả hai bên đều ngậm ngùi, buồn bã. Hình ảnh
lửa rụng xuống nền đất ấm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo sau khi Huấn Cao
hoàn thành việc viết chữ gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về sự lụi tắt, không chỉ
của lửa đóm mà còn của một sinh mạng vĩ đại.
2.4.2. Tiếp nữa là sự tương phản xuất hiện trong hoàn cảnh sáng tạo nghệ thuật.
Người nghệ sĩ thư pháp thường viết chữ ở những thư phòng thanh sạch, cao khiết với
bạch lạp, hương trầm, nay Huấn Cao cho chữ quản ngục trong một buồng tối chật
hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Và chính
trong sự tương phản này lại hàm chứa những tương phản khác mang ý nghĩa sâu sắc,
khói tỏa như đám cháy nhà xua đi xú uế, ánh đuốc đỏ rực xua đi tối tăm, sự thanh
khiết cao quý tỏa ra từ tấm lụa trắng tinh, từ mùi thơm ở chậu mực xua đi những tầm
thường, dơ dáy chốn ngục tù.... Sự tương phản thứ hai cho thấy ý chí phi thường của
những con người yêu cái đẹp, dám vượt lên trên mọi sự nghiệt ngã chốn ngục tù để
sáng tạo, chiêm ngưỡng và lưu giữ cái đẹp, những con người giúp cho cái đẹp ngự trị
và tỏa sáng ngay chính nơi chốn của cái xấu, cái ác.
2.4.3.Sự tương phản sâu sắc nhất thể hiện trong vị thể của người tù và kẻ coi tù.
Trong đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân nhiều lần dùng hai chữ người tù
để gọi Huấn Cao, có lẽ đây cũng là dụng ý khắc họa đậm nét hơn sự tương phản:
người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng thì uy nghi, đàng hoàng, hiên ngang, đĩnh
đạc viết chữ và dạy bảo, khuyên nhủ; những người có nhiệm vụ giữ tù như thơ lại thì
run run bưng chậu mực, quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ đặt trên phiến lụa óng; thậm chí người tù sau khi viết xong còn đỡ viên quản
ngục đứng thẳng người dậy còn ngục quản sau khi nhận được chữ và những lời
khuyên bảo thì cảm động, vái người tù một vái. Trước cái đẹp, cái thiện, mọi trật tự
thông thường ở nhà tù đã bị đảo lộn, không còn người tù và kẻ coi tù; chỉ có Huấn
Cao, người cho chữ , người sáng tạo và ban phát cái đẹp, và quản ngục, thiên lương,
người xin chữ, người ngưỡng mộ và may mắn được tiếp nhận cái đẹp- và trật tự mới
giữa họ đã được thiết lập theo tiêu chí của cái đẹp, cái thiện. Cái đẹp cái thiện, cái
cao cả đã chiến thắng và toả sáng, bóng tối dơ dáy của ngục tù đã nhường chỗ cho
ánh sáng của cái đẹp cao khiết, của thiên lương trong sáng. Chi tiết Huấn Cao còn
cứu vớt cả một con người. Hình ảnh ngục quan cảm động, vái người tù.... nghẹn
ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" là sự minh chứng rõ nét cho sức mạnh cảm hoá
của cái đẹp , như sự khẳng định của một nhà văn nước ngoài: Cái đẹp sẽ cứu thế giới.
Hình ảnh một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm
lụa bạch cho thấy lòng yêu quý và trân trọng cái đẹp đã xóa đi mọi khoảng cách giữa
những con người vốn là đối địch. Họ đã cùng nhau hình thành một thế giới thanh
sạch cao cả, thế giới của cái đẹp, cái thiện, quay lưng lại thế giới của cái xấu, cái ác.
Chi tiết Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau càng cho thấy họ đã thật sự trở
thành những người tri âm bởi tình yêu cái đẹp và lòng hướng thiện.
2.4.4. Sự tương phản còn xuất hiện ngay trong những quan niệm nghệ thuật của
Nguyễn Tuân, trước 1945, Nguyễn Tuân được coi là nhà văn có tư tưởng duy mĩ và
quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật; nhưng trong thực tế sáng tác, và trong Chữ
người tử tù, Nguyễn Tuân lại thể hiện quan niệm thẩm mĩ rất tiến bộ. Là nhà văn tài
hoa, Nguyễn Tuân có sở trường và hứng thú đặc biệt khi miêu tả những vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ, nhưng cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân lại không hề miêu tả cụ thể đường
nét của chữ, thậm chí cũng không nhắc đến nội dung bức châm. Phải chăng nhà văn
đã kiềm chế hứng thú miêu tả, tôn vinh tài hoa để hướng tới khẳng định những giá trị
cao quý hơn tài hoa?
Các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng không bình luận về những dòng chữ đặc
biệt cao quý trên tấm lụa bạch như cách thưởng thức một bức tranh chữ hay một tác
phẩm nghệ thuật tài hoa. Căn cứ vào tâm thể xúc động kính cẩn của quản ngục và thơ
lại, căn cứ vào chính những lời khuyên bảo của Huấn Cao với họ, có thể nhận ra nội
dung bao trùm trong bức châm có lẽ không tách rời hai chữ Thiên Lương, bức châm
đã được chiêm ngưỡng như một biểu tượng của cái đẹp, cái thiện, của lẽ sống làm
người. Cảnh cho chữ, xin chữ đã trở thành nơi hội tụ của tài hoa, của nhân tâm cùng
sự tri âm tri kỉ trong hoàn cảnh ngục tù, quản ngục vốn chỉ có khát vọng xin chữ, vậy
mà ông ta đã được nhiều hơn cả sự mong mỏi, Huấn Cao không chỉ cho chữ mà cho
bài học làm người quý giá, trước khi đến với cái đẹp nghệ thuật phải giữ trọn cái đẹp
của thiên lương, cái đẹp không tách rời cái thiện. Việc Huấn Cao cảm tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của quản ngục mà đồng ý cho chữ là biểu hiện gắn kết giữa tài và tâm,
còn lời khuyên của Huấn Cao với quản ngục cho thấy quan điểm của Nguyễn Tuân
về sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện, không thể chiêm ngưỡng cái đẹp ở nơi
ngự trị của cái ác, không thể hướng tới cái đẹp cao cả ở chốn mà thiên lương khó giữ
cho lành vững
III. KẾT LUẬN
Truyện ngắn Chữ người tử tù đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của tác giả
Vang bóng một thời từ việc xây dựng hình tượng nhân vật tài hoa nghệ sĩ đến việc
phát huy cao nhất bút pháp tương phản trong miêu tả, từ nghệ thuật xây dựng tình
huống đến tạo không khí cổ xưa cho tác phẩm, từ việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính
tạo hình, có nhịp điệu đến việc tô đậm những tính cách phi thường, xuất chúng tạo ấn
tượng sâu sắc tới người đọc. Ca ngợi vẻ đẹp của Huấn Cao, con người hội tụ cả tài
hoa, khí phách và thiên lương, truyện ngắn vừa thể hiện quan niệm thẩm mĩ tiến bộ
của Nguyễn Tuân vừa ngầm lên án một xã hội tàn bạo không dung nạp, chấp nhận
cái đẹp, người tài. Đó cũng là cách để nhà văn kín đáo bày tỏ sự bất bình với trật tự
xã hội đương thời.

You might also like