You are on page 1of 155

đường thì trâu bị bệnh, không kéo xe được nữa, hai người

Văn bản: TÂY TIẾN phải bán trâu và xe đi.


-Quang Dũng-
Ông bạn họa sĩ đồng hành nản lòng, bỏ về Bắc. Quang Dũng
một mình, sang xe lửa tiếp tục vào Nam. Khi đến tận Sài
Bài thơ tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Gòn, nhà thơ lại đáo sang Campuchia, rồi cuối cùng quay về
Quang Dũng, giúp nhà athơ này Hà Nội. Sau đó, vì mê cách mạng, Quang Dũng sang Trung
đến gần hơn với bạn đọc. Đồng thời là thi phẩm tiêu biểu của Quốc để tìm cách mạng hoạt động nhưng cũng không xong
thơ ca kháng chiến chống Pháp. nên đành trở lại quê nhà. Với gia đình, vốn có thể lực khỏe
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói mạnh, Quang Dũng gánh vác hết mọi công việc nặng nhọc
Quân đi lớp lớp động cây rừng trong nhà, lúc nào cũng thể hiện sự quan tâm và lòng yêu
thương vợ con.Với bạn bè, nhà thơ Quang Dũng rất nể trọng
Và bài thơ ấy con người ấy
và thường lui tới với các văn nghệ sĩ nổi tiếngnhư Nguyễn
Vẫn sống muôn đời với núi sông” Đình Thi, Văn Cao, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Trần Lê Văn, cô
(Giang Nam) Xuân Quỳnh, họa sĩ Phan Kế An... Nhà cửa đơn sơ trang trí
với vài bức tranh trên vách do Quang Dũng vẽ bằng mực tàu.
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Quang Dũng Cả nhà thường ăn uống đạm bạc. Theo lời người con gái út
Từ khóa - Đa tài Bùi Phương Thảo, nhiều khi khách đến chơi nhà, chỉ có vài
- Đề tài: người lính và quê hương đĩa đậu phộng, đậu nành để tiếp khách nhưng mọi người vẫn
trò chuyện nhau vui như bắp rang.
- Phong cách thơ: Hồn hậu, phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa
(Nguyễn Thanh - Trích vanchuongviet.org)
- Nhà thơ - chiến sĩ
- Tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp II. THÔNG TIN TÁC PHẨM
Quang Dũng được biết đến trong nền văn học Việt Nam hiện Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác vào năm 1948 - Khi tác giả
đại là một người nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, đi tham dự Đại hội thi đua ở làng Phù Lưu Chanh.
viết kịch, viết truyện... thứ gì người nghệ sĩ này cũng làm giỏi Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của bài thơ
cả. Trong quá trình sáng tác thơ của mình, thơ ông nổi bật như sau:
với sự hồn hậu, phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa. Ông là một ● 1947: Quang Dũng ra nhập binh đoàn Tây Tiến từng giữ
trong số những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chức vụ đại đội trưởng.
chống Pháp. Quang Dũng cũng coi trọng sứ mệnh cao quý ● 1948: Sau đó 1 khoảng thời gian không lâu điều chuyển
của nghệ thuật văn chương nên rất đố kỵ với hạng nhà giàu sang đơn vị khác.
muốn đánh đổi tác phẩm văn chương bằng tiền bạc. Khi nhận ● 1948: Tham gia Đại hội thi đua ở Phù Lưu Chanh, bao
được thư của một đại gia mời nhà thơ nổi tiếng đến tận nhà nhiêu nỗi nhớ về những người đồng chí, đồng đội của mình
sáng tác thơ để được biếu tiền, Quang Dũng không ngại từ đã thúc giục Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến.
chối và chua chát “Văn chương chữ nghĩa rẻ rúng đến thế Bài thơ này ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng sau khi
ư?” in lại đã được tác giả đổi tên thành “Tây Tiến” (1957)
Dù nổi tiếng, nhà thơ Quang Dũng rất chân chất, khiêm tốn, *Thông tin về binh đoàn Tây Tiến: Tây Tiến là một đơn vị
sống đạm bạc và không thích khoa trương hoặc nói về mình, quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với
tác phẩm của mình. Trong trò chuyện, quan hệ giữa bạn bè, quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ
ông hay lắng nghe người khác nói, hơn là đặt vấn đề dù ai trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong
cũng biết Quang Dũng có vóc ngườitầm thước, đẹp trai và đó có nhiều học sinh, sinh viên(như nhà thơ Quang Dũng).
rất giỏi về văn nghệ. Là một trong những nhà thơ nổi tiếng Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa
nhất Việt Nam, các tác phẩm của Quang Dũng được thừa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào), trong những
nhận như là một sự khác biệt hoàn toàn trong phong trào thơ hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét
mới những năm 1932-1945. hoành hành dữ dội, nhưng "họ sống rất lạc quan và chiến đấu
dũng cảm”.
Câu chuyện thú vị về Quang Dũng:

Người ta hay nhắc lại tính mê chủ nghĩa xê dịch kiểu Nguyễn
Tuân của tác giả Tây Tiến. Nhà văn Đỗ Chu, trong một lần
hợp mặt bạn văn kháng chiến đã bật mí về một quãng đời đầy
chất lãng mạn của Quang Dũng. Nhà thơ rủ một người bạn
họa sĩ nổi tiếng ở Thủ đô, tạo một chiếc xe trâu định hành
phương Nam. Trên đường đi, hai người định kiếm ăn độ nhật
bằng cách ghé vào những nơi phố xá, chỗ đông người vẽ
tranh bán vì Quang Dũng cũng là một tay vẽ giỏi. Đi giữa
Những tháng học ở trường, tôi nhớ mãi hình ảnh vị giáo sư
quân sự người Nhật như một kiểu mẫu sĩ quan mà chúng tôi
mơ ước và kính nể. Giáo sư có cái tên Việt Nam là Lâm Sơn.
Để hiểu rõ hơn về tác giả Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến", Đại tá Lâm Sơn. Ông là sĩ quan cao cấp trong Bộ chỉ huy,
các em có thể tham khảo bài báo dưới đây được ghi lại bởi thành lập từ ngày đầu kháng chiến. Giáo sư lên lớp bằng
VŨ VĂN SỸ (GHI THEO LỜI KỂ CỦA NHÀ THƠ tiếng Nhật, có người thông ngôn. Giọng ông sang sảng nghe
QUANG DŨNG) đầy
Đối với tôi, những ngày Tây Tiến không hẳn là những ngày in uy quyền. Kỷ luật trong trường quân sự hồi đó rất nghiêm
kỷ niệm sâu sắc hơn cả. Nhưng có lẽ nhiều người hay hỏi về khắc, nếu như bây giờ có thể gọi là “quân phiệt”. Giờ học đã
bài thơ Tây Tiến của tôi viết ở giai đoạn này. đành, giờ nghỉ cũng rất “khuôn phép”. Có lần tôi uống cà
Tôi nhập ngũ đúng ngày Cách mạng tháng Tám thành công. phê
Năm đó tôi hai mươi sáu tuổi. Trước cách mạng, tôi học Ban về muộn, cảnh vệ bắt được, cứ lo như ngày nhỏ trốn học bị .
trung học trường Thăng Long. Tốt nghiệp, tôi đi dạy học Anh biết sau đótôi bị phạt thế nào không? Sáng thứ hai đầu
tư ở Sơn Tây để kiếm sống. Những ngày đầu vào quân đội, tôi tuần, sau lúc chào cờ, đại tá bắt tôi bò bốn vòng quanh cột
nhận công tác ở Phòng công vụ Bắc Bộ. Phòng này cờ. Tôi bò một cách tự giác, bởi nghĩa rằng , đã mặc áo lính
do anh Nguyễn Văn Chân phụ trách. Tôi làm phái viên của tất phải chịu những hình phạt đại loại như thế, nếu như mình
phòng, có nhiệm vụ đi thu mua vũ khí ở vùng Hà Nam – Sơn vi phạm kỉ luật.
Tây. Thấy tôi có chút học hành, lại yêu mến văn chương, anh Có lần Bác Hồ đến thăm trường. Tôi nhớ Bác còn nói cho
Chân liền giới thiệu tôi lên chiến khu làm công tác báo chí. chúng tôi nghe một cuốn sách viết về chiến tranh du kích.
Ngày đó văn hóa, văn nghệ, báo chí, tuyên truyền trong quan Vốn giàu óc tưởng tượng về hành động chiến đấu của người
niệm và cả trong công việc, ranh giới không rõ. Như vậy là lính, tôi rất thú hình ảnh người du kích. Bac nói: “lại vô ảnh,
“sựnghiệp” văn chương của tôi bắt đầu bằng nghề báo. Tôi khứ vô hình”, nghĩa là đến và đi không ai thấy. Chỉ nội mấy
trở thành phóng viên tiền phương của tờ báo Chiến đấu thuộc cái âm chữ Hán, đọc lên nghe đã xuất quỷ nhập thần rồi,
Khu II. Tờ báo do anh Văn Phác phụ trách, sau này, anh Văn chưa
Doãn lên thay. nói đến việc vận dụng nó vào chiến thuật quân sự.
Tôi yêu thơ và làm thơ hoàn toàn ngẫu nhiên. Thời đi học tôi Hôm bế mạc lớp, đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu
rất mê Đường chi tam bách thủ, nhất là những bài dịch của trưởng quân đội, và đồng chí Đàm Quang Trung, có đến dự
nhà thơ Tản Đà. Tôi cũng say thơ mới như bất cứ một học và nói chuyện. Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây Tiến, tức
sinh nào thời đó. Nhưng tôi thích thơ Thế lữ hơn cả, đặc biệt là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn làm Trung đoàn trưởng. Tôi
bài Nhớ rừng, bởi tâm trạng sơn dã của nó. Một nhà văn nữa ở đại đội bộ, làm đại đội trưởng. Tiểu đoàn 212 của tôi là
là Thạch Lam. Thạch Lam không chỉ viết văn mà còn dịch tiểu đoàn trước đây đã từng làm náo động các sân bay Cát
những bài thơ văn xuôi của Pháp. Và có lẽ tôi tiếp thu được Bi, Bạch Mai... bây giờ chuyển sang nhận nhiệm
gì ở thơ ca Pháp ngày ấy, cũng do đọc các bản dịch này. Khi vụ Tây Tiến.
làm công tác báo chí tôi lại càng thấy thích văn phong của Tây Tiến là một chiến dịch tiến quân từ Khu III, Khu IV lên
Thạch Lam. Hà Nội ba mươi sáu phố phường của Thạch Lam Khu X tức là Tây Bắc, vùng Điện Biên Phủ. Đây là chiến dịch
là một tập bút ký giàu chất thơ. Nhưng phải nói đến một cuốn có ý nghĩa chiến lược. Năm 1945 khi khắp nơi nổi dậy
tiểu thuyết của nhà văn Nga Gôgôn: Tarax Bunba. Tôi cướp chính quyền thì nhân dân vùng này nhiều nơi vẫn chưa
yêu những con người Cô dắc dũng cảm, yêu tự do, sống được giác ngộ cách mạng. Năm 1946, trung đoàn Sơn La có
phóng khoáng, gắn bó với thanh gươm, yên ngựa và những đánh vào Tây Bắc, nhưng mới chỉ có ý nghĩa thăm dò. Đầu
chiến công trên những thảo nguyên mênh mông như những năm 1947 ta thành lập Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm
chiến khu di động chống lại bọn phong kiến xâm lược bảo vệ các chiến sĩ tình nguyện của Khu III, Khu IV và tự vệ Thành
nền độc lập dân tộc. Tôi thấy có một sự đồng cảm nào đó Hà Nội trước thuộc Trung đoàn Thủ đô. Đợt Tây Tiến đầu
giữa mình với các nhân vật của truyện. Sau này đi Tây Tiến, tiên, ta đánh sâu nhưng phải rút lui ngay, vì lực lượng địch
tôi vẫn còn mang Tarax Bunba theo trong ba lô của mình. tập trung và mạnh. Tôi đi đợt hai. Nhiệm vụ của chúng tôi là
Tôi ở báo Chiến đấu đến đầu năm 1947 thì được điều đi học mở đường qua đất Tây Bắc. Một nhiệm vụ không kém phần
Trường bổ túc Trung cấp (tức Trường bổ túc trung cấp quân quan trọng là công tác dân vận gây dựng cơ sở, tranh thủ sự
sự Sơn Tây). Trường chuyên bổ túc kỹ thuật quân sự cho giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ đại đội
cán bộ chuẩn bị nhận nhiệm vụ chiến đấu mới. trưởng, tôi còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào -
Việc mặc áo lính, và là một cán bộ trong quân đội, đối với tôi Việt.
ngày ấy có ý nghĩa thiêng liêng và tự hào lắm. Giai đoạn này Hà Nội đang có tiếng súng ở ngoại thành.
Chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây. Lúc đầu rất đàng hoàng đi
bằng ô tô, các ôtô nổi tiếng lúc bấy giờ như của hãng Con
Thỏ, Trung Hà, Từ Đường, Mỹ Lâm... đều được Chính phủ Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, tôi về làm trưởng
công làm nhiệm vụ quân sự. Chúng tôi đi qua đường số 6 qua tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52... Rồi làm trưởng
suổi Rút. Thị trấn Hòa Bình năm ấy còn tự do. Sau, chúng tôi đoàn Văn nghệ Liên khu III.Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ.
chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Còn cái trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như sau nàyđược
Tiến: ăn rừng, ngủ rừng. phân chia, bổ sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.
Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, Nhận xét về tác giả và tác phẩm
những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường 1. “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến,
Hịch cọp trêu người”, rồi rải rác dọc biên cương những ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập
như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. - Vũ Quần Phương
“nấm mồ viễn xứ”... tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất
2. “Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng,
thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ, mà sau một bài thơ được kỷ niệm 60 năm ngày sáng tác (năm 2008), một bài
này vô tình tôi mới nhận ra... trong bài thơ Tây Tiến, tôi còn thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường
viết “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc”. Hồi ấy trong đoàn tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong
chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”. - Nhà phê bình văn học
gian khổ, thiếu thốn, mình lại không giữ vệ sinh, và lại có giữ Nguyễn Xuân Nguyên
cũng chả được, nên bộ đội không những bị ốm, mà còn chết 3. Nhà thơ Quang Dũng khu biệt độc lập như một ốc đảo cheo leo giữa
biển khơi xa vắng và lẻ loi hiu quạnh như một vì sao cô độc trong
vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân, cứ mỗi
không gian văn chương kháng chiến, nhưng là một người thơ (2) tài
lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà trưởng năng hiếm hoi, không khác chi một loài hoa lạ ngan ngát hương rừng.
thôn để tiễn một con người vĩnh biệt rừng núi. Tiếng cồng ở Với những bài thơ xuất sắc được nhiều người, đa phần là sinh viên
Tây Tiến thật buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi học sinh và cả những chiến sĩ cách mạng và lính cộng hòa ưa thích,
vẫn nghe văng vẳng tiếng cồng. Anh Như Trang hồi ấy là tiểu Quang Dũng, tác giả “Tây Tiến” xứng đáng là ngòi bút thơ áo lính tài
đoàn phó, có viết ca khúc tiếng cồng quân y là vì vậy. hoa trong thi đàn dân tộc. - Nguyễn Thanh
4. Nhà thơ Quang Dũng như "bóng mây qua đỉnh Việt" và là một áng
Đối với miền Tây, gay nhất là thuốc, vì đường tiếp tế rất khó.
mây bay qua sông núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá
Tôi nhớ có lần được thuốctừ Khu II gửi lên. Cụ Thi Sơn trong cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy. - Nhà thơ Vân Long
Mặt trận Liên Việt tặng thuốc (nguyên cụ Thi Sơn là tướng 5. “Quang Dũng cũng là một cây bút năng nổ, người ta còn nhớ tên bài
của Đề Thám). Trong buổi lễ trao thuốc long trọng này, Anh bút ký ‘Xiếc khỉ’ của ông nhưng cần biết rằng bài đó nằm trong cả loạt
Hồng Thanh, chính uỷ Trung đoàn, đã thay mặt bộ đội nhận bút ký mà Quang Dũng gọi là “tập ảnh” về các sinh hoạt văn hóa văn
thuốc. Anh còn làm cả thơ. Tôi còn nhớ mấy câu: nghệ ngoài đời thường của dân thường ở vùng Hà Nội đương thời.”
Một buổi sớm mọi người đều hoan hỉ - Lại Nguyễn Ân
6. “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc
Từ bệnh nhân đến bác sĩ đều vui
câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí
Vì được tin kháng chiến chiến Khu II tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc
Vừa gửi tặng 3.000 viên thuốc sốt... binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ.“
Không hiểu cảm động vì có thuốc hay vì nghe thơ, mà anh - Nhà thơ Phan Quế
Hồng Thanh đọc xong, ai cũng rưng rưng nước mắt... 7. “Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được
Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy
não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt
gian khổ, thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống,
của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc
nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội
thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự
ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến
đã ngã xuống giữa đường. Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm
Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh (thuộc hưởng chủ đạo của bài thơ này...” .
– Vũ Thu Hương, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng
tỉnh Hà Đông cũ nay thuộc về Hà Nội). Tôi làm thơ rất
8. “... Tây Tiến- tượng đài bất tử về người lính vô danh...”
nhanh, làm xong đọc trước Đại hội, được mọi người hoan
- Vũ Thu Hương
nghê liệt nhiệt. Nhân có Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu nhà 9. “... Tây Tiến ... nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi
văn rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ
ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng
cho in ngay ở Tạp chí Văn nghệ. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây
của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút lý luận gì về Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ... Tất
cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi
thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào khí của lãng mạn
tên...”. – Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng
một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc... 10. “...Tây Tiến- sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn”
Từ Tây Tiến trở đi tôi làm nhiều thơ hơn. Các bài Đường - Đinh Minh Hằng
mươi hai, Ngược đường số 6, Đôi mắt người Sơn Tây cũng là 11. “... Tôi làm bài thơ này rất nhanh. Làm xong, đọc trước đại hội
những bài thơ mà tôi thích. được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc
của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả chút lị luận gì về thơ cả...” - ● Đặc tả độ cao của núi rừng núi Tây Bắc
Quang Dũng ● Chất lính: sự dí dỏm, vui nhộn, lạc quan, yêu đời
● Núi: cao thì cao vời vợi
● Vực: sâu thì sâu thăm thẳm
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM

Bố cục phân tích: - Đối: lên, xuống ; ngàn thước: khoảng cách lớn
=> Hiểm trở => Người đọc giống như đang “chơi 1 trò bập bênh
1 14 câu thơ đầu: Hình ảnh người lính Tây Tiến 2-2 -4 -2–2-2 chóng mặt”
gắn liền với thiên nhiên miền Tây và những - Nơi đèo cao, dốc đứng, người lính đưa tầm mắt nhìn về những
chặng đường hành quân gian khổ.
bản làng
2 8 câu thơ tiếp: Kỷ niệm về đêm liên hoan văn 4-4
nghệ đốt lửa trại và buổi chiều sông nước Tây + Hình ảnh những nếp nhà Pha Luông ẩn hiện trong làn mưa
Bắc mênh mang, mờ ảo. + Gợi ra sự bình yên trong chính cảnh vật và trong cả tâm hồn
3 8 câu thơ tiếp: Hình tượng người lính Tây Tiến 2-2-4 người lính.
hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. => Quang Dũng kéo người đọc trở về với sự cân bằng.
4 4 câu thơ cuối: Khúc vĩ thanh 2-2  Câu: 2 câu tiếp
- Sự đe dọa nơi “rừng thiêng, nước độc"
1. 14 câu thơ đầu: Hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền + Thác gầm thét => Thiên nhiên rất dữ dội, hung bạo
với thiên nhiên miền Tây và những chặng: + Cọp trêu người => Sự đe dọa của thú dữ
=> Biện pháp tu từ nhân hóa => Sự nguy hiểm nơi rừng núi Tây
Kiến thức khái quát: Bắc mà trực tiếp những người lính Tây Tiến phải đối mặt.
 Câu: 2 câu đầu  Câu: 2 câu cuối
- Mở đầu bài thơ bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến. - Kéo lại sự cân bằng cho người đọc với những hình ảnh thật
- Các hình ảnh xuất hiện trong câu thơ: mềm mại, nhẹ nhàng
+ Hình ảnh dòng sông Mã - Con sông gắn với chặng đường hành
+ “Nhớ ôi Tây Tiến”: Trực tiếp thể hiện cảm xúc - Nỗi nhớ:
quân, gắn với những kỷ niệm của binh đoàn Tây Tiến
+ Hình ảnh binh đoàn Tây Tiến - Nỗi nhớ trực tiếp hướng tới Nhớ về những bản làng trong khói bếp ban chiều.
binh đoàn Tây Tiến => Một hình ảnh rất đẹp, rất bình yên, rất tình (tình cảm của
=> Nhận ra tất cả đã “xa rồi", chỉ còn trong kỷ niệm. Từ “xa rồi” người chiến sĩ với đồng bào).
là điểm rơi thấp nhất của câu thơ, gợi ra một khoảng hụt hẫng. + Mai Châu: Địa danh với tên gọi gợi ra sự thanh thoát,
- Nỗi nhớ được đề cập đến: “nhớ về rừng núi" - nhớ thiên nhẹ nhàng đi kèm với hình ảnh “thơm nếp xôi" tạo ra
nhiên Tây Bắc.
những dư vị cảm xúc bình yên trong tâm hồn người đọc.
- “Nhớ chơi vơi" - Nỗi nhớ thật đặc biệt có thể hiểu theo ý
nghĩa: + “Mùa em” - Mùa của sự đủ đầy, “mùa con ong đi lấy mật,
+ Đang đứng giữa lưng chừng nỗi nhớ, một nỗi nhớ con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm
da diết, mênh mang nương” mùa ta gặp nhau, mùa trao yêu thương, vương
+ Nỗi nhớ quá rộng không biết đi về nẻo nào của luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi không quên.
nỗi nhớ thương => Một mùa thật lạ, thật đẹp, thật tình.
- Gieo vần “ơi” - âm mở, tạo ra dư ba cho câu thơ.  Nhận xét:
 Câu: 2 câu tiếp
Hình ảnh người lính Tây Tiến trên những chặng đường hành
- Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn là mốc không gian địa
gian khổ đã được Quang Dũng tái hiện trên phông nền của
lý nay trở thành mốc thời gian lịch sử, in dấu những kỷ niệm của
thiên nhiên miền Tây: hiểm nguy, dữ dội, gập ghềnh nhưng
một thời chiến binh.
cũng có những khung cảnh trữ tình, lãng mạn, bình yên.
- Hình ảnh người lính Tây Tiến:
Thiên nhiên không làm con người trở nên nhỏ bé, thiên nhiên
+ Sài Khao: Hình ảnh đoàn binh mỏi mệt đi giữa một biển
tôn vinh con người và khiến con người trở nên đẹp hơn bao
sương mờ phủ lấp
giờ hết.
+ Mường Lát: Xóa tan đi sự mệt mỏi, cân bằng lại với
hương thơm của hoa rừng nở về đêm.
+ Dùng từ ngữ rất tinh tế: “hoa về”, “đêm hơi”
 Câu: 4 câu tiếp
- Đặc tả sự dữ dội và bình yên của thiên nhiên Tây Bắc
+ Dốc: khúc khuỷu, thăm thẳm => Từ láy: Địa hình gập ghềnh,
hiểm trở, gấp gãy => Khó đi; “Đèo cao, dốc đứng".
+ Đặc tả độ cao: Cồn mây heo hút - Hình ảnh: những người
lính Tây Tiến đang hành quân qua những đồi núi chập chùng,
núi cao tới nỗi súng có thể chạm vào mây.
+ Hình ảnh “súng ngửi trời": sử dụng BPTT nhân hóa với
mục đích:
Phân tích chi tiết: kỷ niệm trong bao chặng được hành quân vất vả. Và ở câu thơ
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời tiếp theo này, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương
chiến binh, ta chợt nhận ra, “Tây Tiến” được bắt đầu bằng 1 lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình
tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến như thế: ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song
Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả
sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những
nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha Tây tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi khiến cho toàn bộ cảnh thực
Tiến ơi! – Đó cũng chính là cách mà Quang Dũng mở đầu bài chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trung, tâm trí người
thơ của mình. Cảm xúc hiện hình trong nỗi nhớ chơi vơi. Đó vừa đọc. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc
là trạng thái của nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật được trở về với sự cân bằng. Không gian được liên tưởng tới là
nhớ. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương
mà đồng hiện trong nỗi nhớ chơi vơi ấy. Nỗi nhớ trở thành cội đêm, hoa nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước chân giữa
nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi phẩm. đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức
Mạch bài thơ là mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những mạnh. Quang Dũng quả thực dùng từ rất tinh tế. Là hoa về chứ
sực nhớ miên man, những vụt hiện bất chợt... Cũng từ đây nỗi không phải hoa nở, là đêm hơi chứ không phải đêm sương, cách
nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến đâu muôn dùng từ này khiến người đọc cảm thấy được sự nhẹ nhõm
vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ của không gian. Bao nhiêu mỏi mệt từ đó mà tan biến. Cũng với
mà những hình ảnh của những ngày qua cồn cào sống dậy. hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống
Chính nỗi nhớ chơi vơi đã dẫn ngòi bút tác giả đi miên man Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:
trong thế giới thơ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể “Những đường Việt Bắc của ta,
nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, Đêm đêm rầm rập như là đất rung
hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng gọi hối Quân đi điệp điệp trùng trùng
thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
âm vang của cả thời đại, của cả dân tộc trong những năm đầu Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành
của cuộc kháng chiến chống Pháp. của người lính ra trận. Còn trong thơ Quang Dũng, bối cảnh
Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh
sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động gắn với sóng đôi của sự trái ngược:
1 đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây Tiến “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
cũng đã xa rồi, tất cả chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có thể Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
thấy từ “xa rồi” cũng chính là điểm rơi thấp nhất của câu thơ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
này, nó giống như 1 khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm chỉ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của 1 bài thơ tứ tuyệt, đặc tả
xúc đong đầy. bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong
không gian nhiều chiều. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập
Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên ghềnh cũng được vẽ ra 1 cách chân thực ở đoạn thơ này. Ta như
Tây Bắc, về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Giữa nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao
khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc
diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho khuỷu dốc thăm thẳm". Những con dốc là hình ảnh đầu tiên
phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi được đề cập tới. Những con dốc được miêu tả bằng từ láy tượng
vơi”. Chỉ với 2 câu thơ đầu tiên, những ký ức gắn với binh đoàn hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng
đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành liên tưởng tới địa hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên
quay về với những ký ức, nhà thơ Quang Dũng thêm 1 lần đi lại tiếp nối nhau, con đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa
những con đường đã qua. Dọc theo khúc độc hành của nỗi nhớ nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ 2 miêu tả độ cao
thương, thi nhân tìm về những miền đất gắn với kỷ niệm một đời của những ngọn núi nơi đây:
chiến binh: Heo hút cồn mây súng ngửi trời
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với
Mường Lát hoa về trong đêm hơi” những khoảnh khắc tinh nghịch, dí dỏm, đậm chất lính. Đường
Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha trìu mến ấy, mạch chảy hành quân dài thăm thẳm muôn trùng, có khoảnh khắc đi lên
dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan tỏa như mỗi chuỗi cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là
kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Hai nguyên cớ có hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”.
địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian
địa lý in đẫm kỷ niệm của một thời chiến binh, nay trở thành
mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những
Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng
chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình “Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần
ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này chứng tỏ thác dữ, thú rừng không
hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng. Nó rất giống với phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào
liên tưởng trong thơ của Chính Hữu: cũng như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người
“Đêm nay rừng hoang sương muối lính trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt
Đầu súng trăng treo” hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn
Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét tinh nghịch của anh nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về
bộ đội cụ Hồ chính là điểm nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng Mai Châu xinh đẹp:
lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
câu thơ tiếp theo: Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người những bữa ăn của đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để
lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn thấy vương vấn đâu đây nếp
chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Trong bài
với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:
"ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", khiến người đọc dường Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
như đang chơi 1 trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao vời Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của 2 vế Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
tiểu đối sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.
núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn 1 địa danh
đe dọa bởi địa hình hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của có tên nghe thật mềm mại, êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu”
con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông: nếu như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng “Lai
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần. Đặc
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ biệt lưu ý, ở trong câu thơ cuối có 1 danh từ nghe rất lạ, đó là
nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo “mùa em”. Đất trời có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong
cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những chặng những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng lại có 1 mùa thật lạ đó
đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút là mùa em. Mùa em là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi
được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy, người chiến binh Tây xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta
Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình hay không? gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi
sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính đủ đầy.
dẫn chặng đường hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, Khái quát:
sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong
không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt
trong những vần thơ của mình: những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau,
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến.
Nhà thơ nói về " anh bạn " là nói về những đồng chí, đồng đội Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những
của mình, ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm
tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ "gục" có phần nặng và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và
nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình ảnh nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh
"bỏ quên đời". Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những
nhàng và thanh thản. Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng trai Hà Nội. Có người
và con người tạo nên 1 sự đối chiếu thầm lặng để rồi từ đó tôn nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên
vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé trước bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp
thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của
phía, mọi nơi. nhân dân ta.

Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người
lính còn bị đe dọa bởi thác
dữ, thú rừng:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
2. 8 câu thơ tiếp: Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa Phân tích chi tiết:
trại và buổi chiều sông nước Tây Bắc mênh mang, mờ ảo: 4 câu đầu: Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại ấm
áp tình quân dân
Kiến thức khái quát:
 Câu: 4 câu đầu Khi nỗi nhớ đã thành vần thành điệu, khoảng cách để trở về bắt
Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại. lấy những ký ức đẹp đẽ chỉ cần một thoáng chốc. Và cứ thế,
- Doanh trại: Nơi sinh hoạt và chiến đấu của những người lính trong suốt dọc chặng đường tìm về muôn nẻo nỗi nhớ, niềm
- Từ “bừng” - nhãn tự của câu thơ, khiến người đọc liên tưởng thương của một thời chiến binh gian khổ, Quang Dũng đưa
tới một nguồn sáng bất ngờ, đột ngột. người đọc trở về với đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại thấm
- Cụm từ “hội đuốc hoa” gợi ra không khí của lễ hội đẫm tình người, tình đời:
- Tiếng reo vui “kìa em” thể hiện niềm vui, sự bất ngờ khi nhìn “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
thấy những cô gái dân tộc xúng xính trong bộ xiêm ý lộng lẫy. Hình ảnh tiếp theo được gợi nhắc trong những vần thơ là “doanh
- Đêm liên hoan văn nghệ trong tiếng nhạc dập dìu - âm thanh trại” - nơi chiến đấu, sinh hoạt gắn bó với biết bao kỷ niệm tươi
của tiếng kèn. đẹp của một thời chiến binh. Đêm ấy, sau những chặng đường
- Có những vũ điệu của quân và dân hành quân gian lao, vất vả, buổi liên hoan văn nghệ cùng đồng
- Ánh sáng, âm nhạc, tình người đã đưa tâm hồn người lính trở bào Tây Bắc đã diễn ra trong niềm vui hân hoan, háo hức. Từ
về miền đất lạ và xây nên những hồn thơ “bừng” giống như nhãn tự của câu thơ này bởi chỉ với một từ
 Câu: 4 câu tiếp duy nhất cả không gian núi rừng Tây Bắc đen tối, âm u nay tràn
Buổi chiều sông nước Tây Bắc mênh mang, mờ ảo ngập ảnh sáng ấm áp của ngọn lửa, xua đi giá lạnh, xua đi những
- Không gian: sông nước Châu Mộc mệt nhọc vất vả hiểm nguy nơi chiến trường vừa qua. Chỉ một từ
- Thời gian: Chiều sương ngữ xuất hiện, mở ra một không gian ánh sáng cho cả câu thơ.
- Người đi: Chiến binh Tây Tiến Ánh sáng ấy được bắt nguồn từ những ngọn lửa, theo cách “lãng
- Người ở lại: đồng bào Tây Bắc
mạn anh hùng” nhà thơ gọi đó là “đuốc hoa” – hình ảnh của
- Câu hỏi tu từ: có thấy, có nhớ thiên nhiên nơi đây và
con người nơi đây hay không? những ngọn đèn xuất hiện trong những lễ hội trang trọng. Phải
- Hình ảnh đối lập “dòng nước lũ - hoa đong đưa”: chăng, không khí của đêm liên hoan văn nghệ này cũng chính là
Hình ảnh cánh hoa trôi trên dòng nước lũ thật thơ mộng, sự rạo rực, tưng bừng, tươi vui, hân hoan như những ngày lễ hội
thể hiện góc nhìn lãng mạn của người chiến binh thủa ấy. của nhân dân miền núi cao Tây Bắc.
 Nhận xét: Cả doanh trại bừng sáng bởi ánh lửa bập bùng, Quang Dũng viết
Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách tiếp những dòng thơ:
dùng điệp từ và câu hỏi tu từ khéo léo đã quyện hoà với nỗi “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ Điểm nhìn thay đổi, không gian rộng lớn của núi rừng hay ánh
về đồng đội, đồng bào và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả sáng bập bùng của những ngọn lửa giờ đã chuyển sang hình ảnh
tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm hồn một người chiến sĩ của những cô gái dân tộc xúng xính trong xiêm y lộng lẫy.
thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. “Kìa em” - cụm từ này được sử dụng thật giống với một tiếng
reo vui bởi sự xuất hiện đột ngột, bất ngờ của những người con
gái đó. Họ ngạc nhiên và có đôi chút ngơ ngác bởi trong đôi mắt
của những chàng trai Hà Nội lúc bấy giờ là hình ảnh của những
cô gái Thái, cô gái Lào xinh đẹp, giàu sức sống, họ mang theo
bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình cùng với đó là
những tình cảm quân dân thật đáng trân trọng dành cho những
người cách mạng.
Không gian núi rừng đang say theo tiếng nhạc, những bom đạn
của chiến tranh vốn dĩ chẳng thể giết chết tâm hồn của những
chàng trai Hà Nội lãng mạn, tài hoa. Họ yêu nước, yêu đời,
yêu người và luôn giữ cho mình một điều rất riêng biệt đó là
chất thơ:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đêm liên hoan văn nghệ có ánh sáng, có âm thanh của tiếng
khèn - nhạc cụ đặc trưng của những dân tộc miền núi cao Tây
Bắc thêm vào đó còn là những vũ điệu của tình người, tình quân
dân. Tình cảm đẹp đẽ ấy, có phải đôi lần hay là rất nhiều lần ta
đã gặp trong thơ:
chăng? Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung
linh huyền hoặc: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và
“Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm “hoa đong đưa”. Cảnh vật hiện lên qua nét vẽ của Quang Dũng dù rất
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi, rất thơ, rất thi sĩ, rất đậm
chất lãng mạn của người lính Hà thành:
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm” Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về
Để rồi: biết bao kỷ niệm của một thời đã xa. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm lau tưởng như vô tri vô giác cũng mang hồn. Cách nhân hoá có thần đã
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ mộng hơn. Thiên nhiên mang
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay bởi nơi đây còn
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận tinh
(Hơi ấm ổ rơm - Nguyễn Duy) tế hoà quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm
chứa chan xúc cảm. Trong thơ, “hồn lau” dường như luôn mang một
Hay trong một vần thơ khác:
tâm tình, một suy ngẫm, một nỗi buồn man mác nhớ thương:
“Các anh về mái ấm nhà vui
“Ngàn lau cười trong nắng
Tiếng hát câu cười Hồn của mùa thu về
Rộn ràng xóm nhỏ Hồn mùa thu sắp đi
Các anh về tưng bừng trước ngõ Ngàn lau xao xác trắng”
Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau (Lau mùa thu- Chế Lan Viên)
Mẹ già bịn rịn áo nâu Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.” ức của Quang Dũng . “trên độc mộc”- chiếc thuyền làm bằng cây gỗ
(Bộ đội về làng - Hoàng Trung Thông) lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa
Và ở trong những vần thơ của Quang Dũng vẫn là thứ tình cảm khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc trưng của miền Tây.
Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con
quân dân chứa chan đến vậy. Để rồi men say của đất trời, men
người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian
say của tình đời tình người đã đưa tâm hồn của những chiến binh
khổ mà hào hùng? “dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người
Tây Tiến một thủa đến những miền đất lạ để xây lên những hồn Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt
thơ. Tạm thời rũ bỏ những mệt nhọc, căng thẳng của chiến với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào,
trường bom đạn, giây phút ấy tuy ngắn ngủi nhưng những niềm dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí
vui hiếm hoi này đã trở thành động lực lớn lao tiếp bước cho nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo
những ngày tháng gian khổ sau này để thêm quyết tâm chiến đấu léo. “Dáng người” ấy hình như cứ trở đi trở lại giữa những vần thơ
và chiến thắng mọi kẻ thù. Đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa được Quang Dũng gửi tình, như ta đã gặp:
trại đã giúp cho mỗi bạn đọc thấy được chất thi sĩ trong tâm hồn “Bến vắng chiều xuân hoa gạo rơi
những người chiến sĩ. Và đối với cá nhân Quang Dũng, đó là Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi
những kỷ niệm rất đẹp ông không thể nào quên đi. Đò ngang một chuyến qua mưa bụi
Nhớ mãi người đi... bóng dáng người”
4 câu tiếp: Kỷ niệm về một buổi chia tay trong chiều sương Và đây:
Châu Mộc “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Trong hồi ức của Quang Dũng, Tây Bắc không chỉ là miền đất Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết “đắt” nhất mà
của tranh đấu bảo vệ Tổ quốc, mà còn là nơi hiện hữu của thiên Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa
dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà
nhiên thơ mộng trữ tình. Trong những trang thơ thi phẩm Tây
Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi,
Tiến, chiều sương trên cao nguyên Châu Mộc được tác giả khắc
ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước
họa đầy tài hoa, có sắc màu điểm tô, có đường nét tinh tế: lũ” là hình ảnh đối lập không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá
Có nhớ dáng người trên độc mộc hào hoa, quá lãng mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” cái nhìn đa tình đến như thế?
Đoạn thơ trên diễn tả cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong hoài niệm Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét
của Quang Dũng, được khơi nguồn từ hai câu thơ đầu, như tiếng vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi
gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông.
gọi âm vang từ miền ký ức xa vắng:
Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương Châu
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Mộc một cách tự nhiên đến như vậy!
Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều
sương ấy”- khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường
như đã khắc sâu thành nỗi nhớ niềm thương trong tâm trí nhà
thơ. Đó có thể là khi đoàn quân chia tay một bản làng Tây Bắc
3. Hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa lãng - “về đất”: nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng
mạn và bi tráng: là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê
hương đất nước.
Kiến thức khái quát:
 Câu: 2 câu đầu - “rải rác”: số lượng ít ỏi, không tập trung trên một khu vực mà
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc là rừng sâu biên giới ít có người qua lại, không có điều kiện
Quân xanh màu lá dữ oai hùm” hương khói.
- “Đoàn binh”: lực lượng đông đảo, đội quân mạnh - “chẳng tiếc đời xanh”: cách nói ngang tàng, ngạo nghễ và đầy
=> khí thế, như một cách nói đầy hiên ngang và tự tin. tự tin, hiên ngang, không ngại ngần hy sinh, gian khó.
- “Không mọc tóc”, “xanh màu lá”: để ngụy trang hay do hoàn - “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự nghiêng mình tiễn đưa
cảnh sống khắc nghiệt đầy thành kính với các anh trong khúc hùng ca sông Mã.
=> hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, => Người lính ra đi không hẹn ngày về, hy sinh cả tuổi trẻ cả
vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của thanh xuân.
mình. => Không trốn tránh hiện thực, tác giả đã khắc họa sự hi sinh
- “dữ oai hùm”: tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây
chiến đấu phía trước. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một xúc động lòng người, lay động thiên nhiên.
hiện thực nhiều gian khổ. Nhận xét:
=> Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp: hào hùng,
đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Đó là những con người bình
chiến trường. Tác giả không hề né tránh hiện thực, và điều đó thường nhưng phi thường, vượt lên gian khổ, hiểm nguy, sẵn
thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc càng thêm mãnh liệt sàng hy sinh cho sứ mệnh giành lại độc lập, tự do cho Tổ
nơi những người lính Tây Tiến. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả quốc. Tinh thần ấy, những con người nhỏ bé ấy đã làm lên
chất kiêu hùng: đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất (xanh xao 1 dân tộc anh hùng.
tiều tụy) là sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàn, lẫm liệt
(“dữ oai hùm”). Qua đó ta thấy được khí thế và quyết tâm của
người lính Tây Tiến.
 Câu: 2 câu đầu
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
- “Mắt trừng” là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác.
- “Gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng lập công, giấc mộng
chiến thắng và sớm ngày giành được chiến thắng trước quân thù.
- Mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”: người chiến sĩ Tây Tiến
phần lớn là thanh niên trí thức xuất thân từ thủ đô, ra đi theo
tiếng gọi của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy mà
là động lực để họ vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ
=> tâm hồn lãng mạn của người lính trẻ.
=> Nhịp thơ thiết tha hơn, nối dài lý tưởng hào hùng nhưng cũng
rất đỗi hào hoa của những người lính, những sinh viên tuổi đời
còn rất trẻ đã quyết tâm gánh lấy “mối nợ” với non sông.
 Câu: 4 câu tiếp
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
- Sử dụng hầu hết từ Hán Việt tăng sự trang trọng cho câu thơ và
giảm bớt sự bi thương trước bao mất mát, hy sinh của người
lính Tây Tiến.
+ “biên cương”: nơi xa xôi, hoang vu, tạo cảm giác tiếc thương,
không khí như chùng xuống, xót xa.
+ “mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng
hoang lạnh.
+ “áo bào”: Chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến
tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc
thi thể người lính đã hi sinh.
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Phân tích chi tiết: Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”
2 câu đầu: Bức chân dung tự họa độc đáo, lạ thường của người lính (“Bài ca chim Chơrao” - Thu Bồn)
Tây Tiến với những chi tiết tả thực sống động, hào hùng: Quả thực ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời
Chiến tranh đã qua đi, tấm áo hòa bình ấp ôm mảnh đất hình chữ S đã tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng. Và gửi theo ánh
được nhiều thập kỉ, đã hàn gắn được phần nào bao vết thương đớn đau, mắt của quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu, giấc
bao mất mát hy sinh của một thời lửa đạn. Nhưng ngày hôm nay, trong mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi
nền hòa bình này, ta đọc lại “Tây Tiến” để một lần nữa nhớ về thế hệ đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận,
các anh, những người lính trẻ trung và dũng cảm, trong mạch nguồn sẵn sàng gánh trên vai “món nợ” núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi
nỗi nhớ khi xưa mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều
của nhà thơ Quang Dũng. Bức tượng đài bằng thơ về các anh vẫn luôn tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh khi
sừng sững, sống mãi hững vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ: cảnh giác trước quân địch, khi cũng ấp ôm nỗi nhớ niềm thương về thị
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc thành quê hương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về Hà Nội
Quân xanh màu lá dữ oai hùm” với “dáng kiều thơm”, với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên
Nhà thơ dùng từ “đoàn binh” để khẳng định một lực lượng đông đảo, dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta
“đoàn binh” Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ với xuất thân chủ yếu là
ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, thanh niên trí thức thủ đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy, tầm thường mà là động lực để họ
ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ. Không những vậy
lính đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Ấy là sự ngụy trang đề “dáng kiều thơm” ấy còn một lần nữa đem đến màu sắc hiện thực cho
phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, câu thơ, Quang Dũng đã đem những gì thật chất, đúng nhất về người
của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi lính Tây Tiến lên những trang thơ của mình. Ta cảm nhận và trân trọng
chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn ấy.
sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối 4 câu cuối: Lý tưởng cao đẹp, vẻ đẹp bi tráng, coi cái chết nhẹ tựa
tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ lông hồng, sự hy sinh cao cả của người lính Tây Tiến:
như thế: Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta vào nơi biên cương hẻo lánh rải
“Cuộc đời gió bụi pha xương máu rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng
Đói rét bao lần xé thịt da câu chữ cho thấy sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh của cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa: “Rải rác biên cương mồ viễn
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!” xứ”. Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy
(“Lên Cấm Sơn” - Thôi Hữu) máu và mộ phần để tiếp ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà
Nhưng ở đây, giọng thơ “Tây Tiến” lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, không hề nao núng. Chính vì thế, Quang Dũng sử dụng một loạt những
viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang
hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm:“dữ oai hùm”. Nét hào trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận
hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý
những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, vui tưởng của một thời đại mới “chẳng tiếc đời xanh” – “Quyết tử cho Tổ
tươi hóa của Quang Dũng về quốc quyết sinh”. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa
những người đồng đội của mình. “Dữ oai hùm” là hình ảnh khẳng định những sự vật: “chiến trường” - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề,
tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh “đời xanh” – là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay
tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ,
người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: “Chiến trường đi chẳng tiếc
rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng đời xanh”. Bên cạnh sự hào hùng là bi tráng. Với Quang Dũng, chết
thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu”,
Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của
cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu “không mọc tóc”, da người lính, “anh về đất” biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau
“xanh màu lá” với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi
sức mạnh “dữ oai hùm”, Quang Dũng đã đem đến những nét phác họa nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hy sinh của các anh luôn
đầu tiên về người lính Tây Tiến rất hào hùng, dũng cảm và lạc quan. là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ,
2 câu tiếp: Tâm hồn hào hoa và lãng mạn của những chàng trai Hà âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng trọng:
Thành: “Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến những hình Trọn đời làm chiến sĩ vô danh” (Thu Bồn)
ảnh chân thực, không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng Trở lại với những vần thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng không trốn tránh hiện
mạn của các anh: thực mà đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và “Sông
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Mã” được nâng tầm như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội
Là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt “trừng” của người lính Tây ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến:
Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm cuối cùng ấy là khúc tráng
ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù: ca, là khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về với
cha ông, về với đất mẹ. Vẻ đẹp bi tráng về những người lính Tây Tiến từ đó
“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ
mà cứ vang vọng mãi trong tâm khảm bạn đọc.
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
4. 4 câu thơ cuối: Khúc vĩ thanh:

Kiến thức khái quát


 Câu 1 câu đầu:
- Người đi không hẹn ước => Ra đi chiến đấu không ước hẹn
ngày về, tinh thần hi sinh vì nước, xả thân vì dân tộc, vì lý
tưởng vĩ đại trong tim.
- Người đi ở đây là tác giả: Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về
lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hàng quân càng về phía Tây
càng xa cách, hi vọng ngày lặp lại càng mong manh. Trong
khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ
càng tỏa ra mênh mông.
 Câu 1 câu tiếp:
- Đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành
quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía
sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ,
thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là những hy sinh tiếp nối,
càng khó có hi vọng trở về.
+ Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến
chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi
hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh
niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”.
=> Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ,
làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.
 Câu: 2 câu cuối:
- Mùa xuân năm ấy: Thời điểm thành lập binh đoàn Tây Tiến
- Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở
thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con
người anh hùng bỏ mình vì nước.
- Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nứa, tan vào
với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian.
- Sầm Nứa: Địa danh lịch sử, nơi đoàn binh Tây Tiến đã giải
phóng thành công có trận đánh vang dội tại đây.
- Về phía tác giả: Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có
bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy,
do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này
mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn bó với
đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng
đội thắm thiết của nhà thơ.
=> Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc,
thể hiện chất lãng tử
kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn.
=> Cảm hứng “lãng mạn, anh hùng” trong những vần thơ Quang
Dũng
Văn bản: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ Câu chuyện thú vị về Nguyễn Tuân:
-Nguyễn Tuân- Tình bạn Nguyễn Tuân - Ngô Tất Tố
Nhà văn Nguyễn Tuân sinh năm 1910, so với nhà văn Ngô
“...Đọc "Sông Đà" thấy Tổ quốc ta thật là giàu đẹp. Chỉ nói Tất Tố (sinh năm 1894) thì thuộc thế hệ “đàn em”, nhưng
riêng Than Uyên có nào mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh sinh thời, hai ông đã từng có những kỷ niệm rất mật thiết với
làm thủy tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏ than mở, mỏ lân tinh, mỏ
nhau, như bạn bè đồng trang lứa.
đồng, mỏ chì...Cảnh Tây Bắc thì tuyệt đẹp, ở đâu tác giả cũng
nổi hứng nghệ sĩ muốn cắm ngay giá vẽ mà vẽ. Núi lớp lớp Tác giả Vang bóng một thời có lần nhớ lại: Hồi ấy (quãng
mênh mông như biển, sông trắng xóa như từng súc lụa tung những năm ba mươi), nhiều đêm Ngô Tất Tố thường ngồi ở
trải rã, những thung lũng lúa chín vàng chóe lên, trên đó mây tòa soạn một báo nọ trong góc phố Hàng Da để viết bài.
trắng điểm lơ lửng như thêu nổi ... Nhưng "Sông Đà" không Nguyễn Tuân trẻ trai thường hay đi chơi về khuya nên thỉnh
chỉ nói vẻ đẹp thiên nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp của lòng thoảng lại tạt qua đây ngủ nhờ. Bao giờ cũng vậy, trông thấy
người. Ông gọi đó là chất vàng mười của tâm hồn con người bộ dạng Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố lại vui vẻ hỏi: “Thế nào,
Tây Bắc. Ông ngược dòng lịch sử tìm chất vàng đó ở những
có vui và đông lắm không? Thôi bác thức, tôi đi ngủ đây”. Và
chiến sĩ cách mạng kiên cường đã theo gương bất khuất ở nhà
tù Sơn La, ở những cán bộ hoạt động bí mật hồi Tây Bắc bị Nguyễn Tuân tâm sự: “Nhiều đêm về oi ả quá, tôi chỉ muốn
giặc chiếm đóng, đã vượt qua những thử thách khủng khiếp ngủ, còn viết gì thì viết, mai hãy hay. Nhìn những trang viết
để gây cơ sở cách mạng, ở những chiến sĩ quân đội, những dở của bác Tố trên bàn, tự nhiên trong người thấy đứng đắn
anh chị em dân công hồn tiến quân vào.” trở lại. Và ngồi vào trước tờ giấy trắng, vừa ngáp vừa nhìn
(Nguyễn Đăng Mạnh -‘'Sông Đà" Trích "Nhà văn Tư tưởng ông bạn vong niên ngon giấc sau khi đã viết một số trang
và phong cách" NXB Văn học -1983) kia”.
Đấy là một kỷ niệm với Ngô Tất Tố lúc ông còn sống, trong
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Nguyễn Tuân đó Nguyễn Tuân không hề phủ nhận vai trò “động viên” tinh
thần của bậc đàn anh trong quá trình sáng tác.
 Tài hoa, uyên bác Sau khi Ngô Tất Tố mất (1954), năm 1962, Nguyễn Tuân có
 Phong cách nghệ thuật: ngông viết lời giới thiệu cho cuốn Tắt đèn tái bản, ông được trả
 Nhà văn – nghệ sĩ nhuận bút tới... 500 đồng. Giới xuất bản cho đấy là mức
Từ  Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp “tuyệt trần cao của loại văn đề tựa” (vì theo Nguyễn Tuân cho
khóa  Mạnh mẽ, tự do, phóng túng, ý thức về cái “tôi” cá
biết, phở lúc bấy giờ chỉ ba hào một bát). Chưa hết, khi vào
nhân”
Yêu tiếng Việt và có những đóng góp trong việc phát vai Chánh tổng trong phim Chị Dậu (chuyển thể từ tiểu
triển tiếng Việt thuyết Tắt đèn), ngoài thù lao vai diễn, Nguyễn Tuân càng có
thêm nhiều quần chúng biết đến. Ông kể lại: “Đi trên hè phố,
nhiều người tôi không quen nhưng nhìn tôi với nụ cười
Nguyễn Tuân là gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn
cảm tình với một nhân vật màn ảnh họ vừa nhận ra”.
học Việt Nam hiện đại, nhà trí thức giàu lòng yêu nước và
Đối với Nguyễn Tuân, ông có niềm vui thật trọn vẹn khi nhớ
tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của nhà văn thường không
về tình bạn giữa ông và Ngô Tất Tố: Một tình bạn buổi ban
được phát biểu một cách trực tiếp mà ẩn đằng sau những bức
đầu đến với văn chương, một tình bạn trong những năm
tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền. Nguyễn
kháng chiến gian khổ, một tình bạn trên trang sách mà ông
Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác. Thể hiện sự tài hoa,
viết lời giới thiệu và một tình bạn trên những thước phim mà
Nguyễn Tuân thường nhìn nhận và khám phá mọi sự vật, hiện
ông tham gia một cách tâm huyết.
tượng ở phương diện thẩm mĩ và miêu tả con người ở góc độ
Phạm Quang Chung
tài hoa nghệ sĩ. Thể hiện sự uyên bác, văn Nguyễn Tuân đầy
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM
ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống từ các bộ môn nghệ thuật. Nguyễn ● Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Tuân còn là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Ông Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
không thích những cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt cũng như kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
không ưa mọi khuôn phép gò bó. Trái lại, nhà văn luôn có ● Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông
hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ, phi thường của tạo Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
● Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội,
vật và con người. Vì vậy khi nhắc đến Nguyễn Tuân là
công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống
chúng ta nhắc đến một hồn văn tự do, phóng túng và rất
mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
ngông. ● ·Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ
mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm
hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là
chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của bài như sau: của nó, mở ra nhiều hướng phát triển phong phú cho câu. Bởi “Phép
Sông Đà – 1960 – Chuyến đi thực tế năm 1958 – phong cảnh thiên điệp trong câu có tác dụng kích thích tâm lí của người tiếp nhận:
nhiên tuyệt mĩ – “Chất vàng mười trong tâm hồn con người” một yếu tố nào đó xuất hiện nhiều lần sẽ khiến người ta chú ý”. Về
phía người viết, phép điệp có tác dụng tô đậm, khắc sâu một ấn
Để hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò tượng, một cảm xúc, một nhận xét, và trong nhiều trường hợp, nó
sông Đà, các em có thể tham khảo bài báo dưới đây: tạo nên một nét nhấn trong âm điệu lời văn.
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một cây bút bậc thầy về nghệ thuật sử Ở Người lái đò sông Đà, phép điệp được Nguyễn Tuân sử dụng
dụng ngôn ngữ trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Song song trong nhiều câu văn nhằm tô đậm hình ảnh miêu tả với một sắc thái
với những đóng góp về chủ đề, nội dung, tư tưởng cho nền văn học mới, gây ấn tượng với người đọc. Ví dụ: “Lại như quãng mặt ghềnh
nước nhà, ở phương diện hình thức nghệ thuật văn học thì Nguyễn Hát Loóng, dài hàng trăm cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
Tuân là người có công không nhỏ trong việc làm cho thể tùy bút đạt gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
đến trình độ nghệ thuật cao. Với thể tùy bút, Nguyễn Tuân đã góp xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Trong
phần làm phong phú ngôn ngữ dân tộc, ông đem đến cho văn xuôi câu văn, phép điệp được sử dụng đã phát huy triệt để hiệu quả nghệ
Việt Nam một phong cách viết đặc biệt tài hoa và độc đáo. thuật. Hình ảnh nước, đá, sóng liên tiếp, trùng điệp, hòa lẫn vào
Có thể khẳng định thành công lớn nhất của Nguyễn Tuân trên nhau được gợi nên một cách đầy ấn tượng nhờ cách diễn đạt sáng
phương diện hình thức nghệ thuật thể loại tùy bút chính là ở nghệ tạo “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Câu văn của Nguyễn
thuật sử dụng ngôn ngữ. Thành công ấy được tạo nên bởi ý thức lao Tuân như một bức tranh 3D sống động khiến cho người đọc có
động nghệ thuật nghiêm túc, công phu của nhà văn. Tiếp cận các tác cảm giác như mình đang tận mắt chiêm ngưỡng cảnh tượng kì vĩ
phẩm văn xuôi của Nguyễn Tuân, chúng ta nhận thấy mỗi trang viết thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc.
của ông luôn có ý thức rất sâu về vai trò và hiệu quả nghệ thuật của Hay ở câu: “Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi, lại réo to mãi
câu văn. Vì vậy, việc sử dụng các biện pháp tu từ để làm đẹp cho lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
câu văn theo một chuẩn mực thẩm mĩ là một trong những nét nổi xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Câu văn
bật trong phong cách ngôn ngữ tùy bút Nguyễn Tuân. lặp lại “như là” ba lần với thủ pháp so sánh kép gợi cho người đọc
Khảo sát các biện pháp tu từ trong văn xuôi Nguyễn Tuân chúng ta một ấn tượng mạnh về tiếng thác nước. Với cách miêu tả của
thấy được tài năng, sự sáng tạo trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Nguyễn Tuân, người đọc cảm nhận được cái kì bí, man sơ của cảnh
của nhà văn bậc thầy họ Nguyễn và góp phần khẳng định phong rừng thiêng nước độc.
cách nghệ thuật của nhà văn. Trong khuôn khổ bài viết ngắn, chúng Ở câu: “Làm cái nghề vận tải đường nước này thật là vất vả, người
tôi chỉ có thể góp thêm một cách khám phá mới về sự “chệch cứ dựng đứng lên mà luôn tay, luôn chân, luôn mắt, luôn gân và
chuẩn” trong câu văn Nguyễn Tuân qua tùy bút Người lái đò sông luôn tim nữa”. Cái khác biệt ở câu này không phải là sự lặp lại từ
Đà bằng việc chỉ ra và phân tích các phương tiện tu từ cú pháp mà “luôn” mà là những yếu tố đi kèm với nó. “Luôn tay”, “luôn chân”,
nhà văn đã sử dụng với mong muốn sẽ hiểu được phần nào những “luôn mắt” là những kết hợp quen thuộc, đến “luôn gân” đã có vẻ lạ
đặc điểm, sự sáng tạo về cấu trúc trong câu văn Nguyễn Tuân, góp lẫm, nhưng khi nghe “luôn tim” thì người đọc không khỏi băn
phần trong việc phân tích, hiểu hơn về tác phẩm Người lái đò sông khoăn khi dùng từ như vậy. Nếu dùng riêng ra, “luôn tim” có vẻ vô
Đà. nghĩa, nhưng đặt trong quan hệ với những “luôn tay”, “luôn chân”,
Qua khảo sát tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, “luôn mắt” thì nó bỗng phát ra một ý nghĩa phong phú và thú vị
chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm nhà văn đã sử dụng các biện không ngờ.
pháp tu từ nổi bật sau: Ở những câu văn như trên, yếu tố lặp tuy không đóng vai trò là
Thứ nhất, sóng đôi cú pháp là biện pháp tu từ có gốc gác từ văn những “tín hiệu thẩm mĩ”, nhưng nhờ vai trò liên kết của nó, vẻ đẹp
chương biền ngẫu thời trung đại. Trong phú, văn tế, câu đối, thơ và trong hình ảnh của các câu vừa tỏa ra nhiều hướng, lấp lánh nhiều
cả trong văn xuôi, từng cặp câu, từng ngữ đoạn thường đối nhau màu, lại vừa cùng chụm vào soi sáng ý nghĩa của một đối tượng.
chan chát về từ loại, thanh điệu, ý nghĩa. Trong những trang viết Trong sử dụng phép lặp, Nguyễn Tuân luôn song song kết hợp với
của mình, Nguyễn Tuân đã vận dụng thủ pháp sóng đôi một cách phép so sánh tu từ mới lạ càng làm cho câu văn tăng sức độc đáo và
linh hoạt, làm cho câu văn hài hòa, đầy ấn tượng. giàu giá trị biểu đạt.
Ví dụ trong câu: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông Thứ ba, tách câu (còn gọi là chiết cú) “là một biện pháp tu từ cú
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thuở xưa”. Phép sóng đôi tạo pháp nhằm tách các bộ phận của một câu có cấu trúc ngữ nghĩa -
cho câu văn thế cân đối, đều đặn, nhịp nhàng, làm hiện lên hình ảnh ngữ pháp thống nhất thành những phát ngôn biệt lập bằng một chỗ
một dòng sông vừa huyền sử, vừa thơ mộng lại vừa trữ tình. Việc ngừng, hay một dấu chấm ngắt câu, với một dụng ý đặc biệt, hoặc
lặp lại cấu tạo một câu như vậy đã không làm mất đi sự năng động, do nhịp cảm xúc của giọng văn”. Xét trong nội bộ một câu, biện
linh hoạt trong cấu trúc của câu văn. Sử dụng phép sóng đôi làm pháp tách câu “là sự cố ý vi phạm chuẩn mực cú pháp”. Những câu
câu văn Nguyễn Tuân vừa mang sắc thái đĩnh đạc, cổ kính, lại vừa như thế không thể đứng độc lập. Tuy nhiên trong văn bản, nó lại tồn
rất mới mẻ, hiện đại. Có được hiệu quả này là do Nguyễn Tuân đã tại một cách hoàn toàn hợp lí. Thành phần thiếu khuyết trong câu
biết xử lí tinh tế, lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách mới mẻ cùng tách biệt (chẳng hạn danh từ làm chủ ngữ) dường như đã được giải
với phép so sánh tu từ sáng tạo. thích bằng sự có mặt của nó ở câu trước đó mà nó có quan hệ tất
Thứ hai, sóng đôi cú pháp thực ra cũng là một kiểu phép điệp: điệp yếu về ngữ nghĩa.
cấu trúc. Nhưng sự lặp lại chỉ diễn ra ở từng cặp đối ứng, nên khả Câu tách biệt thường có cấu tạo khá giống nhau. Nó có thể là một
năng mở rộng, phức hóa câu dù sao vẫn bị hạn chế. Phép điệp của từ, một cụm danh từ, cụm tính từ hoặc cụm động từ được tách ra từ
tu từ cú pháp là sự biến đổi về chất so với sóng đôi, phá vỡ giới hạn một câu. Văn chương Nguyễn Tuân không hề đơn điệu. Luôn phức
hóa, nhưng khi cần, ông cũng biết đơn giản hóa đến tối đa. Trong Nhận xét về tác giả và tác phẩm:
Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân ưa sử dụng lối tách câu với 1. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.Một ngày không xa, khi mà
một dụng ý tu từ rõ rệt. Có khi là để khẳng định, nhấn mạnh. Ví dụ:
văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám
“Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà còn đó là chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn
những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông ở chỗ ấy chỉ nữa. (Vũ Ngọc Phan)
lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà 2. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót
như một cái yết hầu”. trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng,
khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa"(Nguyễn Ðăng Mạnh)
Cũng có khi, Nguyễn Tuân tách câu để miêu tả nhịp điệu diễn biến
3. Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra,
của sự việc, hay nhịp điệu cảm xúc vừa là để nhấn mạnh, bằng cách sự thực và cái đẹp của cuộc sống là hai cái đích mà dường như bất kì ngòi bút
chen vào những câu liên tưởng như: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm lĩnh và chạm vào được.
Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm nhưng tác phẩm của ông đã chạm
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua được đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái thực phồn hoa chốn thành
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không thị. Nguyễn Tuân là người thưởng thức cái đẹp với tư cách người có văn hóa, có
vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng. (Nguyễn Đình Thi )
một bóng người”. Câu văn “Mà tịnh không một bóng người” trở
4. Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định: "Hạt nhân của phong cách nghệ
thành một ngữ trực thuộc trong đoạn văn trên để nhấn mạnh không thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu
gian tĩnh lặng nên thơ của khúc sông mà nhà văn miêu tả. sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn
So với ngôn ngữ khoa học, việc dùng các kiểu câu tách ra là một sự Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn;
vi phạm chuẩn mực. Để đạt hiệu quả tối đa trong miêu tả, Nguyễn vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã
hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng,
Tuân sử dụng tách câu như một thủ pháp nghệ thuật cần thiết.
thuyết hiện sinh...”
Thứ tư, giải ngữ còn gọi là phụ chú ngữ, là biện pháp tu từ cú pháp, 5. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là
trong đó, người ta “dùng một từ, một cụm từ hay một câu, một chuỗi "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu), Tinh thần tự nguyện dấn thân,
câu xen vào câu chính để lí giải, nhấn mạnh hoặc bổ sung một bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa
giọng điệu khác với giọng điệu kể hay giọng trình bày các lập lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam"(chữ dùng của Vũ Ngọ)
luận”. Giải ngữ được dùng khá phổ biến trong văn chính luận, trong 6 ...Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài
năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ... Khi gân guốc,
văn xuôi nghệ thuật và thỉnh thoảng trong thơ.
khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một
Trong lời văn Nguyễn Tuân, có những giải ngữ chỉ nhằm giải thích đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở
thuần túy, giúp người đọc hiểu rõ về đối tượng. Ví dụ trong câu: ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài
“Tôi không muốn sau này làm phim truyện hoặc phim kí sự (tôi năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải
không muốn dùng mấy chữ phim tài liệu) màu về sông Đà, nếu phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm
kì vĩ...”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).
muốn phản ánh lên cái dữ tợn và cái lớn của sông Đà của thác sông
7.“... Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên
Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay”. vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm
Có trường hợp, giải ngữ đảm trách chức năng của một định ngữ trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như
nghệ thuật. Ấy là khi qua giải ngữ, tác giả cấp cho ta những thông tác giả nói- “hung bạo và trữ tình...” .( Nguyễn Đăng Mạnh).
tin cụ thể, tỉ mỉ, chính xác về một khía cạnh nào đó của đối tượng: 8. “... Nguyễn Tuân- một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc
“Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh dũng cảm dám ngồi vào một cái mới lạ, nồng nàn, say đắm...”. (Nguyễn Đăng Mạnh).
9. Lật mở từng trang viết của nhà văn Nguyễn Tuân, không khó để nhận thấy
thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay
những con người phi thường, những cảm xúc dữ dội, mãnh liệt, những khung
xuống đáy cá hút sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách cảnh ấn tượng nơi thác ghềnh, rừng thiêng, núi cao, bão, gió - Tất cả được thâu
thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao tới vài sải”. tóm qua lăng kính 'vạn hoa' của nhiều ngành nghệ thuật và diễn tả bằng ngòi bút
Giải ngữ vốn tồn tại trong câu văn Nguyễn Tuân như một nhánh sắc bén, ngang tàng. Dường như, cá tính không thể trộn lẫn ấy nảy sinh từ cẩn
phụ, ít quan trọng so với các thành phần khác, do vậy, dùng nó, tắc, từ trăn trở khôn nguôi trên hành trình đi tìm cái đẹp của một con người rất
mực tài hoa mà cuộc sống trong đời thực cũng rất lạ lùng...
thêm một dịp nhà văn được tự do phát triển câu văn theo sở thích
( Trích Bài đăng trên báo giấy Đời sống & Pháp luật số 71)
của mình. Giải ngữ cũng góp phần làm toát lên cái giọng văn riêng, 10. “Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khác, vẽ và kể chuyện về
hết sức đặc biệt của Nguyễn Tuân. sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được
Tóm lại, là một cây bút luôn có ý thức sáng tạo, đổi mới trên cả hai Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một
bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn gợi cảm mênh mông” (Đỗ Kim Hồi).
chương, trên các trang viết của mình, Nguyễn Tuân đã thể hiện 11. “Qua bài tùy bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò,
Nguyễn Tuân muốn nói với ta rằng: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến
nhiều khổ công tìm tòi, sáng tạo. Mỗi câu văn của Nguyễn Tuân là
trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với
cả một “lộ trình”. Đó là lộ trình hiện đại hóa của câu văn quốc ngữ, thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu,
vừa phản ánh khá rõ nét những đặc điểm phong cách ngôn ngữ của mà ở ngay những người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời ông lái đò vô
một cá nhân. Nguyễn Tuân luôn luôn nỗ lực tránh những lối mòn, danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả
vượt những khuôn mẫu, dùng phép tắc chung theo cách riêng một pho nghệ thuật tuyệt vời” (Nguyễn Đăng Mạnh).
12. Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây,
của mình để nói lên tiếng nói của chính mình. Với cách nói vừa
những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi,
chuẩn mực vừa “chệch chuẩn”, câu văn của Nguyễn Tuân vì thế người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái
luôn hấp dẫn với những hình ảnh mới lạ, độc đáo và nhiều khi cũng đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng.
bắt buộc người đọc phải dừng lại một chút để suy ngẫm mới có thể ( Nhà văn Thạch Lam)
hiểu hết được.
Nguyễn Thị Mỹ Lài (Theo Văn nghệ Tiền Giang số 76)
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:  Về hình thù nó giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị
làm móng câu. Về âm thanh nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
1. Lời đề từ: Cảm hứng chủ đạo – ý nghĩa lời đề từ sặc, nó kêu ặc ặc như tiếng rót dầu sôi
- “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” => Với cách dùng từ tượng thanh, nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến
- “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu” người đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quái khổng
- Cội nguồn sáng tác của tác phẩm bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca, yêu lồ đang bị bóp cổ.
mến quê hương đất nước và yêu mến những vẻ đẹp tìm thấy trong cuộc  Sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “trên mặt cái hút xoáy tít
sống: Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của con người. đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”, rồi tường thuật “có
+ Thiên nhiên: lời đề từ đã gợi mở những vẻ đẹp khác nhau của Sông những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
Đà mà tác giả đã chỉ ra trong bài viết của mình. Nguyễn Tuân đã ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút
nhận ra điều khác thường của dòng sông để định hướng suy nghĩ sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
chủ quan hướng tới thể hiện sự khác thường đó.  Qua góc nhìn điện ảnh, ông hình dung có một nhà quay phim nào đó
+ Con người: đó là hình ảnh người lái đò như một người nghệ sĩ trí dũng cảm dám ngồi trên chiếc thuyền thúng cùng với máy quay, để cái
dũng, tài hoa, được nhìn nhận, khám phá và miêu tả với tâm thế hút nó hút cả thuyền, cả người và máy quay xuống tít đáy thế rồi quay
làm chủ thiên nhiên và là người nghệ sĩ thực thụ trong công việc ngược ống kính lên thu ảnh. Cái thước phim màu quay tít ấy đã truyền
lao động hàng ngày. cảm giác sợ hãi đặc biệt cho người đọc. Nó giống như chúng ta đang sợ
- Tác phẩm cũng ghi dấu ấn trong lòng đọc giả về Nguyễn Tuân – hãi ghì chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng
người nghệ sĩ với phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo. Ông tìm đến
của một thước phim 3D.
sông Đà – dòng sông duy nhất chảy về hướng Bắc – giống như việc tìm
đến chính bản ngã của bản thân mình – một phong cách nghệ thuật độc  Đặc tả thác nước:
đáo. Như TS. Phan Huy Dũng nhận định: “Độc đáo tìm độc đáo. Đó là - Âm thanh hãi hùng, ghê rợn của nước: khi thì như là “oán trách gì”
Nguyễn Tuân và Sông Đà.” rồi lại như là “van xin”, rồi lại như là khiêu khích, giọng “gằn và chế
nhạo”.
2. Hình tượng sông Đà: => Một câu văn ngắn mà đủ các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa
a) Con sông Đà hung bạo: thể hiện vốn từ phong phú vùa thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế của tác
 Sự hùng vĩ hung bạo qua diện mạo: giả.
 Ở những quãng sông hẹp, đá bờ sông dựng vách thành - Hình ảnh so sánh: “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
- “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” => người đọc lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
vừa hình dung được độ cao của vách đá hai bên bờ sông, vừa cảm nhận rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” => Nhà văn
được cái lạnh lẽo, âm u của những khúc sông hẹp. Đá ở bờ sông đã đã sử dụng ngôn từ để tái hiện âm thanh, những giai âm của bản nhạc
chắn hết ánh nắng, chúng không cho bất kì tia nắng nào rọi xuống mặt giao hưởng hùng tráng, của sóng, cử gió, của thác đá.
sông trừ lúc giữa trưa. Bởi thế quãng sông này luôn âm u, lạnh lẽo đến => Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập với lửa – dòng nước; dám lấy
rợn người. rừng để tả sông, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới ngông ngạo vậy thôi!
- “Vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” => So sánh => Với phong cách viết tài hoa kết hợp với vốn kiến thức uyên bác
với một bộ phận nhỏ hẹp ở cổ họng con người => cách miêu tả chính Nguyễn Tuân đã tạo ấn tượng mạnh mẽ mạnh vào giác quan người đọc
xác, sinh động. Để tô đậm cảm giác của con người trước quãng sông một hình ảnh dữ dội đến khủng khiếp khi miêu tả những hút nước của
nhỏ hẹp, Nguyễn Tuân sử dụng liên tiếp hai hình ảnh: “đứng bên này Sông Đà.
bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”, “Có quãng con nai con hổ  Hung bạo ngay cả trong tâm địa:
đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”  Trùng vi thạch trận trên sông: Vòng đầu nó bày ra năm cửa trận trong
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy đó có tới bốn cửa tử mà chỉ có một cửa sinh duy nhất, cái cửa sinh nằm
lạnh...tắt phụt đèn điện.” => Liên tưởng độc đáo, so sánh cảm giác của lập lờ nơi phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai nó lại tăng thêm nhiều cửa
con người giữa thiên nhiên hoang sơ với một khoảnh khắc của đời sống tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh chúng chuyển mãi qua phía bờ hữu
hiện đại giữa chốn thị thành => Những so sánh liên tưởng của tác giả ngạn. Vòng thứ ba thì cả hai bên gần tả hữu bờ sông đều là luồng chết,
vừa chính xác tinh tế, bất ngờ và lạ lẫm. Từ kho ấn tượng của mình, cửa sinh duy nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ của con thác.
nhà văn sáng tạo ra những hình ảnh gây chấn động trước tưởng tượng => Trận đồ bát quái khó nhằn, gây nỗi ám ảnh với bất cứ ai muốn đi
và cảm xúc mỗi người đọc. qua.
 Đặc tả mặt ghềnh Hát Lóong: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô - Mỗi hòn đá là một tên lính thủy hung tợn, tên nào cũng trông cũng
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào “ngỗ ngược, nhăn nhúm” sẵn sàng giao chiến. Cả một trận địa đá với
cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con thuyền nào tóm được qua đây”. những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm đã được bày sẵn ra sẵn sàng dìm
- Biện pháp nhân hóa => Khúc sông giống như một kẻ lưu manh lúc chết con thuyền. Khi thì nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy
nào cũng thích gây gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò. thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền
- Thủ pháp điệp từ, điệp ngữ: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.” vào rồi bất ngờ quay lại đánh khuýp quật vô hồi, khi đã giáp lá cà thì
Những thanh trắc được gieo liên tiếp tạo âm hưởng dữ dội với nhịp nó đâm thẳng vào hông thuyền, bẻ gãy cán chèo rồi đá trái, thúc gối,
điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô, vừa đẩy, vừa hợp sức với gió, giở đủ đòn âm đòn tỉa...
với sóng, với đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên giữa dòng. => Sông Đà trở thành loài thủy quái hung ác, hiểm độc.
- Câu văn đang đi bằng những nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng => Những tri thức về quân sự, võ thuật, thể thao, điện ảnh được tung ra
tiến khiến cho những ảnh hưởng của sóng, của gió càng trở nên mãnh để vẽ thành hình thành dạng thành tính cách của con sông độc đáo này.
liệt.
=> Hình thái của dòng sông được nhà văn nén lại trong một thứ văn
cheo leo, gây chấn động mạnh vào thần kinh cảm thụ nghệ thuật của
người đọc. Phân tích chi tiết:
 Ở những cái hút nước chết người nơi quãng Tà Mường Vát.
Phải là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới không ngại nhọc “Đường lên Mường Lễ bao xa
công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
của sông Đà. Sông Đà phát nguyên ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam - (Ca dao)
Trung Quốc lấy tên là Ly Tiên, khi đi qua một vùng núi Ác đến nửa đường Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó:
thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng,
Hà thì nhập vào với sông Hồng. Sông có tổng cộng bảy mươi ba con thác không khuôn mình vào lẽ thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ
dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Có thể thấy rằng, không phải là một nhà Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền
địa lý học, nhưng tất cả những kiến thức Nguyễn Tuân đem đến cho ta qua núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều
những trang văn của mình đều là những kiến thức bổ ích và có giá trị luồng chết, nhiều vực xoáy... Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy những tính cách
nghiên cứu cao. Nguyễn Tuân bây giờ, không coi sông Đà là một sinh thể hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, lòng
vô tri nữa, đối với ông, đây là một nhân vật, một con người, một tâm hồn sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm
mà ông khao khát được khám phá và tuyệt nhiên dòng sông này, thật phù đềm, hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà lại hiện lên vô cùng
hợp với nhà văn của “núi cao, vực sâu, thác dữ của những phong lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của
cảnh tuyệt mĩ” như Nguyễn Tuân. con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông
Nguyễn Tuân tài tình lắm, tài tình nhất là trong việc lựa chọn những nhân còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt
vật chính trong tác phẩm của mình. Tôi còn nhớ Huấn Cao trong “Chữ giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc.
người tử tù” được miêu tả một cách “hào sảng” khi nói về tài năng, sức Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ
vóc, khi miêu tả cảnh tưởng viết chữ nơi ngục tù,.. tôi vẫn còn nhớ hình ảnh sông: “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
ông Lý Văn trong truyện “Ném bút chì”, với sức ngang tàng của cái “bút mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.
chì” ấy có thể lụy cả một cành tre, cho đến cái nghệ thuật cầu kỵ trong việc Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai
lồng ghép cả một tích truyện vào trong chiếc đèn xẻ rãnh của ông Cử Hai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua
làm cho cậu con Ngộ Lang. Những cái nghệ thuật cầu kỳ phức tạp nhưng quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè
đầy ý nghĩa đó chẳng thể nào bắt gặp được nữa ở giữa xã hội hiện đại bây một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
giờ... Và cách lựa chọn nhân vật của Nguyễn Tuân, vẫn luôn cầu kỳ như mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
vậy. Nguyễn Tuân tìm đến với nhân vật “sông Đà” cũng là thêm một lần Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng
nữa tìm về cái đẹp, thêm một lần nữa ghi dấu ấn bản ngã của chính bản khá độc đáo khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như
thân mình lên những trang văn. thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi
đặt chân đến đây. Người đọc có cảm giác đá ven sông vừa cao, vừa hiểm
Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hàm chứa trong đó hai trở. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy
vẻ đẹp thoạt nghe tưởng chừng đối lập: hung bạo và trữ tình. Đó là 2 vẻ đẹp hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh
được phác họa ra từ cái nhìn chủ quan của tác giả và vẻ đẹp khách quan của bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái
dòng sông. Dưới quyền năng ngôn từ của Nguyễn Tuân, nhân vật sông Đà khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá
được hiện lên với hai vẻ đẹp – 2 nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình. đập cho tan xác mà thôi. Vách đá cao tới mức ánh mặt trời không thể xuyên
Lúc hung bạo, con sông giống như một con quái thú gầm gào, điên cuồng qua, có những quãng sông chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời - tức là khi mặt
chỉ trực muốn nuốt những ai ngang qua khúc sông này; khi trữ tình, dòng trời giữa trưa lên cao nhất mới le lói vài tia sáng nơi quãng sông này. Đó
sông lại trở về với vẻ hiền hòa, sóng sánh chất thơ và bất chợt trở nên thân cũng chính là lý do khiến cho những người đi thuyền qua quãng sông có
thiết với con người giống như một “cố nhân”. cảm giác lạnh lẽo, âm u dù đang là mùa hè. Vừa miêu tả hình
Nguyễn Quang Bích đã từng có một phát hiện thú vị về sông Đà, được thể ảnh, vừa miêu tả cảm giác, nhà văn đã đem đến cho người đọc những trải
hiện qua 2 câu: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” được nghiệm chân thực nhất. Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực
hiểu là mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông, duy chỉ có sông Đà là cảm như chính mình được lái đò qua quãng sông hẹp với những vách đá
chảy về hướng Bắc. Có thể thấy rằng, ngay từ việc lựa chọn cho nhân vật dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang đứng giữa
của mình, Nguyễn Tuân cũng đã bộc lộ được “tạng văn, tạng người” của mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm
mình. Được đánh giá là một nhà văn của chủ nghĩa “xê dịch”, Nguyễn như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
Tuân gắn cuộc đời của mình với chiếc vali, với những chuyến đi để tìm trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng
kiếm cái đẹp, ghi lại những điều đó trong trang văn của mình. Lần này, với những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong
Nguyễn Tuân kéo vali ngược đường lên Tây Bắc, để tìm kiếm những vẻ việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. Cảm giác này giống như xung
đẹp của sông Đà, điều này thật hợp lý khi sau này nhận định về Nguyễn, đã quang ta đang là ánh sáng chan hòa, đi tới quãng sông ấy đột nhiên tối sầm
có rất nhiều những nhà phê bình nói ông là nhà văn của những cảm giác và lạnh, ta đang cố ngóng lên tìm nguồn sáng thì thấy hai bên bờ đá dựng
mạnh, của núi cao, vực sâu, của những phong cảnh tuyệt mỹ và việc tìm vách thành cao vút. Cảm giác vừa hụt hẫng, vừa lo sợ. Cái tài của Nguyễn
đến, viết về dòng sông này thực sự là một cách giải thích hợp lý cho cảm Tuân là chỉ bằng những dòng viết lại tạo ra được thứ cảm giác rất chân thực
hứng sáng tạo của Nguyễn Tuân. cho bạn đọc.
Cá tính độc đáo của sông Đà, sự khác biệt của dòng sông này chính là điều
thu hút, thôi thúc Nguyễn Tuân phải lên đường, phải viết. Để rồi lời đề từ Cũng như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số
Nguyễn Tuân chọn cho tác phẩm của mình đó là: “Đẹp vậy thay tiếng hát nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
trên dòng sông”. Một cảm hứng ngợi ca, tự hào về vẻ đẹp non sông đất năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm
nước đã được thể hiện ngay từ “lối đi vào” của tùy bút đặc sắc này. được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng,
Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hàm chứa trong đó hai sóng xô gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn
vẻ đẹp thoạt nghe tưởng chừng đối lập: hung bạo và trữ tình. Đó là 2 vẻ đẹp sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có từ nào trực
được phác họa ra từ cái nhìn chủ quan của tác giả và vẻ đẹp khách quan của tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng
dòng sông. Dưới quyền năng ngôn từ của Nguyễn Tuân, nhân vật sông Đà dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng
được hiện lên với hai vẻ đẹp – 2 nét tính cách. cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với
tình trong thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: nghệ thuật nhân hóa con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ
vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của sông
Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc điểm thân. Khi chạy nó va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng
của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh thiên động địa. Hình ảnh
nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Loóng. Đọc tên địa danh mà phải nén của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm
hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, nhiều kế
sóng, với đá, với ghềnh thác của sông Đà. để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn
Đá dựng vách thành và nước trên sông đã nguy hiểm biết bao thì những cái hút mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế - kẻ
nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở thù số một của con người.
đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng Khi thác đá hiện ra, sau câu văn ngắn như một tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú:
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những Tới cái thác rồi, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác với sóng bọt đã
cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là trắng xóa cả một chân trời đá. Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn
ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi dữ dội, lại gợi tả làn hơi nước như
bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái mờ đi trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh “chân
giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới
hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và choáng ngợp của thác đá sông Đà.
đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông Đá sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình
dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng ảnh nhân hóa đặc sắc: Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng
độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho sông... mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện... là một số hòn bèn nhổm cả dậy
người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử để vồ lấy thuyền. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái
độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống sự bí ẩn và hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn
cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế nào thì năm mai phục, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm
nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái cả dậy vồ lấy thuyền.
giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như “thạch trận”,
cánh quạ đàn; rồi âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu “cuộc giáp lá cà”, “hàng tiền vệ”, “boong-ke”, “pháo đài”... một hệ thống
sôi vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn,
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dồn dập: mặt sông rung tít như thác nước reo hò... hò la... ùa vào... bẻ gãy...
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình thúc gối... đội thuyền... đánh miếng đòn độc hiểm... tóm lấy thuyền... khuýp quật
ảnh sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò vu hồi... khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những
qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo trận “hỗn chiến” ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô
thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua đậm thêm bởi những âm thanh mãnh liệt của một trận nước vang trời thanh la
những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô não bạt... Có lúc thác đá được động vật hóa để làm tăng thêm sự hung hãn
sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ hoang dại trong hình ảnh dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào trực đá. Thậm chí, sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà
cảm của người đọc. Những cái hút nước sông Đà qua những dòng văn Nguyễn còn được nhà văn đẩy lên đến mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh
Tuân mang dáng vẻ của loài thủy quái vừa đáng sợ, vừa nguy hiểm. Những bộ pháp của thần sông, thần đá.
phim tài liệu ghi lại về sự dữ dội của sông Đà cũng đã từng đưa ra những câu
chuyện thật về dòng sông hung bạo này, nhiều người trong chuyến hành trình Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà
lên thượng nguồn đã phải rất vất vả và can đảm để có thể vượt qua quãng những được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì “ngỗ ngược”, “nhăn
cái hút nước chết người này. nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong lẫm liệt”,
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về
điệp. Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người sự “xấc xược” trong cái “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn
đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh thằng đá tướng... tiu nghỉu cái mặt
thuyền văng xuống cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên xanh lè thất vọng... Thác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ chiếc thuyền
vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, của đối phương, khi dàn sẵn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và
người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một tấn công con người: Vòng đầu, mở ra năm cửa... cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả
màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả ngạn; vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử... cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái hữu ngạn; vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết... luồng sống lại ở
mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác...Thạch trận dàn bày với sự phức tạp và
đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. nguy hiểm bủa vây từ đá, nước, sóng trên sông Đà, đòi hỏi người lái đò cần phải
Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể có chiến lược, tập trung thì mới có thể tránh được những miếng đòn hiểm ác.
viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhân hóa
và trên trang văn của Nguyễn. là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện
lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là thác đá trên
Hung bạo của dòng sông Đà cũng thể hiện rất rõ qua dự dữ dội của những dòng sông. Kết hợp với sóng, gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm như
con thác. 73 con thác trên dòng sông dài hàng trăm cây số này. Tiếng thác réo đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét gào, ác hiểm khiến đá
nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như sông Đà không chỉ lộ “diện mạo” mà cả “tâm địa” của thứ kẻ thù số một của
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con con người Tây Bắc, gợi liên tưởng đến câu đồng dao về thần sông, thần núi
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông trong truyện cổ:
rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật Núi cao sông hãy còn dài
so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho Năm năm báo oán đời đời đánh ghen
thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong Ở đây người đọc vẫn nhận ra chất Nguyễn (tức phong cách của Nguyễn Tuân)
thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất trong nhân vật của Nguyễn Tuân có chút gì đó hơi khinh bạc, tài tử. Như vậy,
lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì chính cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước sông Đà là yếu tố tôn ông lái đò
không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc lên hàng oai phong tối thượng. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể
thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị hiện các ngón nghề của mình. Thiên nhiên Tây bắc đẹp đẽ, kì thú, những con
đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang người Tây Bắc thực sự là thứ vàng mười của đất nước, tài hoa như vậy mới trị
cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của được con sông này, bắt nó phục vụ cuộc sống cho mình.
chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát
b) Con sông Đà trữ tình: Phân tích chi tiết:
Con sông Đà hung bạo, dằn dữ, khắc nghiệt bao nhiêu thì càng thơ Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ
mộng, duyên dáng, trữ tình bấy nhiêu. Mạch ý chuyển đổi bằng 1 câu bởi sự tương phản – trong tùy bút Người lái đò sông Đà, sự tương phản
văn thật lạ: "Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ". Từ cảm giác hồi hộp đã hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả, bởi làm nên dòng sông Đà
gieo neo đến rừng rợn, người đọc lại được chiêm ngưỡng dòng sông ở thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ
góc độ lãng mạn, trữ tình. tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn
 Dáng vẻ diễm lệ yêu kiều: mình vào một cái bến cát, khi những bọt nước cuối cùng của sóng gió
- “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân thượng nguồn xèo xèo tan trong trí nhớ, ngòi bút tài hoa của Nguyễn
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai Tuân đã dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” hiền như một miền cổ tích.
=> Từ “áng” lại đi liền với “tóc” và “tóc’’ đi liền với “trữ tình”, cách Nguyễn Tuân miêu tả hình dáng sông Đà nhìn từ trên cao xuống để
kết hợp này cho ta thấy dòng Sông Đà đẹp như một cô gái Tây Bắc với phát hiện ra vẻ đẹp toàn diện của con sông, thơ mộng, mềm mại và đẹp
mái tóc dài duyên dáng đang thả dài trong sương khói. ngay từ hình dáng. Từ trên cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như
 Dòng sông như dải lụa đào: một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình. Nó biết mềm mại, uốn
- Sắc màu của nước thay đổi theo mùa. “Mùa xuân dòng xanh ngọc lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm cho mình trở nên
bích”. Màu ngọc bích là màu vừa có sắc vừa có ánh sáng, thứ ánh sáng dịu dàng, nữ tính.
mát dịu mà quyến rũ toát ra từ bên trong. Mùa thu “nước Sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Chính sự thay đổi Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò
màu nước ấy đã khiến dòng sông luôn luôn mới mẻ. mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài
- Trên sông còn có những con thuyền đuôi én lướt trên sông, có những như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
con cá dầm xanh, cá anh vũ “bụng trắng như bạc rơi thoi” quấy vọt Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
lên mặt nước. đốt nương xuân”. Một câu văn với nghệ thuật kết cấu trùng điệp và
=> Tất cả đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa huyền cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một cô thiếu
ảo lại rất duyên dáng dịu dàng giàu chất thơ. nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. Cô gái ấy có mái tóc tuôn
 Vẻ đẹp tâm hồn thơ mộng: dài, mềm mại. Mái tóc ấy lại được ẩm hiện trong mây trời của Tây Bắc,
- Nhà thơ Tản Đà đã từng lấy tên núi tên sông làm bút danh thì cảm của khói sương mờ ảo khi người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân
nhận: “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu với những chùm hoa ban với sắc trắng, sắc tím và màu đỏ tươi của hoa
tình.” Còn Nguyễn Tuân, ông thấy dòng sông như một người tình nhân gạo tháng ba – phảng phất vị Đường thi. Nếu nhìn và cảm nhận, con
chưa quen biết. Rồi có lúc Nguyễn Tuân lại thấy sông như một “cố sông hiện lên hiền hòa và dịu dàng như một cô gái đang e lệ với mái
nhân”. tóc dài buông xõa, trên mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông hoa
=> Đó là người bạn tâm giao, một người bạn khi gần thì dạt dào cảm ban, hoa gạo sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn thùng che mặt bằng một tấm
xúc mà khi xa thì muôn vàn nhung nhớ. Một người bạn đã lâu rồi khăn voan mỏng manh màu trắng khi bước những bước chân ngập
không gặp, mà khi gặp vẫn luôn cảm nhận được đủ đầy những xúc ngừng, e ấp về nhà chồng. Còn gì đẹp, thơ mộng và trữ tình hơn khi ví
cảm trong tâm hồn. dòng sông Đà với hình ảnh một cô thiếu nữ đang thẹn thùng cất bước
- “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể hiện sự tài hoa
dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt mà còn là sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh
ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân”. Có trùng điệp, một cách so sánh tài hoa, đượm chất phong tình. Hơn nữa,
thể nói nhà văn đã lồng cảnh vào cảnh, tình vào tình để thú nhận với nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các
chính mình về nỗi đắm say, phải lòng trước vẻ đẹp duyên dáng tuyệt bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người.
mỹ của sóng nước Đà giang và mây trời Tây Bắc, để cảm xúc thăng Làm sao quên được hình ảnh:
hoa, để thi ca lai láng, để dòng Sông Đà hiện lên với cảnh sắc đắm say “Cổ tay em trắng như ngà
lòng người. Đuôi mắt em sắc như là dao cau
 Vẻ đẹp đượm màu sắc cổ tích: Nụ cười như thể hoa ngâu
- “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà...” Câu văn mở đầu toàn thanh bằng, Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”
nhẹ nhàng và êm ái. Như thể nó chứa đựng bên trong lời tự tình của Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông
con sông, tạo tâm thế của một cuộc du ngoạn, gợi hình ảnh con đò lặng kéo thiên nhiên lại gần với con người. Với Nguyễn Tuân, con người là
lẽ trôi. trung tâm của vũ trụ, là một tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như
- “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một áng tóc của người thiếu nữ.
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” => Cái độc đáo của nhà văn khi miêu tả bờ Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, nó đẹp nhất là mùa xuân và mùa
sông là ở chỗ, người ta thường lấy cái cụ thể để so sánh làm rõ cái trừu thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh
tượng hoặc ít cụ thể hơn. Nhưng ở đây Nguyễn Tuân lại là ngược lại màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ
ông đã lấy cái trừu tượng để so sánh làm mờ cái cụ thể. lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ
- Ta hiểu vì sao ở đây tác giả lại thèm nghe một tiếng còi sương. Phải giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn tả sắc
chăng nhà văn Nguyễn Tuân đang thèm muốn một âm thanh để thoát xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc xanh
khỏi cái “lặng tờ” của cảnh vật? Chính điều này đã khiến cả cảnh vật trong vắt như pha lê, ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để
và con người đều như đang chìm vào không gian đượm màu cổ tích. thấy được sắc xanh như màu xanh của sông Đà là hiếm và khác biệt với
nhiều dòng sông khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của nước sông
Đà với màu nước của sông Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh
hến. Sắc nước mùa thu của sông Đà tựu thân nó không thể coi là đẹp
nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm duyên của con sông.
Mùa thu nước sông Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để
người đang tím bầm vì rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, rồi tiếng đập nước của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng
đang bực bội mỗi độ thu về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào mùa xuân trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người
mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ giận dỗi vào mùa thu. Thế mới biết đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh
tính khí của con sông kia cũng thất thường lắm, dịu dàng đấy mà giận lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc
dỗi được ngay. Không chỉ có tính cách đa dạng mà chúng ta thấy sông đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà
Đà hiện lên như một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu
ấy tự thay tấm áo đã cũ màu, khoác cho mình tấm áo mới, luôn luôn cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con
thay đổi, luôn tự làm mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Con Sông Đà sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ
gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang
há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên
sông “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải
chiêm bao đứt quãng”. Với nghệ thuật so sánh cụ thể Nguyễn đã cho nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng
người đọc thấy được tình cảm, cảm xúc của mình đối với con sông của trên”. Đó là niềm mong ước của nhà văn nửa muốn gìn giữ những nét
miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần là cảm xúc của một con người nguyên sơ của con sông, nửa muốn cải tạo mà khai phá nó để phục vụ
đối với một con sông mà đó là xúc cảm của những “cố nhân” sau bao con người – đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín của
ngày xa cách. Niềm vui ấy như tiếng cười giòn tan trong ánh nắng của Nguyễn?
mặt trời bừng chói sau một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như một giấc
chiêm bao ngọt ngào nhưng ta choàng tỉnh giấc và giờ đây lại được nối Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn,
lại. Niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỗi đợi chờ. trữ tình đồng thời vô cùng kiều diễm. Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn
Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền chủ yếu
lại “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều
lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Ấy thế mà khi được gặp lại cố nhân lại trào thanh trắc thì đến đoạn văn này,
dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải chăng bởi con sông kia quá Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử và
gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ của một “người tình nhân chưa quen kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai
biết”. của “thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ
nhận thấy có đến mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với
Sông Đà còn có những khoảng không gian, những cảnh sắc đầy thơ thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại. Người yêu văn có
mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời thể dễ dàng chuyển thẳng những đoạn văn Nguyễn Tuân viết về dòng
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Cái lặng lẽ của sông Đà ở hạ lưu thành những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
thanh bình, yên ả mà có lẽ bất cứ một tâm hồn khó tính nào cũng muốn Phong cách Nguyễn Tuân này trước cách mạng ta chỉ bắt gặp ở nhà văn
ở trọ nơi đây. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch tính,
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ không gay cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Đến
tích tuổi xưa”. Chút hoang dại của lịch sử đất nước thời khai thiên lập đây, ta lại bắt gặp ở nhà ngôn ngữ tài ba Nguyễn Tuân một phong cách
địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao mơ mộng gửi theo những câu nghệ thuật tương tự.
chuyện cổ tích mà mẹ, bà thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên bờ
sông Đà vừa hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ trẻ.
Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu
mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp
trong mùa xuân với sự sống đang cựa mình, sinh sôi. Thực và mộng
chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên
thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được
giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường
sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, được đánh thức bởi sự hiện diện
của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không
một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”
mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê,
quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Từ quá khứ nhà văn
trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có
con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ
được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười. Rõ ràng cảnh vật nếu
không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang
mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với
loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương,
chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật
lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một
tiếng còi sương?”. Con vật hỏi người hay chính người đang say trong
cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những
3. Hình tượng người lái đò sông Đà:  Cuộc chiến đấu: chia thành 3 chặng:
a. Cách giới thiệu nhân vật - Trùng vi thạch trận thứ nhất:
- Nguyễn Tuân để cho người lái đò sông Đà xuất hiện trong tâm thức + Đá sông dàn thạch trận, mở ra năm cửa: bốn cửa tử và một cửa sinh.
của người đọc đặt trong mối tương quan giữa thạch thủy trận của Đà Những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Sóng nước thì hò la vang dậy,
ùa vào bẻ gãy cán chèo. Thác nước sông Đà mưu mô xảo quyệt tới mức
giang.
như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng, vào
- Mối tương quan tưởng chừng như đối lập: Dòng sông Đà hung bạo,
hông thuyền.
dữ tợn, thiên nhiên bao la, choáng ngợp trong khi hình ảnh của con
+ Ông lái đò lúc bấy giờ đã bị thương vẫn nhất định giữ lấy mái chèo, hay
người bé nhỏ.
chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn
- Thế nhưng không, đối lập lại với điều này là tầm vóc của con người
gọn, tỉnh táo. Ông đò thực thụ là một người chiến sĩ, người chỉ huy vô cùng
lao động bình thường thoáng chốc trở nên vĩ đại, lớn lao, phi thường. bản lĩnh, dũng cảm.
=> Dòng sông và con người soi chiếu vào nhau để từ đó phát hiện ra - Trùng vi thạch trận thứ hai:
những vẻ đẹp của riêng mình. + Đá sông tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang bờ hữu ngạn.
b. Lai lịch, ngoại hình Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá, bám lấy thuyền
 Lai lịch: rồi lỗi vào tập đoàn cửa tử.
- Ông đò quê ở Lai Châu làm nghề chèo đò trên dòng sông Đà đã hơn + Với ông đò “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”.
10 năm. Với khoảng thời gian chinh chiến này, đủ để đôi tay của ông Ông “nắm chặt lấy bờm sóng, đúng guồng rồi ông đò ghì cương lái mà lái
vững vàng và trở thành một tay lái lão luyện: “Trên sông Đà ông xuôi, miết một đường chéo về phía cửa đá”. Chinh chiến đã lâu, ông đò thuộc
ông ngược trên 100 lần rồi và chính tay ông giữ lái độ 60 lần. lòng binh pháp của thần sông, thần đá nơi đây, cho nên ông lão đã vận
- Ông là một con người từng trải, là linh hồn của muôn thủa sông nước dụng sáng tạo những chiến thuật của mình để giành lấy chiến thắng cuối
Đà giang, ông hiểu dòng sông như chính bản thân mình. Đối với người cùng. “Đứa thì ông tránh và rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn chặt đôi ra
lái đò sông Đà, dòng sông này là nơi để ông ghi lại những dấu ấn, viết để mở đường tiến.” Ông lão ấy đã giao chiến với tướng đá, quân đá thạch
những bản thiên hùng ca trong cuộc đời của mình. Nó thân thuộc tới trận sông Đà như một dũng sĩ anh hùng giữa đời thường.
- Trùng vi thạch trận thứ ba:
mức, như cách ông nhớ một bài văn, nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu
+ Bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữ bọn đá hậu vệ
chấm than và cả những đoạn xuống dòng.
+ Ông lái đò hiện lên với sự nhịp nhàng, điêu luyện khi chèo lái con
=> Nguyễn Tuân thể hiện sự cảm phục của mình với người lái đò bằng
thuyền: “Vút, vút, cửa ngoài, của trong lại cửa trong cùng thuyền như
những hình ảnh so sánh đầy chất văn, cuộc sống của ông lão, đơn giản
một mũi tên tre xuyên qua nhanh hơn nước, vừa xuyên vừa tự động lái
bình thường nhưng cũng vô cùng phi thường. được, lượn được.”
 Ngoại hình: + Nguyễn Tuân đã đưa ra một phép so sánh độc đáo và chính xác, gây
- Là một ông lão 70 tuổi với mái tóc bạc phơ. Cái đầu bạc quắc thước được nhiều ấn tượng trong lòng đọc giả đó là hình ảnh người lái đò và
đặt trên một thân hình cao to gọn quánh những chất sừng, chất mun và người lái xe đang lao xuống dốc đèo. Người lái xe khi nguy nan vẫn còn
hai cánh tay trẻ tráng. Nhãn giới của ông cao vời vợi, tiếng nói ào ào chỗ để bám víu, đó là phanh tay, có tiến lên, lùi lại còn đối với người lái đò
như nước thác trước mặt ghềnh sông. Hai chân khuỳnh khuỳnh như lúc bây giờ thì không còn đường lùi “Cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có
nào cũng kẹp chặt một cái cuống lái trong tưởng tượng, tay ông dài lêu cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng
nghêu. => một con người cưỡi sóng, đạp gió là vẻ đẹp của người anh nước thì thuyền quay ngang mà úp xuống chứ không có lùi gì cả”.
hùng lao động giữa cuộc sống đời thường. => Trong trận thủy chiến, ông lái đò như một chiến tướng “tả xung hữu
- Ông lái đò được tác giả miêu tả bằng những cảm nhận phong phú từ đột”, phát huy trọn vẹn, đủ đầy tài trí sự linh hoạt ứng biến của mình. Vượt
các giác quan, cảm hứng của người nghệ sĩ và bằng kho từ ngữ phong qua ba trùng vi thạch trận với rất ít cửa sinh, ông lái đò đã thành công trong
phú, giàu giá trị tạo hình để cho người đọc có được đủ đầy nhất những việc phá vỡ trùng vi thạch trận này để giành thắng lợi về cho mình.
con người sinh ra từ sóng nước Đà Giang. => Miêu tả ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn đưa ra một triết lý, một thông
điệp: “Giữa thế giới tàn độc, dữ dội và nham hiểm, thế giới man dại đầy
c. Phẩm chất, tính cách
những cạm bẫy ấy, con người vẫn dũng cảm, vẫn đủ kinh nghiệm tìm lại
Ông lái đò – con người tài hoa, trí dũng vô song:
luồn sinh bằng sự trải nghiệm và trí tuệ tuyệt vời của mình.”
- Công việc hàng ngày của ông là vượt thác ghềnh, phá thạch trận vòng
 Ông lái đò – người nghệ sĩ giữa sông nước Đà giang:
vây của thủy thần ác quái. Bằng kinh nghiệm của mình, ông xử lý tình
- Trận thủy chiến dữ dội như vậy, khó khăn như vậy thế nhưng bằng tài
huống nguy hiểm một cách khéo léo, dứt khoát, táo bạo, tài tử đến kỳ năng, trí dũng của mình, ông lái đò đã vượt qua tất cả những khó khăn để
diệu. trở về với cuộc sống thanh bình. “Thế là hết thác, dòng sông vặn mình vào
- Nhà văn đã đặt hình ảnh của người lái đò, trong trận chiến với Đà một cái bến cát có hang lạnh...sông nước lại thanh bình...đêm đó nhà đò đốt
giang dữ dội, hung bạo, quỷ quyệt, để làm nổi bật vẻ đẹp của người lao lửa trong hang đá, nước ống cơm lam mà bàn tán về cá anh vũ, cá dầm
động bình thường: “Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian xanh...” - Ông lái đò bây giờ, trải qua hết những thời khắc khó khăn vất vả
lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy đề trở về với những phút giây thanh bình, mơ mộng, quên đi khoảnh khắc
chiến ở mặt trận Sông Đà.” mình vừa cận kề với cái chết, quên đi khoảnh khắc phải đối mặt với thủy
 Tương quan lực lượng: thoạt nhìn thì đây là cuộc đấu không cân sức: quái. Có thể thấy, ông lái đò sông Đà là một dũng tướng mang trong mình
- Bên này là thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được tâm thái của một người nghệ sĩ: ung dung, tự do, tự tại. Đó là một cao nhân,
nâng lên hàng thần thánh, có sóng nước hò reo, quyết vật ngửa con đồng thời cũng là một “tao nhân”.
thuyền, có thạch trận với đủ ba lớp trừng vi vây bủa được trấn giữ bởi => Viết về người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân hiện lên với tràn
những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm. đầy cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng ấy thấm sâu và lan tỏa trong những câu
- Bên kia là con người nhỏ bé, không hề có phép màu, vũ khí trên tay văn viết về đời thực, viết về con người thực. Cảm hứng lãng mạn được sử
chỉ là chiếc cán chèo trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. dụng trong tùy bút, đặc biệt khi viết về người lái đò đã tạo nên một khúc ca
tươi đẹp, hào sảng khi viết về con người lao động.
Phân tích chi tiết: Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận, khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm
Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi – cách sử dụng từ độc đáo đã giúp nhà văn làm
những con người đặc tuyển, xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài thường cô hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt
đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp
ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, đó là những vẻ đẹp vang bóng một thời miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác: “mặt sông trong tích tắc
thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuối tiếc. Sau 1945, quan niệm lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”
thẩm mĩ của nhà văn đã có những thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con người từ – đây vẫn là cách miêu tả thông qua cảm giác quen thuộc của Nguyễn Tuân –
phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ vết thương đau đớn của ông đò đã dược thể hiện bởi cảm giác toé đom đóm và
người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc rát bỏng như lửa cháy. Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng
của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa quá chênh lệch với sóng thác sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương
nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau năm 1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của
tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thạch trận trên sông Đà. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo
thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm
sông Đà trong tùy bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà văn khám phá và phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.
thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa mà còn trí dũng. Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm –
sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật”
bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông. của dòng sông, thác đá... Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò điều khiển, thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà khi nắm chắc
đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười bờm sóng... ghì cương... phóng nhanh vào cửa sinh; kinh nghiệm dày dặn và trí
năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết ông nhớ mặt từng đứa
«ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng trong bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước để có cách ứng phó phù hợp. Những
quá». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường
dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè sấn lên mà chặt đôi... cho thấy những
cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống biện pháp kì diệu của một tay lái ra hoa – trí tuệ và tài hoa con người thậm chí
lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình
Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá
trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp
huân chương siêu hạng. Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ
chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở
gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở
sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, giữa những đợt sóng thác dữ dội. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp
nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp
được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn những động từ và danh từ nối tiếp: vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. cùng... đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi
thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò
Và để khắc họa vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình và biểu cảm: “vút...
một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó nổi bật sự tương phản vút”... qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua
giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí dũng ngoan cường, đó làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi với cách so sánh về một mũi tên
cũng là “trận thủy chiến” dữ dội giữa một bên là những trùng vi thạch trận của tre xuyên qua hơi nước, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự
đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiến thuyền then đuôi én bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả
mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé, đơn độc. Đối thủ ghê gớm của ông trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên
đò trong cuộc vượt thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ dằn. Những thuật cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu.
ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như “dàn sẵn trận địa... dụ thuyền đối
phương... đánh khuýp quật vu hồi...” đã nhân cách hóa dòng sông khiến cho Trí tuệ, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài
thiên nhiên sông Đà với sóng dữ, thác dữ, đá dữ trở nên hung hãn, hiểm ác như hoa nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, khi
“một thứ kẻ thù số một của con người.” Tác giả còn sử dụng một loạt các từ láy bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh duy nhất giữa bát
miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăm ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn; khi không
nhúm, méo mó, xấc xược thách thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh... một loạt bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dẫu chỉ trong khoảnh
những động từ đặt trong các nhịp câu ngắt ngắn, nhanh, dồn dập: “nước thác khắc; khi luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra
reo hò... hò la... ùa vào... bẻ gẫy... đá trái... thúc gối... đội thuyền... bám lấy hoa. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, người lái đò lại “đốt lửa trong
thuyền...” rồi sử dụng cấu trúc điệp để tả “nước xô đá, đá xô sóng”... hay “sóng hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh... chả
đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm...” Tất cả đã làm hiện lên sự hung thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ
bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc các sức mạnh thiên nhiên kết hợp tướng dữ quân tợn.” Đối với họ, đây không phải là cuộc chiến vĩ đại, đây là
với nhau tấn công những con thuyền đơn độc và con người nhỏ bé. Thiên nhiên những nhiều bình thường họ phải trải qua trong công việc lao động của mình.
sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn công con người. Để đưa Tiếp nhận những điều phi thường bằng tâm thế bình thường, đó là tâm hồn của
con thuyền vượt thác sông Đà khúc thượng nguồn, những người lái đò phải đối một cao nhân đồng thời cũng là một tao nhân. Thái độ bình thản ấy càng làm
đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng sông, trong đó, “vòng đầu, mở ra đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời
năm cửa... cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn... vòng hai tăng thêm nhiều cửa thường bịn rịn khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm
tử... cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn... vòng thứ ba bên phải, bên trái ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện
đều là luồng chết... luồng sống... lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác...” thường ngày.
Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là những tình Người lái đò trí dũng và tài hoa trên dòng sông hung bạo và trữ tình. Vẻ đẹp của
huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi những người lái đò là vẻ đẹp bình dị, thầm lặng nhưng cũng đầy trí tuệ và sức
người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan cường, mạnh, đầy ý chí và nghị lực, tài năng và tài hoa, có khả năng chinh phục thiên
dũng cảm mới có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận nhiên, bắt nó phải phục vụ con người xây dựng đất nước. Đó chính là “chất
trên dòng sông. vàng mười” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói
chung trong thời kì mới.
IV. Mở bài và kết bài tham khảo
Kết bài 1:
Mở bài 1: Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người
Việt Nam - đất nước - nơi những dòng sông thương nhớ chảy về Việt Nam - Những đồng tác giả của trăm vẻ đẹp từng làm
đã dệt nên bao vần thơ đẹp. Đã có sông Hương thơ mộng trong đắm đuối lòng ta trên trăm dáng sông xuôi (ý thơ của Nguyễn
trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường hay của Thu Bồn, đã có Khoa Điềm). Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò
"Vàm cỏ Đông" tha thiết chở phù sa trong thơ của Hoài Vũ, có hiện lên càng anh dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại
"Sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm" trong thơ Chế Lan Viên... càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn
Và nay ta lại có Sông Đà trong trang viết tài hoa tài hoa của nhà Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy “
văn Nguyễn Tuân. Nhất định phải có một tiên cảm tiên giác
thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc
nghệ thuật sáng suốt nào mách cho người nghệ sĩ tài hoa về
sống quanh ta vốn rất cũ kỹ, tầm thường, gió vẫn thổi, mây
nguồn cảm hứng sông Đà hàng chục năm trước khi “dòng sông
vẫn trôi, ngày lại qua ngày.. nhà văn chính là người đã mang
ánh sáng” đó thực sự là một địa chỉ lớn của thơ ca, nhạc họa, sân
lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn, diệu kì hơn. Và
khấu. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có bao nhiêu người khắc, vẽ,
Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh của một nhà văn, ông đã
kể chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ
góp phần mang đến cho Thế giới những sắc màu mới. Bước
chưa ai vượt được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước
ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông. vào thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta như bước vào một
chân trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo.
Mở bài 2: Đó là chân trời của cái đẹp, của tài hoa và sự uyên bác.
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp lên một
nền văn minh. Trong địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông Kết bài 2:
đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta được chiêm ngưỡng Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì
một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp
đượm nỗi nhớ nhà trong Tràng Giang của Huy Cận hay một đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Bằng tình yêu thiên nhiên
khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân
Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Nếu đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng
những bài thơ trên chỉ là điều kiện chỉ là cái cớ để các nhà thơ thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy
bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà người đọc nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên
mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một dòng nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy
sông thực sự. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hình ảnh dòng bút Nguyễn Tuân.
sông độc bắc lưu hiện lên rất riêng và độc đáo.
Kết bài 3:
Mở bài 3: Thành công xuất sắc của tùy bút Người lái đò sông Đà đó là
Tây Bắc ư? có riêng gì Tây Bắc bức tranh thiên nhiên rất thực hòa quyện với cảm hứng mãnh
Khi lòng ta đã hóa những con tàu liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên) thiên nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật. Đọc
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo Người lái đò sông Đà, ta yêu thêm con người Việt Nam cần
tiếng gọi của tâm hồn Tây Bắc để xây dựng lại miền quê của cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng
Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất
lột xác để đến với Cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ Việt.
yêu nước ấy là Nguyễn Tuân - cây độc huyền cầm của nền
văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm
thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút
người lái đò sông Đà - một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu
sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. Tùy bút sông Đà
là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện,
những đoạn tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, hoặc cảnh
thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh giữa những vẻ
đẹp ấy là hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội
nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và lãng mạn.
Văn bản: VIỆT BẮC
-Tố Hữu- TỐ HỮU TÂM SỰ VỀ BÀI THƠ “VIỆT BẮC”
Bài thơ của một người sống trong thực tiễn cách mạng, không
“ Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với phải khách du lịch ngắm cảnh. Đó là tâm tình của người cách
lịch mạng, không phải tâm tình của cá nhân, là cái tôi cá nhân mà
trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt cái tôi cá nhân của tôi hòa vào cái tôi chung của cách mạng,
động của Tố Hữu. nhân dân. Đất nước thành máu thịt của tôi và ngược lại. Tôi
Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí rất thích hai câu thơ của Chế Lan Viên:
cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng. “Khi ta ở chỉ là nơi ta ở
Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ.” Tôi hoạt động ở Việt Bắc mười mấy năm, sống cùng đồng
(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)
bào các dân tộc ít người, chia sẻ nhau từng cơn sốt rừng, từng
sự thiếu thốn, hiểm nguy. Khi về Hà Nội, tôi cảm thấy đã để
I - THÔNG TIN TÁC GIẢ: Tố Hữu lại một phần đời ở Việt Bắc. Đó là lí do tôi viết “Việt Bắc”.
“Mình và ta”, thông thường cũng như trong ca dao, được
- Lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng => Nhà thơ, chiến dùng để chỉ hai người gắn bó với nhau bằng tình cảm tha
sĩ thiết.
- Chặng đường thơ song hành cùng chặng đường Một số bài phê bình, phân tích bài thơ như một chuyến chia li
Từ Cách mạng
giữa một chàng trai dưới xuôi và một cô gái dân tộc, hay khá
khó - Phong cách thơ: trữ tình chính trị.
a - Quan niệm thơ: "Viết thơ phải xứng đáng là người hơn, là cái tôi thi sĩ chia tay với cảnh vật núi rừng, con người
chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng." Việt Bắc. Đó là cách phân tích dựa vào ca dao, tục ngữ hay
- Ngoài vai trò nhà thơ, ông còn là một nhà chính trị của đời sống bình thường. Nhưng bài thơ này có cuộc sống
tài ba. độc lập riêng.
“Mình, ta” không phải dùng cho ngôi thứ nhất và ngôi thứ
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách hai, không phải một từ chỉ chủ thể, một từ chỉ khách thể mà
mạng Việt Nam. Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó cả hai đều chỉ chủ thể. Tôi nhắc lại “Mình và ta” ở đây đều
và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy chỉ chủ thể.
gian khổ, hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của “Nghĩa là mình ấy, ta ấy đều là một phần của đời sống thi sĩ
dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động đã trải qua ở Việt Bắc. Cái phần đời này trò chuyện, quyến
trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính luyến với phần đời kia. Cho nên cuộc chia tay không phải
nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét rằng: “...Tố Hữu đã đưa diễn ra bình thường trong thời gian, không gian cụ thể mà
thơ chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...” Nhà thơ quan diễn ra trong máu thịt, trong tâm hồn nhà thơ. Sự chia ly bản
niệm : "Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thân mình là cuộc chia ly khó khăn nhất, đắm đuối nhất, tha
thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập thiết nhất. Phải hiểu đúng cách dùng hai từ “mình”, “ta” này
trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. của tác giả mới hiểu đúng bài thơ.
Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với Có cách hiểu bốn câu:
người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Tiếng ai tha thiết bên cồn
Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu Bâng khuâng trong dạ bồn bồn bước đi
tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, Áo chàm đưa buổi phân li
với cái xấu cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng." Vì thế Hay ở cảm giác tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn mà lòng ai
nhà thơ vừa mang trong mình chất thi sĩ, vừa mang trong cũng có. Ba trạng thái tâm trạng: bâng khuâng hụt hẫng, niềm
mình chất chiến sĩ lý tưởng, nhiệt huyết, kiên trung. vui rời bỏ, bồn chồn không yên dạ. Khổ thơ vẽ lên cảnh chia
li da diết như phải dứt đi khối tình đau đáu. Nhưng “áo chàm”
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: có phải là hình ảnh hoán dụ để nói đến đồng bào Việt Bắc?
Hiểu như thế quá đơn giản và lệ thuộc. Cách đó không phải là
Để hiểu hơn về tác phẩm cũng như những dụng ý nghệ thuật
cách để hiểu thơ ca. Tuy đồng bào Việt Bắc mặc áo chàm
của tác giả, tham khảo bài viết dưới đây:
nhiều và có thể mặc khi đưa tiễn cán bộ nhưng áo chàm ở đây
mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Màu chàm nâu trong tâm thức
người Việt là màu đơn sơ, chân thực, không kiểu cách, lòe
loẹt. Nó biểu hiện sự chân thành, giản dị. Hơn nữa, ở đây cả
chủ thể và khách thể đều hòa chung làm một nên:
“Áo chàm là biểu tượng cho tấc lòng chung thủy của mọi người.” đẹp, cảnh vật nở bừng hoa mà tác giả muốn tả cảnh đẹp để làm
Cái tình tha thiết, bâng khuâng bồn chồn thì lời thơ nào tả cho nổi bật con người trong đó. Con người lao động bình dị và tiếng
hết được? Tình cảm càng thắm đượm, càng nồng nàn thì ngôn từ hát ân tình thủy chung. Cảnh vật và con người hòa quyện, tôn
càng bất lực. Những người thân yêu ruột thịt gặp nhau hay xa nhau lên. Con người Việt Bắc hiện lên như thế: đâu cũng có
nhau lâu ngày còn có hành động nào hơn lời nói là nắm tay, là cảnh đẹp, đâu cũng có con người ân tình. Trong chiến tranh du
ôm chầm lấy nhau? Cái ngôn ngữ của bàn tay nóng ấm gắn liền kích, Việt Bắc là căn cứ địa vững vàng. Rừng che giấu bộ đội,
với trái tim đầy xúc động, run rẩy hơn mọi lời nói khác, nhất là cán bộ, khiến giặc có mắt như mù: mặt khác rừng núi là thiên la
cuộc chia lí với chính mình này. Cho nên biết nói gì cho thỏa địa võng mà hễ quân giặc lạc vào là lạc lối, là mắc cạm bẫy, là
chứ không phải không biết nói gì, không có gì để nói. uổng mạng.
Chú ý đến hai câu: “Rừng vây quân thù”
“Mình về rừng núi nhớ ai” Vì sao? Vì rừng núi là quê hương của ta, là sức mạnh của quê
“Mình về có nhớ núi non” hương. Quê hương ân nghĩa chở che những người con đang anh
Nỗi nhớ như tiếng gọi trong thung lũng. Có một lời vang lên là dũng chiến đấu bảo vệ đất đai, núi sông. “Lũy sắt dày, bốn mặt
có tiếng vọng lại ấm áp hơn, tha thiết hơn. Không cảm thấy cuộc sương mù” không nên hiểu theo nghĩa đen mà là trận địa lòng
phân li nữa mà chỉ thấy nỗi nhớ lớn lên, bền bỉ và thắt chặt mọi dân, cả đất trời núi sông Việt Bắc. Thiên nhiên Việt Bắc cũng
người trong kí ức chung đẹp đẽ. “Hắt hiu lau xám” đối với “đậm góp phần đánh giặc, làm nên chiến thắng. Khó có thể tả hết khí
đà lòng son” và làm nổi bật nhau hơn. Tấm lòng dân Việt Bắc thế hào hùng của quân và dân ta thuở ấy. Hàng ngàn vạn người
bền vững như núi rừng Việt Bắc. ra trận, từng đoàn từng đoàn bộ đội, dân công đi như sóng cuộn,
Câu thơ: rung chuyển cả núi rừng, đêm đốt đuốc sáng rừng. Cho nên tả
“Mình đi mình có nhớ mình thế không có gì cường điệu. Một loạt điệp từ, từ láy, gợi hình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình cây đa” gợi thanh, ấn tượng, khiến người đọc cảm thấy sự hối hả, luân
điệp lại ở đoạn sau khẳng định sự không thể chia cắt của chủ thể. chuyển không ngừng của những đoàn quân ra trận. Nhịp 2/2 như
“Ta mình”, “mình ta” phân đôi này chỉ là phân đôi nỗi nhớ, một nhịp bước hành quân mạnh mẽ, oai hùng. Anh hùng, kiêu hãnh,
về Hà Nội, một ở Việt Bắc. Còn sự chung thủy sắt son thì không đạp bằng mọi gian nguy tiến lên phía trước.
gì có thể lay chuyển. Có khi là sự tạo điểm nhấn, chẳng hạn câu: Khí phách ấy dồn nén và bật ra thành câu thơ:
“Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Đó là so sánh giữa cái vô tận và cái vô cùng, như tấm lòng người Sự xuất hiện điệp từ “vui” trong đoạn thơ thể hiện sự cộng
mẹ, tình cha. Đó không phải là lời khẳng định hay chứng tỏ tình hưởng của niềm vui dạt dào, mạnh mẽ và lâu bền trong giai đoạn
cảm vì lòng người này đã sống trong lòng người kia rồi cần gì 1953 - 1954 lịch sử. Việt Bắc là trái tim cách mạng của cả nước,
phải phô bày nữa. Đó là lời buộc thốt tự đáy lòng. Có sống cùng gắn liền với hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những năm Bác
đồng bào dân tộc trong những ngày kháng chiến gian lao mới sống và làm việc ở Việt Bắc, từ khắp mọi nơi trong cả nước,
hiểu hết haicâu: nhân dân một lòng một dạ hướng về Người. Người là linh hồn
“Ta đi ta nhớ những ngày của Việt Bắc. Khổ thơ cuối tổng kết tình cảm người ra đi với
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi.” Việt Bắc và nhấn mạnh giá trị của quê hương cách mạng trong
Có những ngày lũ rừng về xối xả, cuồn cuộn, mưa rừng ào ào, đời sống tinh thần của người Việt Nam.
gạo trôi, sắn bị cuốn, địch phục kích sau lưng, những đêm bị cơn Viết theo thể thơ lục bát uyển chuyển có khả năng lột tả được
sốt rét rừng hành hạ, được các mế, các chị cưu mang, đổ nước lá những tình cảm dịu dàng tha thiết. Nó hoàn toàn tương ứng với
khế vào miệng cho uống... mới thấm thía tình người, tình keo nội dung tình cảm của người ra đi. Bài thơ có hai nhân vật trữ
sơn gắn bó. Khi anh sống ở đó rồi anh ra đi anh có cảm giác nhớ tình: “Mình và ta”, nhưng cả “mình và ta” đều là biểu hiện của
từng rừng nứa bờ tre, nhớ cả những vật vô tri bình thường. Nỗi chủ thể tác giả.
nhớ bắt nguồn từ tình người và lan tỏa vào cảnh vật. “Đây” và Khi ấy, 1954, tác giả chia tay Việt BẮc như chia tay một phần
“đó” cũng chỉ là một địa điểm mà thôi. đời sống của mình: một đời sống gian khổ nhưng vui tươi, ân
Hình ảnh “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” cũng chưa phải nghĩa, sâu sắc, da diết, tràn đầy ấn tượng và hạnh phúc.
là mộc mạc nhất. Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng địu con Chính vì thế mà lưu luyến, hồi nhớ lại tất cả. Việt Bắc đã trở
lên rẫy bẻ từng bắp ngô” chẳng hạn. Cuộc sống hiện lên như nó thành quê hương tinh thần của chính tôi (Tố Hữu), của tôi và
vốn có. Nếu ta thờ ơ, bàng quan thì chẳng thấy có gì nên thơ của mọi người. Cho nên nỗi niềm riêng của tôi trong bài thơ đã
nhưng nếu có một chút lưu luyến gắn bó, lặp tức thấy có ngọn thành nỗi niềm, tình cảm chung của cán bộ, chiến sĩ, của nhân
lửa lung linh bền bỉ của sự sống. dân.
“Phách” là một loại cây ở rừng Việt Bắc. Khi mùa thu đến thì lá (Nguyễn Quang Thiều (chủ biên): “Tác giả nói về tác
ngả vàng làm cả rừng vàng rực lên. Câu thơ chỉ tả hình ảnh giản phẩm. Hỏi chuyện các tác giả có tác phẩm giảng dạy
dị như thế chứ không có ý tả tiếng rừng, nhạc rừng gì cả! Còn trong nhà trường.”)
“ngọn hoa chuối”, nhìn ở đồng bằng thì không có cảm giác gì,
nhưng nhìn ở vùng núi, giữa đám lau lách, cỏ hoa thì lại có giá
trị đặc biệt. Nó cho cảm giác bông hoa thật chứ không mong
manh, chóng tàn như những loài hoa khác. Không phải là cảnh \
1. Hoàn cảnh sáng tác: 6. Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét
- Việt Bắc là căn cứ điểm Cách mạng vững chắc của Cách sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu
mạng Việt Nam. Nơi đây người dân Việt Bắc đã đùm bọc, hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội
che chở và sát cánh cùng cán bộ, bộ đội để bảo vệ nền độc lập chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là
dân tộc. người nông dân nghèo khổ.
- 7/5/1954, ta giành thắng lợi trên chiến trường Điện Biên (Chặng đường mới của chúng ta, 1961,
Phủ. Hoàng Trung Thông)
- 20/7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký
kết. 7. Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính
- 10/1954, các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ rời là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ
chiến khu Việt Bắc tiếp quản thủ đô Hà Nội. Đây là sự kiện (Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959,
trọng đại và nhân sự kiện chính trị, thời sự quan trọng này , Đặng Thai Mai)
Tố Hữu viết bài thơ để nói về cuộc chia tay giữa cán bộ miền
xuôi và nhân dân Việt Bắc. 8. Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời
- Bài thơ in trong tập “Việt Bắc” là bản hùng ca của kháng mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia
chiến. còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng
- “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và là thành công xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết
xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.
Pháp. Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu
- Bài thơ là khúc hùng ca, bản tình ca về Cách mạng, về chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân
kháng chiến, về con người kháng chiến, thể hiện rõ phong tộc.
cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. ... Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi
toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính... Anh là một con chim
2 . Nhận xét về tác giả và tác phẩm vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh
1. “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu đẹp.
thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.” (Tố Hữu – “Nhà văn nói về (Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 của Tố Hữu,
tác phẩm”) Văn học, 1964, Chế Lan Viên)

2. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, 9. Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình.
nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ.
đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng
được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng
ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. khiếu về hình tượng như thế nữa; không còn suối nguồn ở
(Chế Lan Viên – “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”) bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc
của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra
3. Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh
(Xuân Diệu – “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”) nói một cách rất hay về thơ.
(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975,
4. Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy Pierre Emmanuel)
chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng
ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự. 10. Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra
(Xuân Diệu - “Tố Hữu với chúng tôi”) cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi,
nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ
5. Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới
lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho
hoạt động của Tố Hữu. người lao khổ.
Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí (Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)
cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng.
Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta
đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ.
(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc
Việt Nam xuất bản, 1946)
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: => Hai câu hỏi tu từ với hình thức điệp từ ngữ cấu trúc, vận dụng
tinh tế và sáng tạo văn học dân tộc, 4 câu thơ thể hiện ân tình sâu
nặng của đồng bào Việt Bắc với người kháng chiến.
b) 4 câu thơ tiếp: Lời đáp lại của người ra đi - Tiếng lòng
của người ra đi
- Tiếng ai - Đại từ phiếm “ai” . “Ai” là người ở lại nhưng mang tính
chất phiếm chỉ, không rõ ràng, không phải những người cụ thể. Đó
là tiếng ai đó, hay tiếng núi rừng, tiếng suối sông Việt Bắc hay tiếng
lòng chưa cất thành lời. Tình tri kỷ khiến người đi thấu hiểu nỗi
lòng tha thiết của người ở lại. Hay nỗi lòng tha thiết của người đi
gặp được sự đồng vọng của người ở thể hiện một tấm lòng thủy
chung .
- Câu thơ như một lời hồi đáp của người ra đi rằng chúng tôi đã
nghe thấy những điều gửi gắm của người của ở lại - đồng bào VB.
- Đảo từ: “Trong dạ bâng khuâng, bước đi bồn chồn”
+ “Bâng khuâng”: sự đan xen của nhiều cảm xúc, có vui, có buồn,
có lưu luyến nhớ nhung.
+ “Bồn chồn”: cảm giác nôn nao, phấp phòng không yên, không chỉ
1. 8 câu thơ đầu - Khúc hát chia ly giữa người đi kẻ ở: biểu hiện ở nội tâm mà còn hiện ra trong bước chân, gương mặt,
“Mình về mình có nhớ ta ánh mắt.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng => Nhấn mạnh vào mặt cảm xúc của người ra đi: Lòng đầy lưu
... luyến, bâng khuâng. Bước đi ngập ngừng cứ đi rồi lại dừng,
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” ngoái nhìn cảnh vật và con người nơi đây. => Vừa vui, vừa buồn;
Hình thức đối đáp quen thuộc trong ca dao: vừa tiếc nuối, vừa hào hứng,...
- Có người ra đi và người ở lại ( mình - ta ), tuy nhiên đối đáp chỉ là - “Áo chàm” => Hoán dụ. Trong giây phút chia ly, nếu “tiếng ai” là
hình thức bên ngoài còn thực chất bên trong là lời độc thoại , tự âm thanh mơ hồ, là tiếng lòng người ở lại vang lên nhờ sự đồng
biểu hiện cái Tôi trữ tình của tác giả. Cho nên dù là lời của người ra cảm của người đi thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại hiện lên cụ thể
đi hay lời của người ở lại đó vẫn là tiếng lòng chung của con người đến não lòng...
kháng chiến. +Áo chàm là biểu tượng đơn xơ xúc động, hình ảnh trang phục
=> Nghệ thuật phân thân của chủ thể trữ tình khiến cảm xúc trong quen thuộc của đồng bào VB.
cuộc chia tay càng thêm sâu sắc, mãnh liệt, lưu luyến. + Màu chàm: màu thể hiện cho sự giản dị, mộc mạc, bền bỉ,
a) 4 câu đầu: Lời của người ở lại chịu thương chịu khó, màu của nghĩa tình.
- Câu hỏi tu từ: Người ở lại - Đồng bào VB - hỏi người ra đi: khi về => Đồng bào Việt Bắc, tô đậm những vẻ đẹp phẩm chất của
với Hà Nội rồi liệu còn nhớ nơi đây nữa hay không? người ở lại.
- “Ấy” - cá nhân hóa khoảng thời gian 15 năm - khoảng => Hình ảnh đồng bào VB trong buổi chia tay cán bộ cách mạng
thời gian đong đầy kỷ niệm của đồng bào Việt Bắc và cán bộ CM. về xuôi.
Đại từ “ấy” khiến những danh từ chỉ thời gian trước nó bị đẩy về - Hình ảnh: “cầm tay”- cái nắm tay giữa cán bộ CM và đồng bào
quá khứ xa xăm, thành thời gian của nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, VB.
tiếc nuối - Họ ngậm ngùi không nói được tiếng nào - không cất lên
- “Thiết tha, mặn nồng" => để diễn tả tình cảm gắn bó, bền chặt của thành lời:
cán bộ CM và đồng bào VB trong 15 năm qua. Đây vốn dĩ là những + Quá xúc động nên cổ họng nghẹn lại, không cất được thành lời.
từ ngữ chỉ dùng khi nói về tình cảm của đôi lứa, uyên ương nhưng + Quá nhiều điều nói, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu.
lại được Tố Hữu đưa vào đây thật phù hợp, thật đẹp, thật tình. Tình Khái quát:
cảm giữa cán bộ CM và đồng bào Việt Bắc keo sơn, bền chặt. Khúc hát chia ly giữa người đi kẻ ở, thể hiện tình cảm gắn bó
- Câu hỏi tu từ: Nhắc nhớ về những năm tháng đã trôi qua. mặn nồng giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ Cách mạng.
Câu hỏi này khiến cho con người trăn trở suy ngẫm vì sự tha
Được coi là khúc nhạc dạo đầu của bài thơ Việt Bắc, gợi bao
thiết nghiêm nghị trong giọng thơ. Câu hỏi hướng về không gian
nghĩa tình yêu thương gắn bó.
chia thành hai miền: xuôi - ngược, gợi sự quấn quýt gắn bó ta -
mình, thể hiện nỗi nhớ người ở lại nhưng đồng thời cũng là lời chất
vấn của người trở về thủ đô phồn hoa đô thị. Liệu người ra đi có
nhớ về Việt Bắc, về cội nguồn và quá khứ. Câu thơ gợi ra suy ngẫm
về nghĩa tình, đạo lý, về cội nguồn thủy chung. Liệu người ra đi còn
nhớ về Việt Bắc, cội nguồn, nhớ quá khứ hay không ?
- Cây - núi: Nhớ về thiên nhiên VB
- Sông - nguồn: Cội nguồn của nghĩa tình.
Phân tích chi tiết: Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều - Mười lăm năm bằng
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được ký thời gian Kim - Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về
kết, tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng nhau (Những là rày ước mai ao - Mười lăm năm ấy biết bao
và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự nhiêu tình). Khác với Nguyễn Du, quãng thời gian 15 năm đó
kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt là khoảng thời gian sinh hoạt, chiến đấu cùng đồng bào VB;
Bắc, khắc họa lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng... Tính từ “thiết tha, mặn
thủy chung son sắt. Trong tám câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái nồng" diễn tả tình cảm gắn bó, bền chặt của cán bộ CM và
hiện không khí bâng khuâng, lưu luyến trong những phút giây đồng bào Việt Bắc trong 15 năm qua. Đây vốn dĩ là những từ
đầu tiên của buổi chia ly giữa kẻ ở - người đi. Khúc dạo đầu ngữ chỉ dùng khi nói về tình cảm của đôi lứa, uyên ương
được khơi gợi từ lời của những người ở lại: nhưng lại được Tố Hữu đưa vào đây thật phù hợp, thật đẹp,
“Mình về mình có nhớ ta thật tình. Tình cảm giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào Việt
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Bắc keo sơn, bền chặt.
Mình về mình có nhớ không Câu hỏi tu từ thêm nhắc nhớ về những năm tháng đã trôi qua.
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn Câu hỏi này khiến cho con người trăn trở suy ngẫm vì sự tha
Tiếng ai tha thiết bên cồn thiết nghiêm nghị trong giọng thơ. Câu hỏi hướng về không
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi gian chia thành hai miền: xuôi - ngược, gợi sự quấn quýt gắn
Áo chàm đưa buổi phân li bó ta - mình, thể hiện nỗi nhớ người ở lại nhưng đồng thời
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” cũng là lời chất vấn của người trở về thủ đô phồn hoa đô thị.
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén Liệu người ra đi có nhớ về Việt Bắc, về cội nguồn và quá
được, cứ trào ra theo ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng khứ. Câu thơ gợi ra suy ngẫm về nghĩa tình, đạo lý, về cội
thơ. Để bài thơ trở thành một khúc hát ân tình tha thiết, Tố nguồn thủy chung. Liệu người ra đi còn nhớ về Việt Bắc, cội
Hữu đã sáng tạo cách kết cấu rất phù hợp với nội dung tư nguồn, nhớ quá khứ hay không ? Việt Bắc đã hỏi người cán
tưởng, cảm xúc ấy: lời đối đáp trong một cuộc chia ly của kẻ bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình
ở người về. Có người ra đi và người ở lại (mình - ta), tuy cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười
nhiên đối đáp chỉ là hình thức bên ngoài còn thực chất bên lăm năm gắn bó? Nhìn cây còn có nhớ núi, nhìn sông còn có
trong là lời độc thoại , tự biểu hiện cái Tôi trữ tình của tác nhớ đến nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai câu hỏi
giả. Cho nên dù là lời của người ra đi hay lời của người ở lại tu từ. Tố Hữu hơn một lần vận dụng rất sáng tạo và nhuần
đó vẫn là tiếng lòng chung của con người kháng chiến. Nghệ nhuyễn văn học dân gian, làm nền tảng tạo nên giọng điệu
thuật phân thân của chủ thể trữ tình khiến cảm xúc trong cuộc tâm tình, tự nhiên, chân thành rất hiện đại, rất riêng của mình.
chia tay càng thêm sâu sắc, mãnh liệt, lưu luyến. Dân gian ta vẫn từng có câu nằm lòng:
“ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Bài thơ mở ra trong một cảnh chia tay với tâm trạng bâng “ Uống nước nhớ nguồn”
khuâng, bồn chồn, bịn rịn, lưu luyến của kẻ ở người đi - hai Việt Bắc đã chịu nhiều đau thương đã cùng gánh trên vai như
người từng gắn bó sâu nặng bền lâu qua mười lăm năm một Việt Nam thu nhỏ của cuộc kháng chiến cứu quốc. Vì
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Khung cảnh ấy gợi vậy dù có đi xa nhưng người ở lại vẫn nhẹ nhàng nói với
nhớ đến những cuộc hát đối đáp trong đêm giã bạn ở vùng người ở lại một ân tình Cách mạng mà nơi ấy “cây” là người
quê quan họ hay trong sinh hoạt dân ca ở nhiều vùng. Người ra đi, “núi” và “nguồn” là chiến khu miền núi.
ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để
gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn nghĩa tình: nói lên đạo lý Việt Nam truyền thống vốn là bản chất tốt đẹp
“Mình về mình có nhớ ta của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà chính là nhắc nhở mọi
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng người, nhắc nhở chính mình bởi vì đạo lí ấy thiêng liêng lắm,
Mình về mình có nhớ không quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy. Sâu nặng biết bao
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết
Câu hỏi tu từ có lẽ chăng chính là người ở lại - đồng bào VB bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu
hỏi người ra đi rằng khi về với Hà Nội rồi liệu còn nhớ nơi thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” hòa quyện
đây nữa hay không? Đại từ “Ấy” - cá nhân hóa khoảng thời quấn quýt cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam
gian 15 năm-khoảng thời gian đong đầy kỷ niệm của đồng đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành
bào Việt Bắc và cán bộ Cách mạng. Đại từ dường như khiến chủ đề lớn của tác phẩm. Hình thức đối đáp ở đây chỉ là một
những danh từ chỉ thời gian trước nó bị đẩy về quá khứ xa thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng, đồng
xăm, thành thời gian của nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc vọng trong tình cảm của người ở và người về.
nuối, gợi liên tưởng đến câu thơ trong “Truyện Kiều”:
“ Mười năm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Cuộc đối thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của
người ra đi - những cán bộ chiến sĩ cách mạng:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Tiếng ai - đại từ phiếm “ai”. “Ai” là người ở lại nhưng mang
tính chất phiếm chỉ, không rõ ràng, không phải những người
cụ thể. Đó là tiếng ai đó, hay tiếng núi rừng, tiếng suối sông
Việt Bắc hay tiếng lòng chưa cất thành lời. Tình tri kỷ khiến
người đi thấu hiểu nỗi lòng tha thiết của người ở lại. Hay nỗi
lòng tha thiết của người đi gặp được sự đồng vọng của người
ở thể hiện một tấm lòng thủy chung . Câu thơ như một lời hồi
đáp của người ra đi rằng chúng tôi đã nghe thấy những điều
gửi gắm của người của ở lại - đồng bào Việt Bắc. Nghệ thuật
đảo ngữ : “Trong dạ bâng khuâng, bước đi bồn chồn” thật
độc đáo. “Bâng khuâng” ở đây là sự đan xen của nhiều cảm
xúc, có vui, có buồn, có lưu luyến nhớ nhung. Còn “bồn
chồn” lại là cảm giác nôn nao, phấp phòng không yên, không
chỉ biểu hiện ở nội tâm mà còn hiện ra trong bước chân,
gương mặt, ánh mắt. Hai từ láy nhấn mạnh vào mặt cảm xúc
của người ra đi: Tấm lòng nặng trĩu những lưu luyến, bâng
khuâng. bước đi ngập ngừng cứ đi rồi lại dừng, ngoái nhìn
cảnh vật và con người nơi đây, tâm trạng vừa vui, vừa buồn;
vừa tiếc nuối, vừa hào hứng,...
Trong giây phút chia ly, nếu “tiếng ai” là âm thanh mơ hồ, là
tiếng lòng người ở lại vang lên nhờ sự đồng cảm của người đi
thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại hiện lên cụ thể đến não
lòng...Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” là biểu tượng đơn xơ xúc
động, hình ảnh trang phục quen thuộc của đồng bào VB. Màu
chàm là màu thể hiện cho sự giản dị, mộc mạc, bền bỉ, chịu
thương chịu khó, màu của nghĩa tình. Lần chia tay có ý nghĩa
lịch sử ấy được ghi lại với niềm xúc động sâu xa, họ cầm tay
nhau, vấn vương bịn rịn, mười lăm năm ấy đã là quá dài? Vì
thế cầm tay nhau không nói gì cũng chính là nói ra rất nhiều.
Hẳn vì thế mà khổ thơ thứ hai được xem như một lời đồng
vọng đầy thương mến. Cái nắm tay giữa cán bộ Cách mạng
và đồng bào Việt Bắc thể hiện sự ngậm ngùi không nói được
tiếng nào - không cất lên thành lời hay chăng vì quá xúc động
nên cổ họng nghẹn lại, không cất được thành lời hay quá
nhiều điều nói, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu. Câu thơ
gợi nhắc ta nhớ đến câu thơ của Lưu Quang Vũ cũng nói về
tâm trạng chia ly đầy nghẹn ngào xúc động:
“Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Lời chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.”
Như vậy, 8 câu thơ đầu là khúc hát chia ly giữa người đi kẻ
ở, thể hiện tình cảm gắn bó mặn nồng giữa đồng bào Việt
Bắc và cán bộ Cách mạng. Đây được coi là khúc nhạc dạo
đầu của bài thơ Việt Bắc, gợi bao nghĩa tình yêu thương
gắn bó.
2. 12 câu thơ tiếp - Những năm tháng chia ngọt sẻ bùi của ngôi nhà ấy là những tấm lòng son sắt đậm đà của những người
đồng bào Việt Bắc với cán bộ Cách mạng: ở lại.
Mình đi có nhớ những ngày => Đó là nghĩa tình thiết tha trìu mến của những con người nhỏ
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? bé đã góp một phần của mình vào chiến thắng Điện Biên năm ấy
... - Chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Mình đi, mình có nhớ mình - Câu hỏi tu từ gợi nhắc về núi rừng Việt Bắc với hình ảnh của
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? khu căn cứ địa kháng chiến với 2 sự kiện lịch sử: “Nhớ khi
- Câu hỏi tu từ, người Việt Bắc hỏi mình đi rồi có nhớ những kháng Nhật thuở còn Việt Minh”:
ngày mà ta với mình cũng trải qua tháng ngày sống chung với lũ, • Phong trào kháng Nhật những năm 40.
những ngày mưa lớn mây mù hay không. • Phong trào Việt Minh tạo ra mặt trận vũ trang góp phần làm
=> ý muốn nói tới hoàn cảnh thời tiết vô cùng khắc nghiệt. lên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và là tiền đề quan
=> Khơi gợi trong lòng người ra đi về những ngày gian khó. trọng cho những thắng lợi sau này.
Trong gian khó mới thấy được chân tình. Chân tình của đồng - Trong 1 câu thơ có 2 chữ mình: Chữ “mình” đầu ý nói những
bào, của nhân dân là sẵn sàng cùng với những người cán bộ cách người cán bộ Cách mạng; chữ “mình” thứ 2 chỉ đồng bào Việt
mạng trải qua mọi khó khăn, vất vả. Bắc. Thế nhưng cũng có thể hiểu cả 2 chữ mình này đã hòa làm
- Đó là những tháng ngày “giặc đến, giặc lùng”, để có thể bảo 1 giống như tâm hồn của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc đã
vệ tổ chức Cách mạng trong những tháng ngày đầu của cuộc hòa vào nhau. Kẻ đi, người ở đều có 1 tâm trạng bâng khuâng
kháng chiến, đồng bào Việt Bắc cùng cán bộ Cách mạng phải lui tiếc nuối như nhau.
vào rừng sâu cùng nhau trải qua những tháng ngày: “ăn tuyết - Những địa danh hình ảnh gắn với sự kiện quan trọng
nằm sương”, “nếm mật nằm gai”. Nơi đây “mưa nguồn suối của Cách mạng:
lũ” khắc nghiệt (Mưa dữ dội, suối nước chảy xiết) vô cùng nguy • Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22.12.1944
hiểm. đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội VN tuyên
- Những tháng ngày với sự thiếu thốn về vật chất: “miếng cơm truyền Giải phóng quân (Sau này là ngày Quân đội nhân dân
chấm muối” Việt Nam).
=> Những bữa ăn giản đơn, thiếu thốn nhưng vượt lên trên tất cả • Mái đình Hồng Thái: gợi nhắc những cuộc họp chiến lược
họ lại giữ cho mình sự kiên định, vững vàng vì họ hiểu rằng trên quan trọng. từng bước đi tới chiến thắng Cách mạng.
đôi vai của mình đang mang một mối thù lớn, mối thù của quốc
gia, dân tộc. Khái quát
=> Đó là quyết tâm của những người cán bộ cách mạng, nhưng Khẳng định Việt Bắc là cái nôi của Cách mạng, là trung tâm
cũng là quyết tâm của đồng bào Việt Bắc. Họ sẵn sàng quên đi đầu não của cuộc kháng chiến. Nơi đây không chỉ in dấu
cái riêng để hòa nhập vào cái chung, quên đi cái cá nhân để hòa những kỷ niệm đầy nghĩa tình nồng ấm, còn là nơi bắt đầu
nhập vào cộng đồng rộng lớn. cho dân tộc Việt Nam làm nên “thiên sử vàng” chói lọi. Để
- Câu hỏi tu từ gợi tình cảm của thiên nhiên với con người: làm được điều này, nhân dân Việt Bắc đóng một vai trò vô
“Rừng núi nhớ ai” cùng lớn lao.
=> Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để nói lên nỗi niềm bâng
khuâng da diết. Rừng núi ở đây cũng chính là hình ảnh hoán dụ
chỉ đồng bào Việt Bắc. Từ “ai” trong “nhớ ai” ý chỉ những
người cán bộ cách mạng. Là đại từ phiếm chỉ nhưng lại mang ý
nghĩa chỉ cụ thể.
- Câu thơ tiếp theo có 2 hình ảnh: “trám và măng” là lương thực
chủ yếu của bộ đội ta trong những ngày chiến đấu đầy gian khó.
Nay người đi rồi, trám và măng không còn người thu hái, để lại
ở đây là một khoảng hụt hẫng với nỗi nhớ mênh mang.
=> Thiên nhiên mang 1 nỗi buồn trống vắng vì người đi mất,
thiên nhiên nhưng cũng chính là cách để nói về tiếng lòng của
những người ở lại. Là tình cảm của nhân dân với cán bộ thiết
tha, trìu mến.
- Câu hỏi tu từ tiếp theo ý muốn gợi nhớ tới con người Việt Bắc:
- Hình ảnh hắt hiu lau xám muốn nói tới hình ảnh của những
ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc
=> Khung cảnh gợi ra sự hoang vắng, hiu hắt, cô liêu. Thế
nhưng tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập để chứng tỏ rằng bên
ngoài là hình ảnh đìu hiu nhưng bên trong khung cảnh ấy những
Phân tích chi tiết: chính là cách để nói về tiếng lòng của những người ở lại. Đó là tình
Sau những lời mở đầu, người ở lại tiếp tục gợi lại những kỷ niệm cảm của nhân dân với cán bộ thiết tha, trìu mến.
gắn bó đầy ân tình của “mười lăm năm ấy”. Cũng vẫn dưới dạng
câu hỏi nhưng đã gợi cụ thể hơn về thời gian, không gian của những Câu hỏi tu từ tiếp theo ý muốn gợi nhớ tới con người Việt Bắc. Với
kỷ niệm: hình ảnh “hắt hiu lau xám” nhà thơ muốn nói tới hình ảnh của
“ Mình đi có nhớ những ngày những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc. Khung cảnh gợi ra sự hoang
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? vắng, hiu hắt, cô liêu thế nhưng tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập
... để chứng tỏ rằng bên ngoài là hình ảnh đìu hiu nhưng bên trong
Mình đi, mình có nhớ mình khung cảnh ấy những ngôi nhà ấy là những tấm lòng son sắt đậm đà
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? ” của những người ở lại. Đó là nghĩa tình thiết tha trìu mến của những
con người nhỏ bé đã góp một phần của mình vào chiến thắng Điện
Là lời hỏi nên không miêu tả cụ thể mà chỉ dùng bút pháp gợi tả. Biên năm ấy - Chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Nhưng sau những câu thơ, những hình ảnh cô đúc là bao nhiêu kỷ
niệm, bao nhiêu nghĩa tình chất chứa dồn nén. Câu thơ lục bát ở đây Câu hỏi tu từ gợi nhắc về núi rừng Việt Bắc với hình ảnh của khu
đạt đến độ tinh luyện, đúc chữ, đúc hình ảnh, nhất là trong những căn cứ địa kháng chiến với 2 sự kiện lịch sử: “Nhớ khi kháng Nhật
câu sử dụng rất hiệu quả phép đối “Miếng cơm chấm muối, mối thù thuở còn Việt Minh” . Đó là những năm tháng của phong trào kháng
nặng vai”; “ Trám bùi để rụng, măng mai để già”; “ Hắt hiu lau Nhật những năm 40, Phong trào Việt Minh tạo ra mặt trận vũ trang
xám đậm đà lòng son”. góp phần làm lên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và là tiền
Lời hỏi của Việt Bắc - người ở lại - đã khơi dậy, làm tuôn trào cả đề quan trọng cho những thắng lợi sau này. Chính nghĩa tình của
một bầu kỷ niệm tràn đầy tình nghĩa người ra đi, với bao nhiêu hình đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm
ảnh, sự việc chất chứa của một thời không thể quên. Nếu lời hỏi chỉ cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng
nhằm khơi gợi, thì lời đáp lại dào dạt, dồn dập như một dòng cảm nề, khó khăn làm cho Việt Bắc - quê hương của Cách Mạng, cội
xúc tuôn trào. Bởi vậy lời hỏi chỉ có 12 câu thơ, mà lời đáp phải nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng - càng thêm ngời sáng trong tâm
dùng tới 70 câu (từ 21 đến 90). trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung. Trong 1
câu thơ có 2 chữ mình: Chữ “mình” đầu ý nói những người cán bộ
Câu hỏi tu từ, người Việt Bắc hỏi mình đi rồi có nhớ những ngày Cách mạng; chữ “mình” thứ 2 chỉ đồng bào Việt Bắc.
mà ta với mình cũng trải qua tháng ngày sống chung với lũ, những Thế nhưng cũng có thể hiểu cả 2 chữ mình này đã hòa làm 1 giống
ngày mưa lớn mây mù hay không ở đây ý muốn nói tới hoàn cảnh như tâm hồn của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc đã hòa vào
thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Câu hỏi khơi gợi trong lòng người ra nhau. Kẻ đi, người ở đều có 1 tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối như
đi về những ngày gian khó. Trong gian khó mới thấy được chân nhau. Những địa danh hình ảnh gắn với sự kiện quan trọng của
tình. Chân tình của đồng bào, của nhân dân là sẵn sàng cùng với Cách mạng được Tố Hữu gợi nhắc : Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự
những người cán bộ cách mạng trải qua mọi khó khăn, vất vả. Đó kiện lịch sử ngày 22.12.1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất
còn là những tháng ngày “giặc đến, giặc lùng”, để có thể bảo vệ tổ quân cho đội VN tuyên truyền Giải phóng quân (Sau này là ngày
chức Cách mạng trong những tháng ngày đầu của cuộc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam) và mái đình Hồng Thái. Những địa
đồng bào Việt Bắc cùng cán bộ Cách mạng phải lui vào rừng sâu danh gợi nhắc những cuộc họp chiến lược quan trọng. từng bước đi
cùng nhau trải qua những tháng ngày: “ăn tuyết nằm sương”, “nếm tới chiến thắng Cách mạng. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào
mật nằm gai”. Nơi đây “mưa nguồn suối lũ” khắc nghiệt (Mưa dữ trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời
dội, suối nước chảy xiết) vô cùng nguy hiểm. Là những tháng còn là lời nhắc nhở không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng
ngày với sự thiếu thốn về vật chất: “miếng cơm chấm muối”, VB chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách
những bữa ăn giản đơn, thiếu thốn nhưng vượt lên trên tất cả họ lại Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung,
giữ cho mình sự kiên định, vững vàng vì họ hiểu rằng trên đôi vai gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?
của mình đang mang một mối thù lớn, mối thù của quốc gia, dân
tộc. Đó là quyết tâm của những người cán bộ cách mạng, nhưng Như vậy, chỉ với mười hai câu thơ trong khổ 3 của bài VB, Tố Hữu
cũng là quyết tâm của đồng bào Việt Bắc. Họ sẵn sàng quên đi cái đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỷ niệm, vào một thế giới
riêng để hòa nhập vào cái chung, quên đi cái cá nhân để hòa nhập êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Bao trùm
vào cộng đồng rộng lớn. Câu hỏi tu từ gợi tình cảm của thiên nhiên trong tâm trạng của cả kẻ ở người đi là nỗi nhớ da diết, mênh mang
với con người: “Rừng núi nhớ ai” . Câu hỏi với biện pháp tu từ với nhiều sắc thái khác nhau. Niềm hoài niệm thiết tha đã làm sống
nhân hóa để nói lên nỗi niềm bâng khuâng da diết. “Rừng núi” ở dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình với thiên nhiên, con người
đây cũng chính là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc. Từ “ai” Việt Bắc, với cuộc sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng. Đoạn
trong “nhớ ai” ý chỉ những người cán bộ cách mạng, là đại thơ đã cho ta khẳng định Việt Bắc là cái nôi của Cách mạng, là
từ phiếm chỉ nhưng lại mang ý nghĩa chỉ cụ thể. trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Nơi đây không chỉ in dấu
những kỷ niệm đầy nghĩa tình nồng ấm, còn là nơi bắt đầu cho dân
Câu thơ tiếp theo có 2 hình ảnh: “trám và măng” là lương thực chủ tộc Việt Nam làm nên “thiên sử vàng” chói lọi. Để làm được điều
yếu của bộ đội ta trong những ngày chiến đấu đầy gian khó. Nay này, nhân dân Việt Bắc đóng một vai trò vô cùng lớn lao.
người đi rồi, trám và măng không còn người thu hái, để lại ở đây là
một khoảng hụt hẫng với nỗi nhớ mênh mang. Thiên nhiên mang
một nỗi buồn trống vắng vì người đi mất, thiên nhiên nhưng cũng
3. 22 câu thơ tiếp - Khẳng định lòng thuỷ chung tình nghĩa + Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng
và tái hiện lại vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc: chiều lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỷ
Ta với mình, mình với ta niệm: “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày.
.... Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng
Chày đêm nện cối đều đều suối xa... nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối
Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi
tình cảm thuỷ chung của mình: chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng
chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông
“Ta với mình, mình với ta
và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ
Mình đi mình lại nhớ mình
ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấm áp, vui tươi.
- Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả
Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ
lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình
vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền
có nhớ mình”...). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến
quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với
về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt
Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận
Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của
sâu sắc, thấm thía đến như thế:
người cán bộ kháng chiến.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
- “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hòa, ta với mình là
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng
(Chế Lan Viên)
định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc
Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra
là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.
đi ta cảm thấy trái tim cứ trào lên biết bao nỗi vấn vương thương
- Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã
nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:
khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra
vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận
không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian
nặng, như nghĩa mẹ tình cha. khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:
+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh “Ta đi ta nhớ những ngày
giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là Thương nhau chia củ sắn lùi
tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
người về trong giây phút ly biệt. - Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những
con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ
Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng: kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình
ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở
- Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa
đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương
dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã
máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả
từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người.
chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống
Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những
những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong
ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh
đại gia đình dân tộc Việt Nam.
bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:
- Đặc biệt, Tố Hữu không thể nào quên hình ảnh những người mẹ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Nhớ từng bản khói cùng sương
+ Hình ảnh những bà mẹ tần tảo, chịu thương chịu khó cõng con,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
cõng cả nắng trời cháy trên lưng trên rẫy bẻ từng bắp ngô, nuôi giấu
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
cán bộ cứ trở đi trở lại trong thi phẩm của nhà thơ.
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả
+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi
đối với những bà mẹ Việt Bắc. Mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm
nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là
nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên thơ ca Việt Nam
phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường
nhiều lần thổn thức bởi cái “lưng” của người mẹ.
như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào
Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh
và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.
Cuộc sống của đồng bào và những cán bộ chiến sĩ ở Việt 4. 10 câu tiếp - Bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con
Bắc đầy khó khăn gian khổ nhưng tinh thần lại rất lạc người Việt Bắc:
quan, yêu đời, gắn bó bên nhau. “Ta về mình có nhớ ta
Ta bắt gặp những hình ảnh, âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt Ta về ta nhớ những hoa cùng người
của người cán bộ và nhân dân Việt Bắc: ...
“Nhớ sao lớp học i tờ Nhớ ai tiếng hát ân tình, thủy chung.”
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan a) 2 câu đầu:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan - Mở đầu bằng 1 câu hỏi tu từ đầy bâng khuâng, xao xuyến:
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo • Cách xưng hô mình ta thường gặp trong ca dao gợi bao cảm xúc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Ta - cán bộ cách mạng - Những người ra đi; Mình ở đây chỉ những
Chày đêm nện cối đều đều suối xa” người ở lại - Đồng bào Việt Bắc.
- Đó là những lớp học “i tờ” nhằm xóa nạn mù chữ, mang ánh sáng • Điệp từ “ta” - điệp lại 4 lần cùng với cách gieo vần “a” tạo ra
văn hoá cho đồng bào Việt Bắc. một thanh âm mở khiến cho cảm xúc của người đọc trở nên
- Đó là những “đồng khuya đuốc sáng” để liên hoan mừng tin mênh mang, sâu lắng hơn.
thắng trận. - Nỗi nhớ được đề cập tới trong đoạn thơ:
- Người cán bộ các cơ quan ở chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến • Hoa: Biểu trưng cho thiên nhiên.
chống Pháp tuy sinh hoạt thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn “ca vang • Người: Hình ảnh con người Việt Bắc.
núi đèo”. Đó là tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào chiến • “Cùng” thể hiện sự hòa hợp - Mối quan hệ gắn bó, vẻ đẹp hòa
thắng ở tương lai. quyện giữa thiên nhiên và con người nơi đây.
- Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu khua vang => Lời khẳng định của những người ra đi - Cán bộ cách mạng về
trên đường về bản làng trong các buổi chiều, tiếng cối giã gạo bằng tình cảm của mình với đất và người Việt Bắc.
sức nước cứ vang lên đều đặn trong rừng mỗi khuya tạo thành một => 2 câu thơ thâu tóm cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ: đó là
bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Đó là những âm đoạn thơ viết về nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc.
thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, là loại nhạc cụ rừng mà người cán bộ b) 8 câu tiếp - Bức tranh tứ bình:
kháng chiến không thể nào quên. Tất cả làm nên một bài ca trong Mùa đông:
trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể - Thiên nhiên:
dập tắt được. • 10.1954 là thời điểm Tố Hữu viết bài VB, đây là thời điểm
mùa Đông ở MB chính bởi vậy đây là mùa đông của hiện tại – Có
một số ý kiến khác cho rằng Tố Hữu mở đầu bộ tranh tứ bình của
mình bẳng mùa Đông là bởi lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến
dịch Việt Bắc thu đông.
• Bức tranh mùa đông với màu xanh: xanh lá, xanh rừng, xanh trời
=> Màu của sức sống, của hy vọng.
• Điểm xuyết màu đỏ của những bông hoa chuối rừng như những
ngọn lửa thắp sáng cả không gian núi rừng Việt Bắc xua đi không
gian lạnh giá vốn có nơi rẻo cao.
=> Bức tranh sinh động, ấm áp, tươi mới, tràn đầy sức sống. Bức
tranh có hồn, ấm áp chứ không lạnh lẽo, cô liêu như những nhà
thơ khác từ trước cũng đã từng viết về mùa đông.
(Có thể liên hệ với đoạn thơ của nhà thơ Việt Phương:
“Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
Ai có về tôi gửi áo len cho.”)
- Con người:
• Để cho hình ảnh con người xuất hiện trong 1 nét thần tình rực
sáng nhất: đó là hình ảnh mặt trời chớp lóe trên lưỡi của con dao đi
rừng gài nơi thắt lưng.
=> Ngôn ngữ thơ nhưng cũng chính là ngôn ngữ của 1 nhà nhiếp
ảnh. Con người bây giờ như 1 điểm hội tụ của ánh sáng, xuất hiện ở
1 vị trí đẹp nhất: đèo cao, trong tư thế đẹp nhất: hình ảnh người lao
động VB chịu thương chịu khó, đi giữa cánh rừng hùng vĩ trong tứ
thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời => Đầy kiêu hãnh và vững
chãi. (Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng
ta – Nguyễn Đình Thi).
• Hình ảnh con người trở thành linh hồn cho bức tranh mùa
đông ở Việt Bắc.
Mùa xuân: Thế nhưng trong thơ của Tố Hữu, hình ảnh cô gái dân tộc
- Thiên nhiên: hiện lên rất thơ mộng, gần gũi, thân thương, tràn đầy sức
• Hình ảnh hoa mơ: Trắng dịu dàng, tinh khiết, trong trẻo. sống).
=> Tín hiệu mùa xuân đặc trưng về trên Việt Bắc. • Hai chữ “một mình” nhưng không hề gợi lên sự cô đơn, hiu
• Từ “nở" đặt ở giữa câu thơ => Bừng lên sức sống của mùa hắt.
xuân. • Đang làm bạn với thiên nhiên trong tư thế làm chủ thiên
• Trắng: trắng cả thời gian ngày xuân, trắng cả không gian nhiên, làm chủ đất trời.
rừng núi. Màu trắng trong trẻo, tinh khiết dường như đã lấn át => Giọng thơ da diết, bâng khuâng.
cả màu xanh của lá làm bừng sáng cả khu rừng => Người đọc
có cảm giác bâng khuâng như đang dạo chơi trong 1 không  Mùa thu:
gian dịu mát, nhẹ nhàng của những đồi hoa mơ. - Thiên nhiên:
(Liên hệ với 1 bài thơ khác của Tố Hữu: • Hình ảnh rừng Việt Bắc vào mùa thu, dưới ánh trăng hiền
“Ôi sáng xuân nay xuân 41 hòa.
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ => Khoảng thời gian đẹp nhất gợi ra sự thanh bình, yên ả.
Bác về im lặng con chim hót • Chữ “rọi” được dùng rất hay, như muốn nói tới ánh trăng
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”) đang tràn ngập bao trùm cả không gian núi rừng Việt Bắc
- Con người: => Ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên
• Trong công việc đan nón - một nghề truyền thống của người từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.
Việt Bắc => Hình ảnh đẹp tự nhiên trong công việc hàng • Chính là ánh trăng báo hiệu về sự hòa bình, sự thắng lợi của
ngày. Cách mạng.
• “Chuốt từng sợi giang” => Nói lên những phẩm chất tốt - Con người:
đẹp của con người lao động Việt Bắc: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo • Xuất hiện với hình ảnh tiếng hát - tiếng hát của đồng bào
léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút. Việt Bắc - Lời hát của những người ở lại nhắc nhớ về “ân tình
thủy chung”.
 Mùa hạ:
• Là tiếng hát của đồng bào miền ngược gửi người về xuôi
- Thiên nhiên:
với biết bao niềm thương nỗi nhớ. Tiếng hát thể hiện sự gắn
• Những hình ảnh đặc trưng nhất của muag hè Việt Bắc: tiếng
bó, thiết tha, mặn nồng.
ve và hoa phách.
(Có thể liên hệ với đoạn:
• Rừng phách: Mùa xuân còn xanh non mơn mởn những tán “Mình về thành thị xa xôi
lá, vậy mà khi chuyển hạ đã ngay lập tức đổ vàng, đồng loạt Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng
trổ Phố đông, còn nhớ bản làng
bông. Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.”)
• “Đổ” là từ ngữ được sử dụng rất tinh tế: Vừa tạo ra cảm Hoặc liên hệ thêm với đoạn thơ trong bài thơ “Ánh trăng” của
giác đột ngột, biến chuyển bất ngờ, vừa diễn tả rất hay từng nhà thơ Nguyễn Duy để làm sâu sắc vấn đề: Tình cảm - ân
đợt mưa hoa của rừng phách khi có những cơn gió thoảng qua nghĩa thủy chung giữ người đi và kẻ ở:
=> Người đọc liên tưởng tới hình ảnh người mẹ thiên nhiên “Từ ngày về thành phố
gõ nhẹ ngôi sao thần của mình, biến chuyển tài tình về sắc Quen ánh điện cửa gương
màu thiên nhiên Việt Bắc. Vầng trăng đi qua ngõ
=> Bức tranh thiên nhiên có màu sắc, có âm thanh rực rỡ, sôi Như người dưng qua đường...”)
nổi.
- Con người: Khái quát: Nghệ thuật
• Hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái từng búp măng • Thể thơ lục bát mang âm điệu nhẹ nhàng.
rừng • Sử dụng hình ảnh mang tính đặc trưng cao.
=> Trở thành bữa cơm cung cấp cho bộ đội. • Màu sắc kết hợp sinh động, hài hòa.
(Có thể liên hệ với những vần thơ trong bài thơ của nhà thơ
Nguyễn Bính để thấy được trong những vần thơ cũ, hình ảnh
cô gái dân tộc, chân quê thường xuất hiện buổi ban chiều với
những thân phận đau buồn hay sự cô đơn, hiu hắt:
“Cô hái mơ ơi! Cô hái mơ
Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi.”)
Phân tích cụ thể: những đốm nắng. “Hoa chuối đỏ tươi” như đốm lửa ấm áp,
Thiên nhiên Việt Bắc khi thì đậm đà thi vị trong những hình lan tỏa hơi ấm tới những nẻo đường rừng, khe suối, mùa đông
ảnh thơ mộng “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, Việt Bắc từ ấy mà chẳng còn lạnh lẽo, u buồn. Sự ấm áp ấy
bản khói cùng sương...”; khi lại hùng tráng, lớn lao, vững có lẽ chỉ ở Việt Bắc, một Việt Bắc trong lòng Tố Hữu mới có
chãi cùng với con người trong cuộc chiến đấu “Núi giăng được, khác với cái giá lạnh, cô đơn mà trước nay đã trở thành
thành lũy sắt dày - Rừng che bộ đội rừng vây quân thù - đặc trưng của mùa đông:
Mênh mông bốn mặt sương mù...”. Nhưng nhớ thiên nhiên “Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa
cũng là nhớ con người bởi con người Việt Bắc không tách rời Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
mà luôn hòa nhập, gắn bó với thiên nhiên Việt Bắc. Đoạn thơ Cây Trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
dưới đây được coi là bộ tứ bình đẹp mà hết sức tự nhiên, Ai có về tôi gửi áo len cho”
dung dị về thiên nhiên Việt Bắc trong sự hài hòa với hình ảnh (Việt Phương)
con người: Mùa đông của tự nhiên thì rét và lạnh lắm. Nhưng mùa đông
“Ta về mình có nhớ ta trong lòng người cán bộ và nhân dân thì ấm áp nghĩa tình.
Ta về ta nhớ những hoa cùng người Nếu như câu lục khắc họa một khung cảnh núi rừng bao la thì
… câu bát ngay sau đã đem đến hình ảnh trung tâm, nổi bật trên
Nhớ ai tiếng hát ân tình, thủy chung.” nền thiên nhiên ấy: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Giữa khoảng không gian mênh mông vô tận, hình ảnh con
Mở đầu đoạn thơ, tác giả sử dụng lại cách xưng hô đầy gần người lao động hiện lên đầy kiêu hãnh. Nhà thơ không miêu
gũi, thân thương: tả chi tiết mà chỉ nhanh mắt chớp lấy một hình ảnh thần tình
“Ta về, mình có nhớ ta nhất. Đó là khoảnh khắc khi ánh sáng của mặt trời chiếu
Ta về ta nhớ những hoa cùng người” xuống lưỡi dao gài ngang lưng. Con người bây giờ, như một
Cặp đại từ nhân xưng “mình” - “ta” là cách đối đáp quen điểm hội tụ của ánh sáng giữa núi rừng đại ngàn mênh mông,
thuộc của tình yêu đôi lứa, vợ chồng. Bằng cách gọi này, tác giữa lá xanh và hoa đỏ.
giả đã biến cuộc chia tay chính trị giữa cán bộ và người dân Trong nỗi nhớ về khung cảnh Việt Bắc mùa đông, nỗi nhớ ấy
Việt Bắc như cuộc chia tay của đôi lứa yêu nhau đầy bịn rịn, không lạnh lẽo mà ấm áp vô cùng. Nơi núi cao, nơi đại ngàn,
lưu luyến. Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại hai lần diễn tả nỗi nhớ mùa đông không hoang vu, không tàn tạ thê lương mà thật
dâng trào mãnh liệt không kìm nén được, một lần nữa lại ấm áp.
nhấn mạnh cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ thương da Đông qua xuân tới, đất trời cũng có sự đổi thay:
diết. Điệp ngữ “ta về” lặp lại hai lần và đứng đầu mỗi dòng “Ngày xuân mơ nở trắng rừng
thơ giúp tô đậm tâm trạng người ra đi, thể hiện sự tiếc nuối, Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
không nỡ rời xa. Rằng thời khắc chia tay đã điểm, người cán Hoa mơ - tín hiệu mùa xuân dễ thấy nhất ở núi đồi Việt Bắc.
bộ cách mạng lưu luyến chia xa với đồng bào hay chính là Khung cảnh choáng ngợp sắc trắng được vẽ ra chính là tín
phần đời đi trước đã sớm tối quen với đời sống kháng chiến hiệu đầu tiên báo mùa xuân về cùng với đồng bào. Mùa xuân
gian lao nay phải nói lời tạm biệt ân tình với phần đời sau mai tới mang theo bao điều tốt lành, mùa xuân là mùa của khởi
này về với thủ đô Hà Nội. Nhưng dù là lời chia tay cất lên từ sự, là mùa của sinh sôi, là mùa bắt đầu cho một năm mới sức
ai, ở khoảnh khắc nào thì nỗi nhớ vẫn luôn là cung bậc cảm khỏe và may mắn. Người ra đi quả thực đã lựa chọn hình ảnh
xúc tha thiết nhất. Ở đây là “nhớ hoa cùng người”. “Hoa” là rất tiêu biểu khi nhớ về mùa xuân Việt Bắc. Phép đảo ngữ
biểu tượng cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, còn “người” “trắng rừng” là một tín hiệu nghệ thuật độc đáo giúp cho nhà
được coi là “hoa của đất” theo như cách nói của dân gian: thơ thể hiện tinh tế vềkhoảng không gian ngập tràn sắc trắng
“Người ta là hoa đất”, kết hợp với từ “cùng” như càng tinh khôi. Ta ngỡ như trước mắt bây giờ là cả một khu vườn
khẳng định rõ hơn sự gắn kết, hòa quyện giữa thiên nhiên và mơ đang nở rộ, làm bừng giác quan của con người. Thơ Tố
con người nơi rẻo cao Tây Bắc này. Hữu lúc nào cũng khỏe khoắn, mãnh liệt, sục sôi như thế, là
Và cứ thế, ngòi bút người nghệ sĩ viết thơ mà như cầm cọ vẽ “trắng rừng”, là “ngày xuân mơ nở trắng rừng”, là “trắng
nên bức tranh tứ bình mộc mạc, sinh động. Tố Hữu chọn mùa rừng biên giới nở hoa mơ” (“Theo chân Bác”), chứ không
đông là mùa khởi đầu cho tứ thơ: nhẹ nhàng, chỉ là “trắng điểm”, điểm xuyết như trong thơ
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi xưa:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” “Cỏ non xanh tận chân trời
Khắc họa lại mùa đông Việt Bắc, có lẽ chính Tố Hữu đã quay Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
lại thời điểm lần đầu gặp gỡ đầy bỡ ngỡ, theo mạch cảm xúc, (Nguyễn Du)
nhà thơ nhớ lại kỉ niệm của một thời gian khó. Câu thơ đầu Trong cái nền của một không gian với sắc trắng tinh khôi và
tiên sử dụng bút pháp chấm phá, nổi bật trên nền xanh rộng tràn trề nhựa sống, ta bắt gặp hình ảnh con người: “Nhớ
lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối và màu vàng của người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh con người
Việt Bắc mùa xuân gắn liền với công việc lao động hăng say Hình ảnh vầng trăng là một hình ảnh quen thuộc và trở thành
và ý nghĩa, làm nên những chiếc nón gửi tặng người chiến sĩ nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà thơ, đặc biệt trong thời
khi mưa nắng mỗi ngày. Chi tiết “chuốt từng sợi giang” bên kì cách mạng:
cạnh việc miêu tả sự chau chuốt, tỉ mỉ của người lao động còn “Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
là chi tiết tiêu biểu cho bàn tay khéo léo, cho tâm hồn tài hoa Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
của đồng bào Việt Bắc đã làm nên vẻ đẹp bao đời. Mùa xuân Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
sức sống đang tràn trề và tiếp nối ngay sau là mùa hạ rực rỡ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
sáng tươi: (“Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh)
“Ve kêu rừng phách đổ vàng Còn ở đoạn thơ này, hình ảnh ánh trăng được miêu tả giữa
Nhớ cô em gái hái măng một mình” không gian rừng núi, ánh trăng như ẩn như hiện dưới những
vòm cây vừa gợi lên vẻ đẹp trong trẻo, vừa lung linh, lại
Tố Hữu tài lắm, và cũng tình lắm. Nhà thơ bắt được những huyền ảo. Ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc,
cảnh đẹp nhất và cũng là đặc trưng nhất của mỗi mùa. Và đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui, hạnh phúc và tự do.
mùa hạ nơi rẻo cao Tây Bắc làm sao thiếu được tiếng ve Trong không gian ấy, tiếng “ai” ngân nga khúc hát “ân tình
ngân. Không chỉ thuần nhất gợi tả màu sắc nữa mà đến đây, thủy chung”. Từ “ai” được dùng để phiếm chỉ, “ai” đó có
không khí mùa hạ đã rộn ràng hơn bởi âm thanh tiếng ve là thể là người thiếu nữ đứng hát dưới trăng, đó cũng có thể là
một tín hiệu quen thuộc báo hiệu hè về. Nó tạo nên một khúc cả đất trời, nhân dân Việt Bắc. Con người say sưa cất tiếng
nhạc rừng rộn rã tưng bừng, náo nhiệt, làm cho không gian hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng “thủy chung”, nặng
rừng núi náo nức một sức sống mới. Cách miêu tả của Tố “ân tình”. Tiếng hát ấy vừa gợi nhắc những kỷ niệm của
Hữu như mở ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên người ra đi và người ở lại vừa như lời nhắn nhủ, mong muốn
sinh động, ta có cảm giác như tiếng ve ngân đến đâu thì rừng người ra đi không quên những kỉ niệm của năm tháng gian
phách “đổ vàng” đến đó. Là bàn tay tạo hóa diệu kì hay ngôn lao, nhưng đồng thời cũng là lời ước nguyện, khẳng định của
từ tài hoa đã nhuốm màu cho cảnh vật? Toàn bộ khung cảnh người ra đi về đạo lý sống ân tình, thủy chung. Chính vì vậy
thiên nhiên như đột ngột chuyển sangsắc vàng qua động từ ở vị trí kết thúc của bức tranh tứ bình, tiếng hát ấy như ngân
“đổ”. Ấy là sắc vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, nga, vang vọng mãi trong không gian, trong lòng người.
đầy sức sống. Ấy cũng có thể là chính tiếng ve đã đánh thức
rừng phách nở hoa. Động từ “đổ” trong câu thơ được diễn tả Khái quát :
rất tinh tế và chính xác. Nó diễn tả sự nhanh chóng, đột ngột Bức tranh tứ bình về Việt Bắc được Tố Hữu khắc họa đầy ấn
của cảnh sắc thiên nhiên khi hè về. Nói như nhà nghiên cứu tượng với những màu sắc tươi sáng, ấm áp, âm thanh rộn rã.
Nguyễn Thị Hà: “Chữ “đổ” vừa gợi sự chuyển biến mau lẹ Mùa nào cũng đẹp, cũng đằm thắm, tinh tế. Vẻ đẹp thiên
của màu sắc, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng nhiên Việt Bắc và con người đan cài, hòa quyện làm cho tình
phách khi có ngọn gió thoảng qua vừa thể hiện chính xác hè yêu Việt Bắc càng nồng nàn, nỗi nhớ Việt Bắc càng thêm da
sang. tác giả đã dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng diết. Thể thơ lục bát ngọt ngào, điệp từ “nhớ” nhấn mạnh
không gian để gọi dậy thời gian. Bởi vậy cảnh vừa thực cung bậc tình cảm chủ đạo, kết hợp cùng những từ ngữ giản
nhưng cũng vô cùng huyền ảo.” Với cách sử dụng từ ngữ dị, đượm nghĩa đượm tình, cấu trúc đan xen câu lục tả cảnh
chính xác giàu liên tưởng, bức tranh thiên nhiên mùa hạ được câu bát tả người đã đem đến một đoạn thơ đặc sắc, đẹp cả về
đánh giá đặc sắc nhất trong bộ tranh tứ bình. Độc đáo và đặc ý nghĩa nội dung và nghệ thuật biểu hiện.
sắc là vậy nhưng bức tranh hè về cũng không nằm ngoài thứ
tự miêu tả từ thiên nhiên đến con người: “Nhớ cô em gái hái
măng một mình”. Gọi là “cô em gái” - một cách gọi thể hiện
sự trân trọng, yêu thương trìu mến của tác giả với đồng bào
Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự
chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Hoạt động “hái măng một
mình” cũng giúp cân bằng lại sự rực rỡ, rộn ràng của mùa hạ,
kéo không khí trở lại với mạch cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
- nỗi nhớ.
Nếu ba bức tranh trước được tác giả khắc họa vào ban ngày
thì bức tranh mùa thu lại được miêu tả vào ban đêm:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
5 . 10 câu tiếp - Tái hiện lại kỷ niệm những ngày kháng chiến Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến
gắn với thiên nhiên Việt Bắc: khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát
triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng - “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng,
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một
Núi giăng thành lũy sắt dày lòng”: Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng vềs ứ mệnh
Mênh mông bốn mặt sương mù bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
=> Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những
Ai về ai có nhớ không? chiến công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
đều gắn với một thắng lợi vinh quang.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
“Ai về ai có nhớ không ?
- Trong những ngày đầu kháng chiến gian khổ của giai đoạn cầm
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
cự, phòng ngự, bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Bắc hiểm trở để đánh địch.
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
- Trước giờ khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà
- Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm
cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với cuộc
vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu
kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng
trả lời: “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả lời, đồng thời cũng là câu
cũng trở nên có chí, có tình người, đã trở thành những người
nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ.
bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn
- Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những
quân.
sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra
- Chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải
các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô phố
kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo lên thế hiểm của trường
Ràng: Trận sông Lô đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt
thành của lũy thép vây bọc quân thù.
Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng : Cao Bằng và Lạng
Nhớ về lúc kháng chiến, khi giặc đánh giặc lùng, cũng là khi
Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới ViệtTrung.
quân ta đang khó khăn xoay sở tình thế, ta biết địch mạnh hơn ta
=> Đó là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang
rất nhiều, nhưng trên trận địa quen thuộc nói là thua địch cũng
tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những bước đầu
không phải là dễ.
quan trọng ấy đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và
- Rừng cây núi đá “ta cùng” đánh Tây, bằng phép nhân hóa,
lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối
rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đá để rồi trên dưới một lòng
cùng.
cùng con người đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời thể hiện
- Điệp từ “nhớ” nhớ đến những trận đánh, những chiến công
tình cảm giữa con người kháng chiến và thiên nhiên núi rừng
oanh tạc như thế là niềm tự hào của cá nhân những người tham
Việt Bắc rất tha thiết, bao la.
gia kháng chiến. Chiến thắng nào mà chẳng phải trả giá. Có lẽ
- Ở cặp lục bát thứ hai ta sẽ thấy rõ hơn công việc của thiên
họ không những nhớ đến những chiến công oanh liệt như thế mà
nhiên núi rừng Việt Bắc. Núi thì giăng thành lũy, rừng thì đảm
còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên đồng đội của mình, họ đã
nhận hai công việc. Như một người mẹ che chở cho con mình,
phải chia tay ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương
rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước.
của cả dân tộc.
- Rừng trở nên kiên quyết đến dữ dằn cùng với việc vây quân
=> Qua đó nhà thơ như cũng muốn thắp lên nén tâm hương để
thù để tiêu diệt, cái trùng trùng điệp điệp của rừng, cái khí thế
tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì nghĩa lớn vì sự nghiệp
hiên ngang kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ
của dân tộc, của đất nước.
thù khiếp sợ và bất lực. Quả thật Việt Bắc đã trở thành “Địa linh
nhân kiệt” kể từ đó. Qua đó càng làm sáng tỏ thêm nhận định:
Việt Bắc là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
- Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng
tráng vừa thơ mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên
nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến.

“Mênh mông bốn mặt sương mù


Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
- Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiên
cho khung cảnh chiến đấu trở nên uy linh và không kém phần
lãng mạn. Những dù giữa một biển sương mù khó khăn, con
người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của lòng mình.
6 . 12 câu tiếp - Việt Bắc – Những con đường ra trận: chất và sức lực để làm nên chiến thắng lịch sử cho dân tộc.

“Những đường Việt Bắc của ta Phân tích cụ thể:


... Biết bao gian khó đã trải qua, sức lực và lòng quyết tâm đã bao
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng” đêm dài nung nấu, cuộc chiến quyết định cũng đã đến. Tố Hữu
đã viết nên một khúc ca hùng tráng về con người kháng chiến và
- Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ra trận được thể hiện cuộc kháng chiến qua bức tranh Việt Bắc ra quân. Ở đoạn thơ
trong 4 câu thơ: này, nhà thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu
“Những đường Việt Bắc của ta và chiến thắng với không gian núi rừng rộng lớn, với những hoạt
Đêm đêm rầm rập như là đất rung động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi,
Quân đi điệp điệp trùng trùng dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” u, hiu hắt của núi rừng; đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ
 Biện pháp so sánh, điệp từ, cùng nhịp thơ nhanh, mạnh như của thiên nhiên, con người Việt Bắc cùng sức mạnh vô địch của
bước chân hành quân và chiến đấu của quân ta -> khắc họa khối đoàn kết toàn dân kháng chiến.
khung cảnh và khí thế của đoàn quân ra trận: mạnh mẽ, quyết
chiến, quyết thắng. “Những đường Việt Bắc của ta
 Đặc biệt hình ảnh “Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan” Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa Ở ngay câu thơ đầu, Tố Hữu đã khẳng định “của ta” tiếng nói
mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc. vang lên một cách đầy khảng khái, chắc nịch, hùng hồn. Vào
 Hình ảnh “Ánh sao đầu súng” có thể là hình ảnh ánh sao trời năm 1938, anh thanh niên trẻ lúc bấy giờ vừa mới bắt đầu gặp lí
treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành tưởng của bản thân mình thì Tố Hữu vẫn luôn xưng “tôi”, chữ
quân như “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của “tôi” ấy mang đậm sắc thái cá nhân của ông. Nhưng bây giờ,
Chính Hữu; “ánh sao đầu súng” ấy cũng có thể là ánh sáng của ngay tại vần thơ này, Tố Hữu đã sử dụng “của ta”. Chàng thanh
ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí niên trẻ ngày nào bây giờ đã hòa nhập cuộc đời của mình vào cái
tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi. ta chung của toàn dân tộc, đã hoà nhập sứ mệnh của bản thân
- Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống vào sử mệnh của dân tộc. “Việt Bắc” là những con đường trong
Pháp của dân tộc ta có cả một tập thể quần chúng nhân dân tham suốt cuộc chiến tranh được mở ra để phục vụ chiến đấu. Nhưng
gia kháng chiến. Họ là những “dân công đỏ đuốc từng đoàn” cũng có khi con đường ấy mang ý nghĩa tượng trưng, là ý nghĩa
tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. quá trình đi lên của cuộc kháng chiến cách mạng. Con đường ấy
- Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan mở lối chiến công, và cũng là con đường ấy dẫn tới sự độc lập,
không kém những người lính. Bằng một cách nói cường điệu tự do của tố quốc. Con đường máu lửa ấy đã trở thành con
“dấu chân nát đá”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước, đường chiến thắng của Việt Bắc. Vì thế nên ấn tượng chung về
yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù sức mạnh dân tộc đã được gắn liền với ấn tượng về con đường
của người nông dân lao động. Người nông dân lao động (lực chiến thắng này. Không những thế sức mạnh của quân và dân ta
lượng nòng cốt của cách mạng) là lực lượng góp phần rất lớn còn được đo bằng thước đo sông núi. Từ láy “đêm đêm”, “rầm
để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn rập” thể hiện sự lặp đi lặp lại những âm thanh lớn, đồng loạt,
sau này vang dội kết hợp sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “như là đất
- Niềm tin bất diệt vào chiến thắng được thể hiện qua những câu rung”. Với từ "rầm rập" đặc sắc, cuộc ra trận của quân ta bỗng
thơ: “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng như trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:
ngày mai lên”. Hình ảnh so sánh chân thực, khẳng định một “Xuân hãy xem! Cuộc diễn binh hùng vĩ
niềm tin tất thắng vào lí tưởng và cuộc chiến đấu chính nghĩa Ba mươi mốt triệu nhân dân
của ta. Tất cả hành quân
- Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã đem lại những Tất cả thành chiến sĩ”.
niềm vui chiến thắng. Những tin vui chiến thắng dồn dập, liên (“Chào xuân 67” - Tố Hữu)
tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân: Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung
“Tin vui chiến thắng trăm miền...Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm màu sắc thần thoại.
Hồng”. Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên Tiếp tục, hai câu thơ tiếp theo cũng là khúc hùng ca về đoàn
những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt quân ra trận với khí thế và sức mạnh ngút trời:
sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ,
trong lòng quân dân cả nước. “Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Khái quát: Hai từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” đi liền ở hai câu thơ rất có
Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, hình ảnh đồng sức gợi tả. Nó gợi lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc,
bào, nhân dân luôn đồng hành cùng bộ đội ta, đóng góp vật
vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đó những thời điểm mà họ phải hát lên những câu hò kéo pháo
là một sự lớn mạnh của quân đội trước kẻ thù trong thời điểm bởi Việt Bắc rất hiểm trở, mà công việc họ làm lại rất đỗi khó
lúc bấy giờ, quân và dân ta có thể đương đầu và đáp trả, đập khăn. Nhưng vì một đất nước hoà bình, độc lập, họ đã phải cố
tan mọi hành động của kẻ thù. gắng rất nhiều. Kết hợp tài tình biện pháp đảo ngữ, không
Hình ảnh ánh sao đầu súng là một hình ảnh tràn đầy hiện thực phải “Từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà là “dân công đỏ
nhưng cũng rất đỗi lãng mạn. Đó có thể là ánh sao trời đang đuốc từng đoàn”. Việc sử dụng biện pháp tu từ ấy càng làm
toả sáng, soi vào đầu súng thép của những người chiến sĩ tăng lên sức mạnh, khí thế của đoàn dân công. Sự trùng điệp
đang bận rộn trong đêm tối, ánh sáng sao ấy thật đẹp, thật hàng nối hàng, dài tít tắp những người dân công không thua
lung linh. Và ánh sao ấy cũng có thể là ngôi sao trên mũ của kém bất cứ đội quân nào. Tuy họ không nổi bật những chiến
con người cách mạng. Ngôi sao ấy là biểu tượng cho ngôi sao công của họ lại lớn lao không kể xiết. Bằng một cách nói
trên lá cờ đầy màu máu của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy cường điệu “bước chân nát đá”, nhà thơ đã làm nổi bật sức
càng khiến cho bất cứ ai nhìn thấy, cũng đều tin rằng, một mạnh yêu nước, yêu lý tưởng Cách mạng, ý chí quyết tâm
chiến thắng sẽ đến vào một ngày không xa. Mặt khác, hình đánh thắng quân thù của người nông dân lao động. Người
ảnh “ánh sao đầu súng” còn biểu tượng cho lý tưởng cách nông dân lao động là lực lượng góp phần rất lớn để đưa cuộc
mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Đồng hành cùng với kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này.
hình ảnh “đầu súng”, “ánh trăng” đó là “chiếc mũ”. Chiếc
mũ là cách nói hoán dụ về hình ảnh người lính nhưng cũng Bên cạnh đó, “khúc hùng ca” dù kể về sức mạnh của đội
đồng thời chỉ tầm vóc vươn lên, có thể chạm tới ánh sao trời. quân và nhân dân Việt Bắc, nhưng cũng nói về niềm tin bất
“Chiếc mũ” ấy cũng là ân tình, tình cảm của đồng bào Việt diệt vào chiến thắng của đất nước:
Bắc gửi ra chiến trường.
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Hình ảnh thơ thật hùng vĩ và sự hùng vĩ ấy đã được đo bằng
Những chiếc mũ mang bao nhiêu ân tình được gửi lại cho
thước đo ánh sáng của chiến thắng. “Nghìn đêm thăm thẳm
những người chiến sĩ. Và ngay tại hình ảnh này, họ đã nhận
sương dày” là cụ thể hoá những năm tháng đêm trường nô lệ
được món quà từ hậu phương thân yêu để rồi sử dụng nó
của dân tộc. Đất nước ta đã hơn một nghìn năm phải khổ sở,
trong công cuộc chiến đấu của mình. Hình ảnh này đồng thời
gồng mình, cố gắng chiến đấu. Nhưng đến câu thơ này, mọi u
cũng thể hiện sự đồng hành giữa những con người cùng
ám, bóng đen đó đã bị xua đi, nhường chỗ cho ánh sáng
chung lý tưởng mà chúng ta gọi bằng hai từ thân thương -
tương lai. Đó chính là sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại
đồng chí. Trong bức tranh tổng hợp sức mạnh của dân tộc ta
để làm nổi bật giá trị to lớn, ý nghĩa lớn lao của nghìn đêm
trong kháng chiến, “khúc hùng ca” đã lại vang lên, đó là sức
kháng chiến. “Bật sáng” là một động từ mạnh, trong đêm tối,
mạnh của dân công, sức mạnh của những con người đã cùng
ánh sáng được bật lên đột ngột. Khoảnh khắc ấy bao trùm lên
với bộ đội để làm nên chiến thắng huy hoàng của dân tộc:
vạn vật xung quanh, xua tan bóng tối. Đó là khoảnh khắc chói
lòa của dân tộc.
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rừng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ "thăm thẳm
Những “dân công” đó là những con người xung phong lên sương dày" để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin
phía trước, mở đường, xẻ núi, lăn xe... Đó là cả một bộ phận chói lọi này. Hình ảnh so sánh chân thực, khẳng định một
quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến, góp một phần niềm tin tất thắng vào lý tưởng và cuộc chiến đấu chính nghĩa
vào chiến thắng của dân tộc ta. Trong bài thơ “Hoan hô chiến của ta. Niềm vui nối tiếp niềm vui, những tin vui chiến thắng
sĩ Điện Biên”, Tố Hữu cũng đã từng viết: dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức
lòng quân và dân, "đèn pha bật sáng" để chiếu rọi hình ảnh
“Mấy tầng mây gió lớn mưa to nhân dân Việt Nam anh hùng trên vũ đài thế giới với những
Dốc Pha Đin chị gánh, anh thồ chiến thắng lẫy lừng:
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát "Tin vui chiến thắng trăm miền
Không sờn lòng, không tiếc nuối tuổi xanh” Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Nói về kháng chiến chống Mĩ với hình ảnh các cô gái thanh Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
niên xung phong, hay các anh lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn, thì nhắc về chiến thắng Điện Biên Phủ ta cũng
không thể quên được hình ảnh những người dân công. Có
Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt
sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng kia cứ
dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng
quân dân cả nước. Hàng loạt các địa danh gắn với chiến thắng
vang dội được liệt kê liên tiếp: Hòa Bình, Tây Bắc, Điện
Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng,...
Những chiến thắng nối tiếp những chiến thắng, chiến thắng
sau còn giòn giã hơn cả chiến thắng trước trải rộng khắp
mảnh đất hình tia chớp. Nghe trong câu thơ có cái hào sảng,
có niềm tự hào của những chiến thắng lừng lẫy. Chỉ bằng
mười hai câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa được một bức tranh cả
dân tộc ra trận thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống
dậy một thời kì hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc
đang chuẩn bị cho một chiến công “lừng lẫỵ năm châu chấn
động địa cầu” mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương
cách mạng anh hùng. Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng
chiến, hình ảnh đồng bào, nhân dân luôn đồng hành cùng bộ
đội ta, đóng góp vật chất và sức lực để làm nên chiến thắng
lịch sử cho dân tộc.
Những dòng thơ Tố Hữu chắp bút đã gợi cho ta những cảm
nhận sâu sắc về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến
công vang dội của quân và dân ta thời kì kháng chiến chống
Pháp. Trong quá trình ấy, quân và dân rất đỗi thân mật từ
trong chiến đấu đến những ngày tháng sinh hoạt. Với việc sử
dụng các biện pháp điệp âm, điệp thanh hiệu quả, Tố Hữu đã
vẽ lên vẻ đẹp của con người Việt Nam một thời kì đạn lửa.
Để làm nên chiến thắng vang dội năm châu, chấn động địa
cầu, quân và dân ta đã phải trải qua những năm tháng gian
lao, vất vả, nếm mật nằm gai. Trên tất cả, tình quân dân, ý chí
chiến đấu kiên cường, quyết tâm đánh bại kẻ thù xâm lược đã
đưa dân tộc ta đến ngày chiến thắng. Vẻ đẹp của những con
người Việt Nam ra trận đánh quân thù dẫu biết rằng chỉ toàn
mưa bom bão đạn, sự sống tính bằng từng phút từng giây, đó
là vẻ đẹp của những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra,
bước ra từ trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Chặng
đường nhiều khó khăn nhưng rất đỗi huy hoàng ấy đã được
Tố Hữu khắc họa bằng những vần thơ thiết tha, hào sảng và
đậm ân tình, mang đậm dấu ấn của một thời hoa lửa đã qua.
7 . 16 câu thơ cuối - Người ra đi nhớ Việt Bắc cũng chính
là nhớ nơi ghi dấu bao hoạt động của Trung ương Đảng và
Chính phủ:
– Đoạn thơ cuối là hoài niệm về cuộc họp của Chính phủ
trong hang núi:
“Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính Phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch Thu – Đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu.”
Ở đâu ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa.

Mình về mình lại nhớ ta


Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

- Không gian là hang núi chật hẹp mà vẫn lồng lộng gió lùa,
rực rỡ ánh sao vàng, chan hòa ánh nắng. Cảnh đẹp và sự trang
nghiêm thế hiện sự thay đổi từ đêm tối gian lao sang ngày
mai tươi sáng.
- Tính chất diễn ca lịch sử nhằm thể hiện những nhiệm vụ cụ
thể của cách mạng: từ điều quân, chiến dịch tới phòng hạn,
thu lương... Khép lại đoạn thơ là hình ảnh Việt Bắc quy tụ
niềm tin, hy vọng của mọi người dân Việt Nam trên khắp mọi
miền Tổ quốc. Dù người về xuôi đã bước chân ra đi nhưng
lòng vẫn gửi lại chiến khu Việt Bắc với bao nhớ nhung ân
nghĩa, ân tình.

IV-TỔNG KẾT:

NỘI DUNG NGHỆ THUẬT


- Khúc hùng ca cũng là khúc - Thể thơ lục bát, lối kết cấu
tình ca về cách mạng, về đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc
cuộc kháng chiến và con thái dân gian.
người kháng chiến. - Phong cách thơ trữ tình
- Lời nhắn nhủ: ghi nhớ và chính trị.
phát huy truyền thống bất
khuất, ân nghĩa, thủy chung
của Cách mạng, con người
Việt Nam.
Văn bản: VỢ NHẶT Chính vì thế mà giá trị lớn nhất và cao nhất trong các tác
-Kim Lân- phẩm của ông không phải giá trị hiện thực là bản cáo trạng
mà là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn
Tác phẩm “Vợ nhặt” được chắp bút bởi nhà văn Kim Lân làm tỏa sáng một chất thơ của hồn người. Ánh sáng của tình
chính là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái người toả ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha
hiện một xã hội nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng lên thiết và cảm động.
tình người và những tia hi vọng trong tư tưởng của người
nông dân.” Nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong
(Trần Đồng Minh) các tác phẩm Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám đến
các tác phẩm sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng
I.THÔNG TIN TÁC GIẢ: của ông là một ngòi bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn cố
gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng
- Cây bút chuyên viết truyện ngắn. con người, từng số phận riêng để từ đó góp một tiếng nói
Từ - Nhà văn của làng quê riêng vào trang sử chung về tâm tư, tình cảm con người Việt
khó - Đề tài: Nông thôn và người nông dân Việt Nam. Nam của văn học hiện đại.
a - Giọng văn: Gần gũi, đôn hậu nhưng sâu sắc, ý nhị.
Không chỉ là nhà văn sâu sắc và đa tài, mà nhà văn Kim Lân
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân ghi dấu ấn trong còn để lại trong lòng khán giả những vai diễn ấn tượng trong
lòng độc giả là một nhà văn đa tài. Bên cạnh vai trò là một cây làng điện ảnh. Một văn sĩ - nghệ sĩ được nhiều thế hệ, nhiều
bút chuyên viết truyện ngắn, ông còn tham gia diễn xuất và có tầng lớp nhớ tới. Kim Lân có vị trí và chiếm được nỗi nhớ
những vai diễn ấn tượng. Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của khán giả nhiều đến mức các diễn viên chuyên nghiệp, có
mình, ông chủ yếu viết về đề tài nông thôn, nông dân Việt Nam tiếng cũng khát khao. Cũng như viết văn, ông đóng phim rất
và phong tục tập quán tại những miền thôn quê vùng đồng bằng ít, nhưng vai nào cũng gây được cảm hứng nghệ thuật tốt cho
Bắc Bộ. Với giọng văn nhẹ nhàng, gần gũi, đôn hậu nhưng người xem. Sự “ít” mà “tinh” trong sáng tạo đa dạng của
vẫn sâu sắc, ý nhị, lối kể chuyện rất duyên dáng, đời thường, Kim Lân khiến ông thành của hiếm.
Kim Lân chủ trương viết về người nông dân nghèo vì “họ bao Ngoại hình và gương mặt khắc khổ cùng diễn xuất chân thực
giờ cũng thiệt thòi” nên nhà văn “muốn đòi cho những người đó của nhà văn Kim Lân đem đến nhiều xúc động cho khán giả
quyền làm người và quyền sống.” Sự nghiệp và những quan trước số phận nghiệt ngã của người nông dân dưới chế độ
niệm về văn chương của Kim Lân qua những tác phẩm của ông thực dân phong kiến. Từ Lý Cựu trong “Chị Dậu” dựa theo
đã để lại rất nhiều những ấn tượng đẹp trong lòng độc giả. Là tiểu thuyết “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố, ông đã đóng
nhà văn của làng quê Việt Nam, văn của Kim Lân đi sâu vào rất đạt vai chức dịch trong làng. Vai diễn của ông cùng vai
lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng diễn của nhà văn Nguyễn Tuân ở trường đoạn “việc làng
chan chứa nghĩa tình. Cả cuộc đời và chặng đường sáng tác ngày đất thuế” đã gây ấn tượng mạnh đối với người xem.
“nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên
Đến Pụ Pạng trong “Vợ chồng A Phủ” một nhân vật vừa hèn,
thủy của cuộc sống nông thôn”, Kim Lân đã góp tên mình như
vừa ma quái, vừa gây ấn tượng trong phim khiến các diễn
một trong số những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học
viên chuyên nghiệp được đào tạo ở trường ra cũng nể phục,
Việt Nam thế kỉ XX.
rồi tới lão Hạc trong “Làng Vũ Đại ngày ấy”, đều thành vai
diễn để đời. NSND Phạm Văn Khoa quả tinh đời khi mời
Câu chuyện về Kim Lân:
Kim Lân vào vai Lão Hạc. Không ai hợp hơn và thay thế
Bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm
được Kim Lân. Nhân vật ốm yếu vẻ gầy gò, khắc khổ, thương
1941-1944, Kim Lân được coi là nhà văn thành công về đề tài
xót vật nuôi, đó là con người Kim Lân. Cảnh Lão Hạc dỗ con
nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận, những
chó vàng để nó chịu bán đi, vỗ về nó ăn bữa cuối, khiến triệu
vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo
người rơi nước mắt.
của làng quê Bắc bộ. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ
đồng ruộng này đều cay xè khói bếp, thơm thơm mùi lúa mới,
Có lẽ, sự sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn cố gắng để đi tới
ngai ngái mùi rơm rạ, bảng lảng những cánh cò chao nhịp...
tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con người, từng
Trên mảnh đất xưa cũ ấy nhà văn Kim Lân cũng đã xây cho
số phận của một Kim Lân trong văn học đã góp phần làm nên
mình ngôi nhà rất riêng, rất vững giữa lòng người và thách
một vị thế riêng của một Kim Lân trong điện ảnh.
thức với thời gian.
Thanh Hoa (TTXVN)
Khác với tư tưởng của các cây viết cùng đề tài, làng quê trong
văn Kim Lân dẫu với các nhân vật nghèo, dân lao động thô sơ II. THÔNG TIN TÁC PHẨM:
vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”
Có lẽ ảnh hưởng từ nét hào hoa, mã thượng với những thú
chơi phong tục như chơi chim, chọi gà, đánh vật, đánh võ, (1962). Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của bài
chơi pháo... của làng chợ Giầu, Phù Lưu mà hình ảnh làng thơ như sau:
quê và người nông dân trong văn học Kim Lân không u tối, + Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân viết tiểu thuyết “Xóm
bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời, trong ngụ cư” nhưng dang dở và thất lạc bản thảo.
sáng, tài hoa. + Sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần
cốt truyện cũ để viết ra truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Để hiểu rõ hơn về tác giả Kim Lân và truyện ngắn “Vợ Nhà văn Kim Lân:
nhặt”, các em có thể tham khảo phỏng vấn dưới đây:
Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết
PHỎNG VẤN KIM LÂN VỀ “VỢ NHẶT” đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hoà bình lập lại, tôi và
Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có
Thưa nhà văn, dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhiều một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về
sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, những buổi sáng ở vùng quê người ta ra chợ nhặt xác người đi
hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà
chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện Vợ nhặt hoàn toàn không có
người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một
truyện Vợ Nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm
chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng
lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế? đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi
muốn hướng họ vào sự sống, sự yêu thương nhau, không phải là
Nhà văn Kim Lân: sự giành giựt nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ
đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tập
Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người Con chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo Văn. Bối cảnh của
chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật
chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa
người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình,
phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, dù là rất
thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại mong manh. Dân ngụ cư là dân đi ở đợ, không phải dân gốc nên
dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm tháng đó. Cái thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là mẩu hồi ức “trước kia mỗi
đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn chiều” có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua quá
sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm nhanh. Hiện tại là cảnh đói khát ủ rủ, cảnh những người ăn xin
một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán “xanh xám như bóng ma”, cảnh thây người chết “nằm còng queo
về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất bên đường”. Vậy mà một buổi chiều anh chàng Tràng trở về với
nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn một vẻ mặt có “vẻ gì phởn phơ khác thường”, một nụ cười tủm
áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào tỉm và “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, bên cạnh lại có người đàn
cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng bà rón rén e thẹn. Đó là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người
chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. ta chỉ nghĩ đến sự sống – chết.
Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu
như giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm?
một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự.
Nhà văn Kim Lân:
Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.
Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh.
Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến
có khác gì những cái đói khác mà các nhà văn thường mô tả? chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo ngày đó rườm rà, tốn kém
lắm. Vậy mà tự dưng anh chàng lại “nhặt” được vợ. Sự kiện
Nhà văn Kim Lân:
nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là
“Cái đói” là mỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng
mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể
của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vì Tràng là
bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ một người nông cạn, không biết tính toán như người khác,
mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ
trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn chậc lưỡi, theo đúng cách của người hay “ngửa mặt lên trời
luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ cười hềnh hệch”. Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ
vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại của dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc
luôn hành hạ họ. sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi, còn ý nghĩa
của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.

Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật


trong cuộc sống?
Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh Nhà văn Kim Lân:
của mình?
Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải
Nhà văn Kim Lân: “một mình” đối diện với người đàn bà. Khi đi từ chợ tỉnh về,
ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người
Thị đã ở bờ vực. Số phận Thị đã rõ ràng và Thị hiểu được điều khác đã làm cho Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của người đàn
ấy. Cho nên thị đi bên Tràng mà đầu cuối xuống, chiếc nón rách
bà. Nhưng khi còn hai người ở “con đường sâu thăm thẳm”
“nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Thị mặc cảm, gần như
vắng vẻ thì rõ ràng người đàn bà kia là toàn bộ cuộc sống bên
nỗi mặc cảm của người nhận lời bán mình trước sự chứng kiến
ngoài đối với Tràng. Tràng phải tìm hiểu nó. Tràng ý thức
của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ con mới đùa
đầy đủ sự có mặt của thị là dành cho Tràng. “Hắn định nói
một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu.
với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn
Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia”. Tại sao
lại khiến cho những “khuôn mặt hốc hác u tối” từ những hiên vậy? Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn
nhà xác xơ đột nhiên “rạng rỡ hẳn lên”? Sự xuất hiện của toàn xa lạ với Tràng.
Tràng và người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt
Tại sao thị không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế?
vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát?
Nhà văn Kim Lân:
Nhà văn Kim Lân:
Tôi có chủ ý không tả tâm trạng của người đàn bà khi đó. Nếu
Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh
đơn độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong
tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự “xa lạ” không phù hợp với hoàn
đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng và xa lạ của thị khiến cho
thế phụ thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng. Mọi người không gian như đọng lại và cho Tràng cảm thấy thị ở thật gần
bàn tán và cũng đôi phần đoán ra được câu chuyện của Tràng. mình. Điều này khiến Tràng đột nhiên “hình như quên hết
Họ đoán được bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vợ lấy những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày”. Tràng khi đó có
chồng luôn là một niềm vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một lẽ đã quên tất cả, không phải với vẻ bất cần mà là do hình ảnh
cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. Ở
người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ mơ đến tương lai của người “đàn ông nghèo khổ” này cuộc sống đột nhiên “ mới
chính họ. Tràng đã khiến cho họ tin vào cuộc sống thêm một mẻ” và lạ lùng. Đó là cảm giác có thật, nó “mơn man khắp da
chút.Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giây lát đó, họ thịt”. Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng “Trong
sẽ nghĩ rằng “Đó, anh ta không những còn sống mà còn nuôi lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn
thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này”. Nhưng niềm bà đi bên”.
vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng “ôi chao” và lời than thở đưa
họ về thực tại cuộc sống đói khát, cùng quẫn, “họ nín lặng”. Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thị Tràng đều chưa
biết. Người đọc có cảm giác là “tình nghĩa” của Tràng đối
Chuyện Tràng “nhặt” vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như với người đàn bà là không thật?
thể thừa nhận điều đó một cách dễ dàng?
Nhà văn Kim Lân:
Nhà văn Kim Lân:
Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình
Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do nghĩa người ta cần phải có thời gian để thấu hiểu nhau. Đặt
hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống, mọi người không còn đủ trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến
sức để nhận ra điều đó là ngược đời. Và nó còn được dùng sự giúp đỡ nhiều hơn của người khác về cả vật chất lẫn tinh
như một cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của thần, thì Tràng là cái phai cuối cùng, là tất cả hy vọng của
họ. Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn người đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con
được bàn tán nữa khi họ “ cùng nín lặng” hiểu ra số phận người với con người trong một hoàn cảnh cấp bách. Hơn nữa
khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên đầu họ. đó còn là “nghĩa” cuả một người đàn ông nghèo không đủ
khả năng lấy vợ bỗng dưng được một người đàn bà “ưng
Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy
thuận về không” làm vợ. Và khi cảm thấy có “tình nghĩa” với
làm “thích ý” lắm, và hắn vênh vênh “ tự đắc với mình”. Có
người đàn bà thì sự đối diện của Tràng với chị ta không còn
lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha
đáng sợ nữa.
một chút “anh hùng”, “kiêu bạc” trong cuộc sống khó khăn
hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo
sợ, Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải “đèo bòng” thêm
một người nữa ư?
Hoàn cảnh đã xô đẩy người đàn bà đến với Tràng. Vậy giữa Nhà văn Kim Lân :
họ liệu có tình cảm thực sự không?
Không hẳn tiếng “thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo
Nhà văn Kim Lân: túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc thừa hiểu và đoán được
hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về
Sao lại không. Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ nhưng trong lòng thị vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như
với cặp tình nhân nào. Ban đầu là bắt chuyện vu vơ, rồi trêu một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể
chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều “thân thân”, người đàn thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận
bà đã “tủm tỉm” cười phá đi vẻ mặt cau có, ngượng ngập. Chị cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một
ta bắt đầu quen với hoàn cảnh mới. Và khi Tràng đùa “vợ mới tiếng thở dài và không tránh khỏi.
vợ miếc” và cười cợt, thị đã “phát đánh đét” vào lưng hắn.
Đây là cử chỉ “tỏ tình” của thị đối với ân nhân, nó đầy âu yếm Dẫn thị vào nhà, Tràng tỏ ra bối rối. “Tràng quay lại nhìn thị
và cũng đáng yêu. Nó là cho Tràng hạnh phúc. Anh chàng cười cười” cố tỏ vẻ tự nhiên cho thị và cũng cho cả mình,
“thích chín ngửa cổ cười khanh khách”. Cuộc sống thường Tràng nói đùa: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”
thật khốn khổ bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà Nghe câu đó thị lại “nhếch mép cười nhạt nhẽo”.Có lẽ, thị
thứ hai sau mẹ anh yêu thương và cần đến anh. Yêu thương không hề có ý “khinh thị” cái từ “nhà cửa” mà Tràng gán
có thể chưa rõ nhưng cần thì đã rõ. Anh ta hớn hở vì điều đó. cho túp lều tồi tàn của mình. Vậy thị “nhếch mép” vì điều gì?
Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ “tỏ
tình” trên kia vừa hàm chứa sự biết ơn vừa tỏ thái độ ưng Nhà văn Kim Lân:
thuận. Thị “nhếch mép” nhạt nhẽo vì ý khác. Thị tủi cho cái thân
Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui phận của thị, thân phận theo trai vì đói: thị biết thị theo Tràng
mong manh của hai người, tiếng chó sủa váng lên làm Tràng chỉ vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư cách người
thẹn thùng và xấu hổ, như thể có ai đó nhòm vào hạnh phúc đàn bà trong gia đình Tràng vừa gán cho.
của anh. Hình như Tràng hiểu ra rằng anh ta đang xây dựng Nhưng Tràng lại bối rối thật sự, Tràng sợ mất thị do hoàn
hạnh phúc của mình trên nền một cuộc sống thật bất trắc và cảnh của mình ư?
khốn đốn?
Nhà văn Kim Lân:
Nhà văn Kim Lân:
Đúng thế. Ở đây diễn ra một tình cảnh khá lạ lùng. Tràng
Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác “nhặt” được một người đàn bà nhưng rồi lại sợ mất thị. Cảnh
đó đi bằng cách “nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một nghèo đói đã hiện lên rõ ràng. Tràng thấy có tội vì đã che
cái”, như thể ném thẳng vào những thách thức đau đớn của giấu mà không thể kể cho thị nghe trước. Sự im lặng của thị,
cuộc sống. Tràng cảm thấy có lỗi đối với người đàn bà kia về nỗi mặc cảm của thị Tràng không hiểu nổi. Hơn nữa Tràng
chuyện không đủ tiền cưới xin,lỗi vì chưa xin phép mẹ, lỗi cả không thể tự quyết được tất cả mọi việc. Còn ý kiến của bà cụ
chuyện hoàn cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang
Tứ nữa chứ. Liệu mẹ có đồng ý không? Sự chờ đợi mẹ về thật
được thêm người nữa. Nhưng “ý nghĩ” này của Tràng chứng nặng nhọc với Tràng. “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một
tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy lúc” rồi “lấm lét bước vội” ra sân. Tràng sợ rằng người đàn bà
bây giờ mới nhận ra khiến Tràng thốt lên “Mẹ bố chúng mày sẽ bất ngờ từ chối không làm vợ Tràng nữa. Tràng không
cắn gì thế”, “cắn gì thế” là tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà dám trở lại nhà mà chỉ luẩn quẩn ở sân, ở ngõ. Một lần nữa,
Tràng , nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng sợ đối diện với thị, nhưng không phải vì sự “xa lạ” như
Tràng mặc cảm thấy. trước mà sợ sự “đột nhiên từ chối”.
Đi đến cổng nhà Tràng người đàn bà nhìn quanh và “cái Khi viết, ý nghĩa ấy có lúc loé lên trong đầu ông không? Thị
ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một tiếng thở dài”.Phải chăng cũng có thể bỏ Tràng để đi ăn xin hay “theo” một kẻ khác
thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng khá hơn chứ?
đập vào mắt?
Nhà văn Kim Lân:

Không bao giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình
cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn
nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Sự
“ngồi mớm ở mép giường” và hai tay vẫn không rời cái thúng,
chứng tỏ thị hơn ai hết hỉu rõ số phận của mình.
Trong tâm trạng bồn chồn của Tràng và sự tủi thân câm lặng Ở đoạn văn này, tại sao tác giả lại không phân tích tâm trạng
của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở về đã xua tan được không khí bế của người đàn bà, tâm trạng nơm nớp vì có lẽ bà cụ Tứ sẽ
tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất một câu chào không bằng lòng?
ấp áp: “U đã về ạ”. Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà
cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà lục vấn hỏi han gì Nhà văn Kim Lân:
con trai, điều mà các bà mẹ thường làm. Vậy trong mạch Tôi vẫn có ý định không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của
truyện, sự đồng ý nhanh chóng của người mẹ có quá gượng người đàn bà. Tôi muốn qua cách nhìn của Tràng, của bà cụ
ép? Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của chị. Ở đây, mỗi khi
Nhà văn Kim Lân: thay đổi cách gọi: người đàn bà, thị, ả là một lần “nhân vật vợ
mới” thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn
Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay từ khi giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm
về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự vui vẻ và chờ đợi “nóng cả ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng “nhà nghèo” và
ruột” của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn “năm nay thì đói to” nên chỉ cần “chúng mày hoà hợp là u
bà lạ ở trong nhà mà lại đứng ở “đầu giường thằng con”. mừng”. Sự thành thật xen lẫn nỗi đắng cay khiến bà khóc.
Người đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải Bàkhóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó
thích đến nỗi bà cụ tưởng nhầm mình đang mơ thấy cái Đục – có thể giữ nổi trong cuộc sống đói khổ này.
cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải thích, bà “nín
lặng” hiểu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng Tràng hồi hộp, háo hức chờ mẹ và khi bà cụ Tứ đồng ý ,
là một người mẹ, không lo cho con một cách đàng hoàng như “Tràng thở đánh phào một cái”, như vừa trút hết gánh nặng.
người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ hơn hoàn cảnh của Như vậy là Tràng chính thức có vợ. Nhưng Tràng có hiểu
chúng. “Người ta có gặp bướckhó khăn đói khổ này, người ta được những giọt nước mắt của mẹ?
mới lấy mình. Mà con mình mới có vợ được” bà nghĩ. Có thể Nhà văn Kim Lân:
bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác
“hàm ơn” đối với người đàn bà là nhiều hơn, người đã giúp Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ những viễn
bà “lo” cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc sắc của Tràng. Tràng tin
dám tin rằng “Chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói tưởng ở mình, tin tưởng ở những điều tốt đẹp nảy sinh từ lòng
khát này”. Ý nghĩ về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan mình. Những điều đó không thể có một kết cục tệ hại được.
có người đàn bà lạ tham dự vào một cách bà đồng ý với Có thể là ý nghĩ nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ và
Tràng . Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn. Dù họ có vợ về điều này.
vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ
thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói treo lơ lửng trước mặt. Và ngọn đèn Tràng thắp lên đã an ủi cả mấy người?

Tương lai của cặp vợ chồng mới nay như bóng tối trong con Nhà văn Kim Lân:
mắt bà. “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy
Tràng “hầm hầm bước vào” và “đánh diêm đốt đèn”. Hành
hai con mắt”. Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống
động kiên quyết tạo ra một hình tượng “Ngọn đèn tỏa sáng
đồng thanh xác nhận điều đó bằng mùi trấu khét lẹt ở nhà
căn nhà tối tăm”. Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về
những người chết. Bà nghĩ đến cuộc đời bà và ngầm so sánh
nhà? Bởi Tràng chỉ thắp khi phải củng cố niềm tin dù là nhỏ
với cuộc sống của cặp vợ chồng này. Chúng chỉ có một điểm
nhoi cho người khác. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho
chung là không một chút nào tươi sáng. Bà nhắc “Con ngồi
một tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với
xuống đây”. Lời nhắc này có ý nghĩa với lời chào thuận lòng
nhau – ba con người đói rách. Ngọn đèn là niềm yêu thương,
của người mẹ. Bà thực sự chấp nhận thị là con dâu bà hay do
cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn
hoàn cảnh mà bà phải chấp nhận?
thương của họ. Và khi thấy sáng , bà lão “vội vàng lau nước
Nhà văn Kim Lân: mắt”. Rõ ràng là căn nhà và trong lòng bà lão đều tối như
nhau. Ánh sáng như một lời hứa quyết tâm của người con trai
Cuộc gặp đầu tiên đó không có cái ý nghĩa “mẹ chồng con gửi đến bà mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai
dâu”. Cái tình cảm chiếm nhiều nhất trong lòng bà cụ Tứ là bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ
tình cảm “thương xót” một người đàn bà cùng đường. Hơn “uể oải” đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của ánh sáng cũng chỉ
nữa, có một nỗi “hàm ơn mơ hồ” luôn bám lấy bà. Người đàn là một viễn cảnh quá xa.
bà đã giúp bà cái việc không thể làm cho con trai là lấy vợ
(Kim Lân, ‘Vợ nhặt’, in trong Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác
cho anh ta.
giả có tác phẩm giảng dạy trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ
biên, Nxb Trẻ, 2000)
Ánh sáng soi rõ lòng bà mẹ và một lần nữa ngọn đèn tỏa rọi Nhà văn Kim Lân:
vào cuộc sống chung của đôi vợ chồng mới?
Ở đây tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muốn thể hiện
Nhà văn Kim Lân: cuộc sống của một cặp vợ chồng mới trong nạn đói. Cho nên
cuộc sống đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó
Thực tại luôn luôn kéo người ta lại với nó. “Tiếng ai hờ khóc mà niềm vui của cặp vợ chồng luôn bấp bênh. Ở đây có một
ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ” đã lấy mất không khí ẩn ý: Cả ba người đều không quên thực tại và cố gắng của họ
lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến.Cả hai một lần nữa lại là tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối tăm. Cái bữa ăn đầu
“sượng sùng” không biết nói gì. Hình ảnh thực nhất là hình tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa như bữa “tiệc
ảnh “ngọn đèn” hạnh phúc tương lai soi rọi họ và “kéo dài hai cưới” tội nghiệp. “Giữa cái mẹ rách có độc một chùm rau
cái bóng trên vách”. Hai cái bóng đó chính là cuộc sống thực chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Sự tồi tàn của
của họ. Hai cái bóng lờ mờ, lê thê, khốn khổ. Sự thật trần trụi bữa ăn trong tương phản niềm vui của họ. Họ đều “ăn rất
họ phải tiếp nhận là như thế. ngon lành” và “vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh”. Họ
gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan
Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đêm hạnh phúc. Mọi khó
ngoãn và nghe lời mẹ. “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con
khăn đều tạm thời quên đi. Hai người hưởng cái niềm vui tột
lại hòa hợp thế”. Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ.
cùng mà thiên nhiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được
Nhưng “tiệc cưới” kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai
bao quanh bởi “tiếng khóc tỉ tê nghe càng rõ”. Một đêm tân
lưng cháo “lõng bõng”. Màn cuối của bữa hoàn toàn phũ
hôn trong tiếng khóc người chết và mùi trấu hun khê nồng.
phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu
Tràng có cảm thấy hạnh phúc không?
đón lấy bát ăn và “đưa lên mắt nhìn” rồi “hai con mắt thị tối
Nhà văn Kim Lân: lại” vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sống mới.
Nhưng thị đã “điềm nhiên và vào miệng”. Đấy dù sao cũng là
Tôi tả đêm tân hôn trong hoàn cảnh đó và để phân tích xem lối tốt nhất cho cuộc đời của thị.
hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng cái đói không. Tràng
hạnh phúc. Trong khung cảnh tăm tối và ghê rợn như thế Nồi cháo cám đã đập tan không khí vui tươi ở phần đầu bữa
nhưng niềm vui của con người vẫn không mất đi. Sáng hôm ăn. “ Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho
sau, Tràng thức dậy rất muộn khi “mặt trời lên bằng con xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào
sào”, chứng tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta tâm trí mọi người”. Trong sách văn học lớp 12, phần được
trở thành một con người khác. Một người chồng thực sự. Ánh trích giảng cũng dừng ở đoạn này. Câu văn dường như bóc
nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa soi vào hai con mắt của nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuộc sống để cho cả ba
Tràng và mọi thứ bỗng nhiên thay đổi. thấy cái “đắng chát”, “cái nghẹn bứ trong cổ”. Cuộc sống
không báo hiệu một tia hy vọng nào?
Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế?
Nhà văn Kim Lân:
Nhà văn Kim Lân:
Thực ra với tứ truyện “Vợ nhặt” truyện nên kết thúc ở đây.
Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do điều kiện của tờ báo
Tràng thấy mọi thứ “mới mẻ, khác lạ”. Nhà cửa, vườn tược bấy giờ , truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc
được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo cũ giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt
được giặt giũ và phơi nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người
hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy là người vợ đang “quét là có hy vọng vào tương lai.
lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.
Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe nhưng chưa Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động
bao giờ gợi cảm như thế. Người vợ mới muốn quét mạnh tay nhất cho riêng nhà văn?
để tạo ra những âm thanh rộn rã khẳng định sự có mặt của
Nhà văn Kim Lân:
mình trong ngôi nhà.
Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn bà
Cảnh tượng đó đã khiến Tràng thấy “thương yêu gắn bó với
cụ Tứ trở về. Ở đây tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh
cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng là con, là chồng, Tràng có
chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ
nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái
thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà
niềm vui của cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có “một
cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó
nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”
chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt.
và “cũng muốn làm một việc gì để dự phần sửa lại căn nhà”.
Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.
Tất cả mọi người đều hiểu phải tiến gần nhau hơn?
Nhận xét về tác giả và tác phẩm 9. Cái đói là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và
thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của
1. Với "Vợ nhặt", Kim Lân từng tâm sự: "Khi viết về nạn đói đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và
người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về bất lực của con người trước đó. Con người phạm tội và làm
con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng
chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa
khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn mơ hồ vào cuộc sống tương lai. - Kim Lân
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn
sống, sống cho ra con người". 10. "Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm
khủng khiếp ấy" – Tô Hoài
2. "Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái đòn bẩy để nâng con người
lên tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ 11. “Đói, nó vừa đắng cay, vừa đau đớn, đồng thời một mặt
trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng". nào đó nó lại lóe lên một tia sáng về đạo đức, danh dự"
- Trần Đồng Minh – Kim Lân

3. Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” 12. “Nạn đói năm 1945 thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa
với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. có người chết đói vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi
- Nguyên Hồng tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác khắp nơi. Khi
con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn
4. “Dùng lý lẽ để thuyết phục trong văn chương cũng là một bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra hết. Chết
thứ cưỡng chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần,
người ta không giữ được chính mình. Nói một cách khác hết quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua năm tháng đó.
sức mềm mại thì người cầm bút phải viết như chơi, viết thoải Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức
mái bằng tấm lòng của mình, hướng vào cái thật, cái đẹp, sống đơn sơ của tâm hồn họ. Nó vừa đắng cay vừa đớn đau,
giúp cho con người sống thật, sống đẹp với nhau. Và khi nhà đồng thời lóe lên những tia sáng về đạo đức và danh dự”
văn gặp cái gì trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình, (Sách tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm
phải dám lên tiếng nữa”. - Kim Lân văn học Việt Nam hiện đại, NXB Giáo Dục, 2001)

5. Kim Lân chọn bối cảnh ấy (nạn đói năm 1945) cho truyện
Vợ nhặt không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những
dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở
Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn
rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp
sợ, rụng rời. - Trần Đồng Minh

6. “Vợ nhặt” dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt
lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực
trước Cách mạng Tháng Tám 1945 - Vũ Dương Quỹ

7. Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những


trang sách bất hủ - Nguyễn Khải

8. Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân
cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng
chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời...Mỗi lần
mở những trang viết ít ỏi ấy ta lại cảm thấy không một bước
ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong
gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ
bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn.
- Trần Ninh Hồ
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: - Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các
chi tiết khác được kể tới đều xoay quanh tình huống này.
1. Ý nghĩa nhan đề: - Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến
- “Vợ nhặt” = “vợ” (danh từ) + “nhặt” (động từ). Nhưng khi bước đường cùng, biến giá trị con người thành số không.
ghép thành một từ thì động từ “nhặt” trở thành tính từ, “vợ - Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm
nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ. lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ.
- “Vợ nhặt” là vợ theo không, người vợ không mai mối, - Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người
không lễ nghĩa cưới xin. Lẽ thường, chúng ta chỉ biết tới việc lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng.
nhặt nhạnh những đồ vật, vật dụng nhỏ bé như nhặt cọng rơm 3. Bối cảnh truyện:
ngọn cỏ, thế nhưng ở đây, có một sự thật thật trớ trêu và bi - Nạn đói thê thảm mùa xuân 1945.
hài đó là nhặt được vợ. - Tác giả chọn cách mở đầu tác phẩm, dẫn chúng ta vào
- Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của không gian của cái đói: “Cái đói tràn đến xóm ngụ cư này tự
tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình
phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như
bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã chấp nhận những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết
theo không một người đàn ông. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ như ngả ra. Không buổi sáng nào người đi chợ, đi làm đồng
nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa không gặp 3, 4 cái thây nằm còng queo bên đường, không khí
trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xácngười...”
kịch. Chỉ với một vài nét phác họa của mình, Kim Lân đã gợi lại
- Nhan đề của tác phẩm mang sức mạnh tố cáo xã hội phong cho người đọc cả một khoảng thời gian lịch sử đau thương
kiến và bọn thực dân đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng khi những người dân Việt Nam không thể vượt qua cái đói.
thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ - Nạn đói bây giờ đã tràn đến xóm ngụ cư mang theo lưỡi hái
đẹpcủa nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy tử thần đi tới đâu quét sạch tới đó. “Trẻ con ngồi yên buồn
vọng về cuộc sống, đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà không nhúc nhích dưới những xó tường” “Bóng những người
văn muốn gửi gắm. đói đi lài dật dờ như những bóng ma”. Hai lần Kim Lân so
- Khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chúng ta bắt gặp một điều gì đó sánh người với ma, khiến cho người đọc liên tưởng miền trần
rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho gian mà ta cứ ngỡ như miền địa ngục. Ranh giới giữa người
độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này. và ma, giữa sự sống và cái chết, giữa trần gian và địa ngục
2. Tình huống truyện: thật đỗi mỏng manh. Cõi âm bây giờ như đang hòa với cõi
a. Khái niệm tình huống truyện trần, cõi trần mấp mé miệng vực âm phủ.
- Tình huống truyện là một trong ba yếu tố cơ bản của truyện 4. Diễn biến tâm lý của người dân xóm ngụ cư:
ngắn. - Đối với những người dân nghèo trong xóm ngụ cư, việc
- Tình huống truyện là tình thế nảy ra truyện, là hoàn cảnh mà Tràng có vợ thực sự làm họ rất ngạc nhiên. Đây thực sự là
nhà văn đặt nhân vật của mình vào đó để nhân vật truyện bộc một biến động nho nhỏ. Họ mừng, nhưng cũng lo thay cho
lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của mỗi thiên truyện anh. Tràng đưa người đàn bà về xóm ngụ cư trong một buổi
cũng nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. chiều chạng vạng khiến cho “những khuôn mặt hốc hác vì đói
- Về phân loại có 3 loại tình huống truyện: Tình huống tâm bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Xóm ngụ cư vốn đang bị đè
trạng, tình huống nhận thức, tình huống hành động. Tình nặng bởi chết chóc và đói khát bỗng dưng “có cái gì lạ lùng
huống trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là tình huống hành động. và tươi mát thổi vào”.
b. Tình huống truyện “Vợ nhặt” - Thế nhưng, sau niềm vui cùng người hàng xóm của mình,
- Tình huống độc đáo, bất ngờ và éo le: họ giấu một tiếng thở dài ngao ngán. Họ ái ngại cho cuộc
+ Một anh nông dân nghèo khổ, xấu trai, dân ngụ cư bỗng sống của gia đình nhà Tràng sau này vì “biết có nuôi nổi nhau
nhiên lấy được vợ mà không cần cưới xin, vợ theo không, vợ sống qua cái thì này không?”. Trong thời điểm này, nói
nhặt. không ngoa nhưng chính xác “vợ là của nợ đời”.
+ Tràng nhặt được vợ trong những ngày đói khát thê thảm - Song, ta có thể nhìn thấy sự sẻ chia của những người hàng
đến nuôi thân còn chẳng xong, huống chi còn “đèo bòng”. xóm dành cho nhau. Cuộc sống đói khổ đến vậy, nhưng họ
- Nhận xét: tình huống vừa lạ, vừa hết sức éo le, là đầu mối vẫn lo lắng cho những người ở bên cạnh mình. Đây là một
cho sự phát triển của truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng trong những minh chứng cho phẩm chất tốt đẹp của những
và hành động của các nhân vật. Từ đó chủ đề của tác phẩm người dân lao động xưa.
được bộc lộ: dù hiện thực có bi đát đến đâu, con người vẫn
không đánh mất niềm tin vào tương lai và vẫn khát khao hạnh
phúc lứa đôi.
c. Ý nghĩa tình huống truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân
5. Nhân vật Tràng: Trong lúc này, anh cu Tràng dường như đang quên hết tất cả
a. Ngoại hình, lai lịch, phẩm chất: những đói khổ đang đợi mình phía trước để vui với niềm vui
 Ngoại hình, lai lịch có vợ, để hạnh phúc khi kể từ bây giờ anh sẽ có một người
- Tràng được nhà văn miêu tả ở phần đầu của truyện với những đàn bà nguyện lòng ở bên mình “trong lòng hắn bây giờ chỉ
đường nét thô kệch như một sự đẽo gọt sơ sài của tạo hóa: đầu còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên”. Có một cái gì mới
cạo trọc, hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ này.
quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vập vạp, cái - Về đến nhà, Tràng cảm thấy ngượng ngập vì gia cảnh chua
lưng to như lưng gấu, lại có cái tật vừa đi vừa nói, hắn lảm nhảm xót của mình “Cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
những điều hắn nghĩ. mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”. Đây là lúc hắn phải đối
- Tràng còn là dân ngụ cư, trôi dạt từ một nơi đói khát khổ sở diện với thực tại, hoàn cảnh khắc nghiệt của mình. Vì vậy mà
nào đó đến để tìm kế mưu sinh, nuôi mẹ già ở độ tuổi gần đất xa vào đến nhà sau mấy câu nói xã giao, chàng bỗng “đứng tây
trời, cuộc sống nghèo khổ, chật vật với nghề kéo xe thóc thuê.
ngây giữa nhà”, “hắn thấy sờ sợ”.
=> Giữa bối cảnh tăm tối, ảm đạm bởi cái đói và sự chết chóc
- Nhìn người phụ nữ đang ngồi trên giường nhà mình, Tràng
bủa vây, nhân vật anh cu Tràng hiện lên với dáng vẻ ngoại hình
bây giờ cứ ngờ ngợ như không phải: “Ra là hắn đã có vợ rồi
cũng không mấy sáng sủa và có tương lai khá khẩm.
ư?”. Tràng hồi hộp lo lắng chờ đón khoảnh khắc mẹ về nhà
 Phẩm chất
và tiếp nhận cô con dâu của mình. Anh đã rất hồi hộp, để rồi
- Bên trong dáng vẻ thô kệch kia lại là một con người thuần hậu,
thở phào khi mẹ của anh – một người mẹ nhân hậu và giàu
hiền lành, chất phác, dễ gần. Chẳng phải tự nhiên mà anh cu
lòng yêu thương đã bằng lòng với nàng dâu mới. “Tràng thở
Tràng được trẻ con trong xóm quý lắm. Cứ mỗi chiều anh đi lắm
về, trẻ con trong xóm lại “ùa cả ra”, “vây lấy”, “reo cười váng đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi”.
lên”, “đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù đứa kéo => Có thể thấy rằng từ khi sự kiện “nhặt được vợ” xảy ra,
đứa lôi chân không cho đi.” tâm lý của Tràng thay đổi liên tục với những biến thiên khác
- Tràng còn là một người có tấm lòng nhân hậu, giàu lòng bao biệt. Từ ngạc nhiên, bất ngờ đến chấp nhận sự thật, từ lạ lẫm
dung, lại có tinh thần “trượng nghĩa”, hào phóng, sẵn sàng cưu đến gần gũi, từ lo sợ đến hòa hợp, từ buồn tủi đến tươi vui, từ
mang một người phụ nữ xa lạ khi người đó hầu như ở vào hoàn xa lạ đến thân mật rồi thành vợ thành chồng. Anh cu Tràng
cảnh đói rách thê thảm. giờ chẳng còn ngờ nghệch, khờ khạo nữa mà đã trưởng thành
b.Tình huống truyện - Tràng nhặt được vợ: hơn cả trong suy nghĩ và hành động. Đó là những diễn biến tự
Một người đàn bà xa lạ đã theo về làm vợ Tràng chỉ sau hai nhiên và hợp lí với tâm tưởng của một con người đang phải
lần gặp mặt, bốn bát bánh đúc và một câu nói tầm phơ tầm gồng mình trong cái đói nhưng vẫn khát khao hạnh phúc gia
phào: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe đình.
rồi cùng về.” - Hạnh phúc đã đến với Tràng, trong đêm tân hôn của đôi vợ
chồng trẻ diễn ra trong không gian sặc mùi chết chóc với
c. Diễn biến tâm lí và hành động của Tràng: tiếng khóc ai oán của những người mẹ mất con. Hạnh phúc
- Ban đầu, Tràng nghĩ cũng thấy “chợn”, bởi thóc gạo tầm này, bây giờ, đang được ươm mầm trên nền của cảnh chết chóc
thân mình còn không biết có nuôi nổi không mà còn “đèo bòng”, tang thương. Giữa bối cảnh của cái đói, của sự chết chóc
thế nhưng chàng lại tặc lưỡi cho qua. Thật bất ngờ, anh cu Tràng khốn cùng, hạnh phúc vẫn đang được ươm mầm, nảy nở. Một
đã có vợ, tiếp nối sự sống bên bờ vực của cái chết. Cái tặc lưỡi câu chuyện tình yêu vốn dĩ rất méo mó, bi hài, lại trở thành
quyết định ấy bên ngoài là sự liều lĩnh, nông nổi nhưng bên sự cứu cánh thực sự cho những mảnh đời bất hạnh.
trong là sự khao khát hạnh phúc lứa đôi. Quyết định có vẻ giản - Buổi sáng đầu tiên có vợ, Tràng cảm nhận có một cái gì mới
đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với người gặp cảnh khốn mẻ “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc
cùng. mơ đi ra”, hắn chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa
- Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng có vẻ “phớn phở”, “tự đắc” thay đổi mới mẻ”. Hạnh phúc đã khiến Tràng biến đổi hẳn:
chứ không lầm lũi như mọi ngày. Đứa trẻ to đầu vẫn quen ở với “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà của
mẹ nay đã có vợ để dẫn về nhà. “Hắn tủm tỉm cười nụ một mình hắn lạ lùng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”, “hắn
và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Rõ
đi bên cạnh một người đàn bà, mà người đó lại là vợ mình trước
ràng với tấm lòng khao khát hạnh phúc, Tràng đã đứng vững
bao nhiêu con mắt tò mò, hiếu kỳ của mọi người. Đưa thị về
để cùng người vợ nhặt ước mơ những điều đơn giản nhất của
xóm ngụ cư, hắn có vẻ hãnh diện lắm. Cảm giác hạnh phúc
con người: mái ấm gia đình.
dường như đã bắt đầu nhen nhóm trên đường Tràng dẫn thị về
- Bữa cơm ngày đói thảm hại diễn ra trong không khí gượng
nhà. Đó là cảm giác hạnh phúc vì hắn đã có vợ, hắn cũng trở nên
chín chắn và sâu sắc hơn trong mỗi hành động, cử chỉ của mình. gạo nhưng trong đầu Tràng đã hướng tới những hình ảnh đầy
Dù vẫn còn nhiều ngượng ngập, lúng túng, định nói một câu gì hi vọng về sự đổi đời, về một tương lai tốt đẹp: “Trong óc
đó cho thật tình tứ nhưng cứ ngập ngừng mãi không nói được, Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.”
rồi lại vài ba từ nhát gừng.
Phân tích chi tiết: có mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Như vậy thì cái thiêng liêng
(vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã bộc lộ một quan điểm một mạch khác: chủ thể của cái hành động "nhặt" kia là Tràng,
nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột
của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ
hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà
về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày cụ Tứ - mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.
mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng. Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh
tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng. Anh cu Tràng cục mịch,
Nhà văn miêu tả Tràng ở phần đầu của truyện trong bối cảnh khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Một
ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân người đàn bà xa lạ đã theo về làm vợ Tràng chỉ sau hai lần gặp
Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Tràng hiện lên trong mặt, bốn bát bánh đúc và một câu nói tầm phơ tầm phào: “Này
trang văn Kim Lân với những đường nét thô kệch như một sự nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”
đẽo gọt sơ sài của tạo hóa: đầu cạo trọc, hai con mắt nhỏ tí gà gà
đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định
thân hình to lớn, vập vạp, cái lưng to như lưng gấu, lại có cái tật vừa tầm phơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng hò
vừa đi vừa nói, hắn lảm nhảm những điều hắn nghĩ. Tràng còn là một câu cho đỡ nhọc:
dân ngụ cư, trôi dạt từ một nơi đói khát khổ sở nào đó đến để tìm “Muốn ăn cơm trắng với giò này
kế mưu sinh, nuôi mẹ già ở độ tuổi gần đất xa trời. Cái nghèo Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”
hiện hữu trong “chiếc áo nâu tàng”, cái nhà Tràng thì “vắng teo Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt, ban đầu
đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”, chủ yếu cũng là đùa. Ban đầu, Tràng nghĩ cũng thấy “chợn”, bởi
và Tràng chật vật với nghề kéo xe thóc thuê. Tuy nhiên, trái với thóc gạo tầm này, thân mình còn không biết có nuôi nổi không
dáng vẻ thô kệch kia thì bên trong Tràng lại là một con người mà còn “đèo bòng”, thế nhưng chàng lại tặc lưỡi cho qua. Thật
thuần hậu, hiền lành, chất phác, dễ gần. Chẳng phải tự nhiên mà bất ngờ, anh cu Tràng đã có vợ, tiếp nối sự sống bên bờ vực của
anh cu Tràng được trẻ con trong xóm quý lắm. Cứ mỗi chiều anh cái chết. Cái tặc lưỡi quyết định ấy bên ngoài là sự liều lĩnh,
đi lắm về, trẻ con trong xóm lại “ùa cả ra”, “vây lấy”, “reo cười nông nổi nhưng bên trong là sự khao khát hạnh phúc lứa đôi.
váng lên”, “đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù đứa Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với
kéo đứa lôi chân không cho đi”. người gặp cảnh khốn cùng.
Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng có vẻ “phớn phở” “tự đắc”
Bằng ngòi bút hiện thực của mình, những con người trong nạn chứ không lầm lũi như mọi ngày. Đứa trẻ to đầu vẫn quen ở với
đói thê thảm năm 1945 ấy đã được Kim Lân miêu tả với “khuôn mẹ nay đã có vợ để dẫn về nhà. “Hắn tủm tỉm cười nụ một mình
mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn
Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám đi bên cạnh một người đàn bà, mà người đó lại là vợ mình trước
như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại bao nhiêu con mắt tò mò, hiếu kỳ của mọi người. Đưa thị về
lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới xóm ngụ cư, hắn có vẻ hãnh diện lắm. Cảm giác hạnh phúc
ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi dường như đã bắt đầu nhen nhóm trên đường Tràng dẫn thị về
thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm nhà. Đó là cảm giác hạnh phúc vì hắn đã có vợ, hắn cũng trở nên
giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức chín chắn và sâu sắc hơn trong mỗi hành động, cử chỉ của mình.
khủng khiếp. Giữa bối cảnh tăm tối, ảm đạm bởi cái đói và sự Dù vẫn còn nhiều ngượng ngập, lúng túng, định nói một câu gì
chết chóc bủa vây ấy, nhân vật anh cu Tràng hiện lên với dáng đó cho thật tình tứ nhưng cứ ngập ngừng mãi không nói được,
vẻ ngoại hình cũng không mấy sáng sủa và có tương lai khá rồi lại vài ba từ nhát gừng. Trong lúc này, anh cu Tràng dường
khẩm. như đang quên hết tất cả những đói khổ đang đợi mình phía
trước để vui với niềm vui có vợ, để hạnh phúc khi kể từ bây giờ
Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình anh sẽ có một người đàn bà nguyện lòng ở bên mình “trong lòng
thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên”. “Một
duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo
khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có
Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, Với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ trọng trong cuộc đời,
cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái quyết định tương lai hạnh phúc. Thông thường việc này phải
nhan đề “Vợ nhặt” đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức được hai bên cha mẹ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng
là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân hoàn toàn bất ngờ. Bởi vậy khi đưa thị về tới nhà ban đầu Tràng
lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con cũng có tâm lí lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp mẹ,
người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ Tràng như một đứa trẻ, reo lên: “U đã về đấy!... Sao u về muộn
thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột”.
Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy, Tràng lấy lại được sự bình Chi tiết: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm
tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa “Kìa một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà" là một đột biến quan
nhà tôi nó chào u”. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: “Nhà trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của
tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ... chẳng qua nó cũng là cái Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức.
số cả...”. Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối quan Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: "hắn thấy hắn có bổn
hệ của mình với người phụ nữ để người nghe và bà cụ Tứ buộc phận lo lắng cho vợ con sau này". Tràng thật sự "phục sinh tâm
phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lí giải mối quan hệ hồn" đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
với vợ là duyên số – một cách lý giải của một người từng trải, Bữa cơm ngày đói thảm hại diễn ra trong không khí gượng gạo:
chín chắn, chững chạc. “Giữa cái mẹt rách...muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim Lân đã thể
hiện tài năng ngôn ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả.
Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn còn Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài. Nó nói lên sự nghèo
tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn người phụ nữ đang ngồi trên đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời,
giường nhà mình, Tràng bây giờ cứ ngờ ngợ như không phải: chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói, cái nghèo
“Ra là hắn đã có vợ rồi ư?”. Tràng hồi hộp lo lắng chờ đón những năm 1945. Họ đang cố gắng giành giật lại từng chút sự
khoảnh khắc mẹ về nhà và tiếp nhận cô con dâu của mình. Anh sống từ bàn tay của tử thần. Nhưng trái ngược với những thứ
đã rất hồi hộp, để rồi thở phào khi mẹ của anh – một người mẹ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm trong bữa ăn.
nhân hậu và giàu lòng yêu thương đã bằng lòng với nàng dâu “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn món "chè
mới. “Tràng thở đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi”. đặc biệt" - miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ thì “một
Có thể thấy rằng từ khi sự kiện “nhặt được vợ” xảy ra, tâm lý nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Dù vậy, trong đầu
của Tràng thay đổi liên tục với những biến thiên khác biệt. Từ Tràng đã hướng tới những hình ảnh đầy hi vọng về sự đổi đời,
ngạc nhiên, bất ngờ đến chấp nhận sự thật, từ lạ lẫm đến gần về một tương lai tốt đẹp: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người
gũi, từ lo sợ đến hòa hợp, từ buồn tủi đến tươi vui, từ xa lạ đến đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.” Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín
thân mật rồi thành vợ thành chồng. Anh cu Tràng giờ chẳng còn hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý
ngờ nghệch, khờ khạo nữa mà đã trưởng thành hơn cả trong suy nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người.
nghĩ và hành động. Đó là những diễn biến tự nhiên và hợp lí với Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 -
tâm tưởng của một con người đang phải gồng mình trong cái đói 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng
nhưng vẫn khát khao hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc đã đến với tháng Tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người
Tràng, trong đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
không gian sặc mùi chết chóc với tiếng khóc ai oán của những
người mẹ mất con. Trong đêm tân hôn ấy, Tràng rất hào phóng Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định hiện
thắp sáng căn nhà tối tăm của mình bằng ngọn đèn dầu vàng thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi
đục. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một niềm tin, niềm hi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn
vọng tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với cảnh để khẳng định tư cách ngời sáng của mình. Xét cho cùng,
nhau – ba con người đói rách, là niềm yêu thương, cảm thông hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện được thành
lẫn nhau để cùng vượt lên số phận buồn thương của họ. Hạnh công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người
phúc bây giờ, đang được ươm mầm trên nền của cảnh chết chóc vào sự sống: “Sự sống chẳng bao giờ chán nản” (Xuân Diệu),
tang thương. Giữa bối cảnh của cái đói, của sự chết chóc khốn chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao
cùng, hạnh phúc vẫn đang được ươm mầm, nảy nở. Một câu cả và rất riêng của Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được
chuyện tình yêu vốn dĩ rất méo mó, bi hài, lại trở thành sự cứu nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác
cánh thực sự cho những mảnh đời bất hạnh. viết về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói.
Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong
giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Tràng cảm nhận có một
cái gì mới mẻ “trong người êm ái lửng lơ”, hắn chợt nhận ra
“xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ”.Hạnh phúc đã
khiến Tràng biến đổi hẳn: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu,
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người”. Rõ ràng với tấm lòng khao khát hạnh phúc, Tràng
đã đứng vững để cùng người vợ nhặt ước mơ những điều đơn
giản nhất của con người: mái ấm gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là
một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong
cuộc đời Tràng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực
lẫn giấc mơ.
6. Nhân vật người vợ nhặt: - Bước chân về nhà chồng, nhìn thấy gia cảnh gieo neo trước
a. Tên tuổi, lai lịch, ngoại hình: mắt, thị nén một tiếng thở dài, thất vọng. Tiếng thở dài – chi
- Một người đàn bà vô danh – một số không tròn trĩnh – tiết thật tinh tế mà Kim Lân đã lựa chọn để đưa vào trong tác
không tên, không tuổi, không quê quán, không nghề nghiệp, phẩm của mình, để thể hiện sự nhạy cảm, sự tinh tế trong
không tài sản. Người vợ nhặt xuất hiện trong một tình huống từng thái độ cử chỉ của nhân vật Thị. Thị không muốn Tràng
éo le nhưng cũng thật bi hài. Trớ trêu thay khi cái đói khiến biết được sự thất vọng của mình, thị hiểu rằng đối với một
cho bản thân con người bị dồn ép đến bước đường cùng, phải người đàn ông “lòng tự trọng về gia cảnh” rất quan trọng.
chấp nhận theo không về làm vợ của một người đàn ông dù Chính vì vậy, dẫu có thất vọng bao nhiêu, người phụ ấy cũng
mới chỉ gặp hai lần. Theo không một người đàn ông vừa nén hết để lại trong lòng.
nghèo, vừa xấu, không có chút hứa hẹn nào về tương lai. - Vào đến trong nhà, thị đã được trả lại tất cả những gì là
- Thị xuất hiện với bộ dạng cứ gây ám ảnh mãi trong tâm trí khiêm nhường, ý tứ, e dè của một nàng dâu nông thôn: chỉ
người đọc: “tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thân hình tiều tụy, dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết ngượng nghịu,
khổ sở “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp “tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của Thị khi mới về nhà
hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi
mắt.” nửa vời. Đó cũng chính là tâm thế của Thị lúc bấy giờ, một tư
=> Thân hình ấy, cách ăn mặc ấy đã nói lên một sự thực xót thế đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,...
xa: người ta đã quá nghèo, quá đói, thậm chí đang trên bờ vực nỗi buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng
chết đói. người vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà
b.Hành động theo không của nhân vật: nén tất cả nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc
- Dường như cái đói đã làm thị trở nên chao chát, đanh đá, được, vì thất vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên
liều lĩnh, đánh mất lòng tự trọng, sự e thẹn, bản chất dịu dàng tâm trạng của người đàn bà lúc này đang rối bời đến bội
của người phụ nữ. Gặp lại người đàn ông xa lạ lần thứ hai, thị phần.
đã sầm sập chạy đến “cong cớn đứng trước mặt”, sau đó gợi - Với bà cụ Tứ - mẹ chồng của Thị, Thị luôn biết giữ lễ độ,
ý để được ăn và “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền mọi hành động, cử chỉ, lời nói đều rất lễ phép, đúng mực.
chẳng chuyện trò gì”. - Sáng hôm sau, nàng dâu mới rất biết ý tứ. Cô dậy sớm cùng
- Quyết định theo không Tràng sau đó là một quyết định liều mẹ chồng quét tước, dọn dẹp, gánh nước, giặt giũ, phơi
lĩnh, bất ngờ, khiến chính Tràng cũng phải ngạc nhiên. Theo phóng, sắp lại đồ đạc khiến cho sân ngõ, nhà cửa gọn gàng,
không một người đàn ông xa lạ chưa hề biết gia cảnh, tên sạch sẽ. Thị đã thay đổi hoàn toàn qua điểm nhìn của Tràng:
tuổi, quê quán, chấp nhận trao thân gửi phận cho một người “Tràng nom thị hôm nay khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà
mới chỉ ngỏ lời “tầm phơ tầm phào”. Người đàn bà đã không hiền hậu đúng mực....”
giấu được tình cảnh đói khát và ước mong chạy trốn cái đói - Trong bữa cơm ngày đói, được mẹ chồng đãi món “chè
của mình. khoán” “ngon đáo để” Thị cũng nén cảm xúc của mình lại dù
c. Diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật: món “chè khoán” thực chất là món cháo cám rất đắng, chát,
- Trên đường về nhà, qua xóm ngụ cư, cái vẻ “cong cớn” khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng.
không còn. Chỉ còn một người phụ nữ xấu hổ, ngượng nghịu Thị bây giờ, đã là một người vợ, một cô con dâu đảm đang,
và cũng đầy nữ tính. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi đúng mực, có một gia đình hạnh phúc, yên bình. Thị hướng
xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là
mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn”. Khi nhận thấy cái nhìn tò người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.
mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn
nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi
nữ đã mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn trong tâm trí của Tràng.
của mình, thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi => Không tốn quá nhiều giấy mực, chỉ bằng những chi tiết
thị vẫn còn lòng tự trọng. ngắn gọn nhưng cũng thật đắt giá, Kim Lân đã xây dựng
- Bây giờ, Thị là vợ của Tràng, Thị bảo với Tràng: “Hoang thành công nhân vật người vợ nhặt. Đó là hình ảnh của một
nó vừa chứ” khi anh cu Tràng vui vẻ khoe vừa mua hai hào người phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội nghiệp thế nhưng
dầu, câu nói cụt lủn nhưng lại rất đủ đầy, đủ đầy tình cảm, đủ trong tâm hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, sức sống tiềm
đầy trách nhiệm, đủ đầy cảm xúc, một câu nói thực sự đủ đầy tàng mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở bên bờ vực
của người phụ nữ mà bây giờ Tràng gọi là vợ. thẳm. Nhân vật này cũng là một trong những nhân vật biểu
tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam.
Phân tích chi tiết: sự e thẹn, bản chất dịu dàng của người phụ nữ. Thị “đon đả”
với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn liền một chặp
Lật giở những trang văn thấm đẫm tình người của Kim Lân bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: "Hà, ngon!". Cũng biết đùa,
khi viết về nạn đói năm Ất Dậu 1945, ta chợt bắt gặp hình biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng
ảnh nhân vật thị hiện lên như là một thành công đặc sắc của rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói
Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ tầm phào của Tràng "làm đếch gì có vợ...”, thế là Thị theo về
cùng khổ trong nạn đói. Thị được miêu tả bằng những nét ám ngay, “Thị về thật”. Quyết định theo không Tràng sau đó là
ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác một quyết định liều lĩnh, bất ngờ, khiến chính Tràng cũng
phẩm. phải ngạc nhiên. Theo không một người đàn ông xa lạ chưa
hề biết gia cảnh, tên tuổi, quê quán, chấp nhận trao thân gửi
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc
phận cho một người mới chỉ ngỏ lời “tầm phơ tầm phào”.
khám phá cuộc sống của những con người nghèo khổ trong
Người đàn bà đã không giấu được tình cảnh đói khát và ước
xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống
mong chạy trốn cái đói của mình. Từ dáng điệu, cử chỉ đến
truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ
cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng.
trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác
Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Thị cần có nơi
rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót
nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con
thương cho số phận con người. “Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân
gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi.
thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó
thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:
khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một
đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm "Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
cơm ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"
dâu nhà người ta.Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. (Ca dao)
Qua ngòi bút của Kim Lân, nạn đói thật khủng khiếp. Người
chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này
trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu,
Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.
nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị
cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa Trên đường về nhà, qua xóm ngụ cư, cái vẻ “cong cớn”
nhà kho. Thị hiện lên là một người đàn bà vô danh – một số không còn. Chỉ còn một người phụ nữ xấu hổ, ngượng nghịu
không tròn trĩnh – không tên, không tuổi, không quê quán, và cũng đầy nữ tính. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi
không nghề nghiệp, không tài sản.Không họ tên, không rõ xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
quê quán, tuổi tác, gia đình. Cái đói đã cướp đi tất cả. Người mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn”. Khi nhận thấy cái nhìn tò
vợ nhặt xuất hiện trong một tình huống éo le nhưng cũng thật mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân
bi hài. Trớ trêu thay khi cái đói khiến cho bản thân con người nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ
bị dồn ép đến bước đường cùng, phải chấp nhận theo không nữ đã mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn
về làm vợ của một người đàn ông dù mới chỉ gặp hai lần. của mình, thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi
Theo không một người đàn ông vừa nghèo, vừa xấu, không thị vẫn còn lòng tự trọng. Bây giờ, Thị là vợ của Tràng, Thị
có chút hứa hẹn nào về tương lai. bảo với Tràng: “Hoang nó vừa chứ” khi anh cu Tràng vui vẻ
khoe vừa mua hai hào dầu, câu nói cụt lủn nhưng lại rất đủ
Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò...”, Thị đầy, đủ đầy tình cảm, đủ đầy trách nhiệm, đủ đầy cảm xúc,
bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói một câu nói thực sự đủ đầy của người phụ nữ mà bây giờ
với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị Tràng gọi là vợ.
“liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần
sau, Thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Thị xuất hiện với Bước chân về nhà chồng, nhìn thấy gia cảnh gieo neo trước
bộ dạng cứ gây ám ảnh mãi trong tâm trí người đọc: “tay vân mắt, thị nén một tiếng thở dài, thất vọng. Tiếng thở dài – chi
vê tà áo đã rách bợt”, thân hình tiều tụy, khổ sở “thị rách tiết thật tinh tế mà Kim Lân đã lựa chọn để đưa vào trong tác
quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn phẩm của mình, để thể hiện sự nhạy cảm, sự tinh tế trong
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Dưới chân từng thái độ cử chỉ của nhân vật Thị. Thị không muốn Tràng
Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là biết được sự thất vọng của mình, thị hiểu rằng đối với một
“điêu”, "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy người đàn ông “lòng tự trọng về gia cảnh” rất quan trọng.
Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng Chính vì vậy, dẫu có thất vọng bao nhiêu, người phụ ấy cũng
hoáy” của Thị tức thì sáng lên. Dường như cái đói đã làm thị nén hết để lại trong lòng.
trở nên chao chát, đanh đá, liều lĩnh, đánh mất lòng tự trọng,
Vào đến trong nhà, thị đã được trả lại tất cả những gì là Trong bữa cơm ngày đói, được mẹ chồng đãi món “chè
khiêm nhường, ý tứ, e dè của một nàng dâu nông thôn: chỉ khoán” “ngon đáo để”. Thị cũng nén cảm xúc của mình lại dù
dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết ngượng nghịu, món “chè khoán” thực chất là món cháo cám rất đắng, chát,
“tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của Thị khi mới về nhà khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng.
chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi nửa Thị bây giờ, đã là một người vợ, một cô con dâu đảm đang,
vời. Đó cũng chính là tâm thế của Thị lúc bấy giờ, một tư thế đúng mực, có một gia đình hạnh phúc, yên bình. Thị hướng
đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,... nỗi tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là
buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.
người vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn
nén tất cả nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi
được, vì thất vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên trong tâm trí của Tràng. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ
tâm Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.
trạng của người đàn bà lúc này đang rối bời đến bội phần.
Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần Không tốn quá nhiều giấy mực, chỉ bằng những chi tiết ngắn
thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng thương: gọn nhưng cũng thật đắt giá, Kim Lân đã xây dựng thành
“cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Nghe bà cụ Tứ công nhân vật người vợ nhặt. Đó là hình ảnh của một người
nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội nghiệp thế nhưng trong tâm
Thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, sức sống tiềm tàng
một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở bên bờ vực
không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thẳm. Nhân vật này cũng là một trong những nhân vật biểu
thương bao! tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam.
Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái Thị đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề
“liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no
lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san
chồng: “... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách
trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với
cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”... Cũng như bà cụ
vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư
dần, Thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn
thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người
phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng
nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim
Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự
đổi đời của vợ chồng Tràng.

Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Sáng hôm sau,
nàng dâu mới rất biết ý tứ. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét
tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh
phúc. Thị đã thay đổi hoàn toàn qua điểm nhìn của Tràng:
“Tràng nom thị hôm nay khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu đúng mực...” Tiếng chổi quét sân của Thị "kêu sàn
sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng
Thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm
thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”,
Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân
lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc
cho mẹ con Tràng.
7. Nhân vật bà cụ Tứ: - Sáng hôm sau, khi mới ngủ dậy, hạnh phúc của con làm bà
a. Lai lịch, ngoại hình: vui hơn, hi vọng hơn, bà “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
Bà cụ Tứ hiện lên qua ngòi bút miêu tả chân thực của nhà văn thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà
Kim Lân. Đầu tiên là tiếng ho húng hắng, dáng người lọng xăm xăm quét dọn, ra sức thu xếp căn nhà cho quang quẻ với
khọng, miệng lẩm bẩm, đôi mắt nhấp nháy. Hình ảnh ấy gợi hi vọng cuộc đời có thể khấm khá hơn.
lên chân dung một người mẹ nông dân già yếu, nghèo khổ - Trong bữa ăn ngày đói, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung
nhưng thuần hậu và chất phác. sướng về sau này. Bà bàn với con chuyện nuôi gà rồi ngoảnh
b. Diễn biến tâm trạng: lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Chính bà lão gần đất xa trời
- Ban đầu khi trở về nhà, bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một đang tìm cách nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng cho các
người phụ nữ lạ mặt xuất hiện trong nhà mình: “Quái lạ, sao con.
lại có người đàn bà nào trong đó nhỉ? Người đàn bà nào lại - Nhưng niềm vui của bà cụ thật tội nghiệp khi miếng cháo
đứng ngay đầugiường thằng con mình thế kia? Sao lại chào cám trở nên đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Lúc này cái đen
mình bằng u? Là thế nào nhỉ?...” Trước sự bất ngờ, trong tối của hiện tại, cái mờ mịt của tương lai trở nên rõ rệt hơn
lòng người mẹ già đang ngổnngang những suy nghĩ, thắc bao giờ hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui cũng tan tành chỉ
mắc, băn khoăn. Bà lão không tin vàocảm giác của mình:“Bà trong chốc lát.
lão hấp háy cặp mắt đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt - Sau vị cháo cám đắng chát ấy còn là âm thanh dồn dập của
mình nhoèn ra thì phải”. Nhưng thực sự thì mắt bà không tiếng trống thúc thuế từ đình làng dội về, tiếng của đàn quạ
nhoèn, bà cũng không già cả điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ bay vù lên bên ngoài bãi chợ. Chỉ còn lại những tín hiệu của
ban đầu. Bà chỉ chưa bao giờ hình dung đến việc có ngày bà cái đói và cái chết ngày càng dữ dội, kéo dài. Lúc này, lời nói
lại được đón con dâu trong tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp thế của bà cụ Tứ như bật ra từ một tiếng thở dài hay một tiếng
này. rên: “Đằng thì nó bắt giồng đay, ....để các con không biết là
- Đến khi đã hiểu ra mọi chuyện, trong lòng bà chợt trào lên mình lo, mình buồn”.
biết bao nỗi niềm, là sự tủi hờn, là cảm xúc vừa mừng, vừa lo.
Bà lão cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo ấy vừa hiểu ra Khái quát
biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa xót xa, xót xa cho số Tình cảm của bà cụ Tứ dành cho những đứa con của mình là
kiếp của con mình, xót xa cho cô con dâu ngày đầu về nhà tình mẫu tử sâu nặng, thể hiện đạo lý tốt đẹp của con người
chồng. Nhìn người đàn bà kia, bà nghĩ về cuộc đời bất hạnh Việt Nam, sự cưu mang, che chở, sống nhân ái với nhau. Đây
của mình, giây phút ấy dường như là giây phút bà cảm thấy cũng là một nhân vật điển hình trong tuyến nhân vật của Kim
thật đỗi xót xa. Lân, mặc dù sống trong khổ đau và bất hạnh, nhưng vẫn luôn
- Hạnh phúc của con trai, khiến cho gương mặt của người mẹ hướng mình về ánh sáng, về sự lạc quan và tin tưởng vào
già khổ hạnh cũng rạng rỡ hẳn lên. Thế nhưng, sau sự hạnh hạnh phúc trong cuộc đời nhất định sẽ tới. Nhân vật bà cụ Tứ
phúc là là nỗi buồn tủi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là cũng là một trong những nhân vật điển hình, tiêu biểu cho
lúc nhà “ăn nên làm nổi” thôi thì bổn phận bà làm mẹ đã hình ảnh của người mẹ Việt Nam, thương yêu con hết mực,
chẳng lo gì được cho con... Bã nghĩ: “Người ta có gặp bước sẵn sàng hy sinh tất cả vì con của mình.
khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình mà con mình
cũng mới lấy được vợ”. Biết bao nhiêu suy nghĩ, đã tự an ủi
và trấn an mình nhưng biết bao âu lo trong lòng người mẹ già
vẫn cứ canh cánh. Những trăn trở ấy có căn nguyên bắt đầu từ
tình thương của người mẹ dành cho con của mình: “Biết
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?”
- Nhưng rồi, sau tất cả, tấm lòng nhân hậu của người mẹ già
vẫn luôn rộng mở cho những đứa con của mình. “Ừ thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng
lòng”. Lời nói giản dị, chân chất của một người mẹ hiền cũng
là minh chứng cho sự bằng lòng của bà dành cho hôn sự của
con. Bà nhìn cô con dâu, bằng tất cả sự xót thương chứ không
hề coi thường. Bà nghĩ đến việc phải có dăm ba mâm cho
phải lễ. Trân trọng lễ nghĩa, cũng là sự trân trọng nàng dâu
mới bằng tất cả sự khoan dung của một người mẹ nghèo.
Phân tích chi tiết: vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó
là sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, có lẽ vẻ đẹp của “sức sống đơn sơ như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng
vừa đắng cay vừa đớn đau nhưng lại lóe lên những tia sáng đạo không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng
đức và danh dự” mà Kim Lân để cho người đọc cảm động nhất “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu
chính là hình tượng nhân vật bà cụ Tứ – một người mẹ nông dân ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa cũng không giận dữ lại càng
chịu nhiều đắng cay thiệt thòi trong cuộc sống nhưng lại tiêu không vui mừng mà lòng
biểu cho vẻ đẹp tâm hồn Việt với tấm lòng nhân ái, bao dung. bà càng trở nên trăm mối tơ vò. Bà vừa hờn tủi, xót xa cho mình
Trong thời khắc khủng khiếp của nạn đói mà nói như thi sĩ Bàng lại vừa thương con thắt lòng.
Bá Lân: “Trên thân mình còn dính một chút da /Dù chưa chết đã
bốc mùi tử khí”. Gia cảnh bà cụ Tứ cũng chẳng khá gì, hai mẹ Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Trong lòng bà
con chỉ sống dựa vào đồng phu xe ít ỏi của Tràng; cuộc sống chợt trào lên biết bao nỗi niềm, là sự tủi hờn, là cảm xúc vừa
đang ngấp nghé bên bờ vực của cái chết. Việc con trai bà lấy vợ mừng, vừa lo. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi đầu” mang đến cho
quả thật là khó tin, điều này gây nên sự xáo trộn rất lớn trong người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó
tâm trí người mẹ. Miêu tả quá trình thay đổi tâm trạng của người vừa uất nghẹn, vừa xót xa, vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm
mẹ ngòi bút Kim Lân đã làm cho người đọc xúc động mãnh liệt. ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy mình
Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện qua ngòi bút miêu tả chân thực chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. Bởi cuộc đời của một
của Kim Lân với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng người mẹ không chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có
lực kiệt. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều trách nhiệm gây dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn
hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng” của bà bà chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả
đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa, chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
chồng và con gái đều đã chết. Bà ở vậy nuôi con, gia cảnh thì sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì ...”. Nhà văn đã
nghèo khổ. Cái được gọi là nhà thực chất lại là túp lều rách nát bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là
nằm bên “mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Tràng – những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà ở đó sự tủi thân tủi
anh con trai của bà không được như con nhà người. Tràng vụng phận dâng trào hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để nhân vật của
về, gàn dở lại thêm xấu xí thô kệch. mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai
dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt cơ cực của cuộc đời và
Ban đầu khi trở về nhà, bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một cũng là những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc
người phụ nữ lạ mặt xuất hiện trong nhà mình. Chính sự xuất quá nhiều.
hiện của người đàn bà ấy làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao
tâm trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo. Trước hết Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương.
là tâm lý ngạc nhiên. Xót thương vì “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên vì Bà thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới
người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì cũng phải cưới một cách
“đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”. “Phấp phỏng” có hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa
nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón là bà khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của
đợi mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra rất gần gũi và
“chợn” thì anh ta đi thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”,
chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của mà “lòng đầy xót thương”. Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất nhiều
bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong. mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ
Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và “mang tội theo trai” (Kim Lân). Biết bao nhiêu suy nghĩ, đã tự
anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người an ủi và trấn an mình nhưng biết bao âu lo trong lòng người mẹ
đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi già vẫn cứ canh cánh. Những trăn trở ấy có căn nguyên bắt đầu
vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà nào đứng từ tình thương của người mẹ dành cho con của mình: “Biết
trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng U? không?”
Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc
nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho
xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng thực sự mà cuộc tình duyên ấy: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời với nhau u cũng mừng lòng”. Ca dao Việt Nam có câu:
này, bà là người giàu kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên,
muốn thành thất thành gia thì không người mẹ nào lại không “Trồng cây những muốn cây xanh
nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta Nuôi con những muốn con thành thất gia”
thấy nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính
Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm
“mừng”! Phải chăng ám ảnh về nạn đói đã lấn át đi niềm vui của ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
mẹ? Đó cũng là câu nói chân thành chứa đựng những tình cảm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả
sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia đình đã thiêng liêng nhà đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có
lại càng thiêng liêng hơn. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của sơn hào hải vị, không của ngon vật lạ mà chỉ có những gì thê
tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo...
dành cho người con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm Nhưng sự thiếu thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưngnhà mình nghèo, cũng thần bởi cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên mới, một
chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng
mày lấy nhau lúc này u thương quá...”. Lời nói giản dị, chân Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ
chất của một người mẹ hiền cũng là minh chứng cho sự bằng đã thêm một lần truyền động lực sống cho các con. Bao trùm
lòng của bà dành cho hôn sự của con. Bà nhìn cô con dâu, bằng không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu
tất cả sự xót thương chứ không hề coi thường. Tấm lòng nhân ái từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà
bao la và cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao! vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên
những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái
Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn
nỗi lo lắng. Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết cũng chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này
chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn chứng tỏ người mẹ ấy rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai
còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông dân
không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện
cô con gái út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà. Bằng đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa ăn như một luồng sinh khí
tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn không cho phép mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền ta mua
nhân vật của mình tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần lấy đôi gà... Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn
cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng gà cho mà xem...”. Từ “đôi gà”, thành “đàn gà” là sự lạc quan,
son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Tục niềm tin mãnh liệt của người mẹ vào tương lai.Chính bà lão gần
ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân đất xa trời đang tìm cách nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng
khi viết truyện ngắn này đã nung nấu: “Khi viết về con người cho các con. Bà tin vào sự sinh sôi sẽ lấn át sự hủy diệt, sự sống
năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng
chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ son này, rồi họ cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để
nghĩ đến cái sống. Đã sống thì phải sống cho ra cuộc sống con sinh con đàn cháu đống cho giống nòi Việt Nam mãi mãi xanh
người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương
vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba lai, tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và
đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào cuộc đời của Tràng
của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính và người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ vượt qua “ranh
triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên tia hi vọng và làm giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên
ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí cái nền u ám của nạn đói.
nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua
nạn đói. Nhưng niềm vui của bà cụ thật tội nghiệp khi miếng cháo cám
trở nên đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Lúc này cái đen tối của
Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi hiện tại, cái mờ mịt của tương lai trở nên rõ rệt hơn bao giờ
vợ chồng son. Sáng hôm sau, khi mới ngủ dậy, hạnh phúc của hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui cũng tan tành chỉ trong chốc
con làm bà vui hơn, hi vọng hơn. Bà dậy sớm cùng con dâu lát. Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để
thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui đãi nàng dâu mới đã khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt
hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào bởi “xóm ta
Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày khối nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất
thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó “Bà mẹ xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm tự hào ấy sao nghe chân
Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu
beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét chuyện làm ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa
tước nhà cửa”. của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim Lân khẳng
định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ
nghĩ đến con đường sống”. Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa
sáng ở đây.
Sau vị cháo cám đắng chát ấy còn là âm thanh dồn dập của tiếng + Con người trong cảnh đói: Giữa bối cảnh đó, một cô gái rách
trống thúc thuế từ đình làng dội về, tiếng của đàn quạ bay vù lên quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, mặt lưỡi cày, chỉ qua mấy câu đùa
bên ngoài bãi chợ. Chỉ còn lại những tín hiệu của cái đói và cái cợt, đã sẵn sàng sà xuống ăn một chập bốn đĩa bánh đúc, rồi sẵn
chết ngày càng dữ dội, kéo dài. Lúc này, lời nói của bà cụ Tứ sàng theo một người đàn ông xa lạ, hòng thoát khỏi cảnh chết
như bật ra từ một tiếng thở dài hay một tiếng rên: “Đằng thì nó đói. Anh chàng ngụ cư nghèo khổ thì “nhặt” được vợ - đặc biệt
bắt giồng đay, ....để các con không biết là mình lo, mình là bữa cơm ngày đói - đã phản ánh số phận thê thảm của con
buồn.” người.
Tình cảm của bà cụ Tứ dành cho những đứa con của mình là - Sự đau khổ, căm hờn và phản kháng của nhân dân.
tình mẫu tử sâu nặng, thể hiện đạo lý tốt đẹp của con người Việt + Hình ảnh thê lương của nạn đói 1945 đã tố cáo tội ác tày trời
Nam, sự cưu mang, che chở, sống nhân ái với nhau. Đây cũng là của bọn phát xít Nhật. Chúng đã đẩy nhân dân ta vào vòng cùng
một nhân vật điển hình trong tuyến nhân vật của Kim Lân, mặc khổ, chết chóc.
dù sống trong khổ đau và bất hạnh, nhưng vẫn luôn hướng mình + Tâm trạng của quần chúng trước cơn bão tố của lịch sử được
về ánh sáng, về sự lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc trong bộc lộ. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu: “Đằng thì nó bắt
cuộc đời nhất định sẽ tới. Nhân vật bà cụ Tứ cũng là một trong giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.
những nhân vật điển hình, tiêu biểu cho hình ảnh của người mẹ + Trong đoạn cuối truyện, khi người con dâu nghe tiếng trống
Việt Nam, thương yêu con hết mực, sẵn sàng hy sinh tất cả vì thúc thuế thì bảo: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
con của mình. không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc
của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”.
8. Chi tiết kết thúc truyện: Giá trị nhân đạo:
Truyện ngắn kết thúc với hình ảnh đám người đói và là cờ đỏ - Tính nhân bản của truyện: Bản thân bức tranh hiện thực trên đã
hiện lên trong tâm trí của Tràng sau lời gợi ý của nhân vật người có giá trị nhân đạo. Con người luôn khao khát sống, khao khát
vợ nhặt. Lòng Tràng lúc bấy giờ có chút tiếc nuối vẩn vơ, khó tình thương yêu, hạnh phúc và trong bất kì tình huống nào cũng
hiểu. tin vào cuộc sống, hi vọng vào tương lai. Tính nhân bản này
Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt”: được thể hiện qua diễn biến tâm lí và tình cảm của các nhân vật
- Ý nghĩa nội dung: trong truyện.
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí - Tình cảm thương yêu, tấm lòng cưu mang đùm bọc và niềm tin
Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những ở tương lai của những người khốn khổ, tiếng nói đồng cảm, trân
tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trọng của nhà văn:
trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ. + Người con dâu: từ chỗ bất chấp sĩ diện, ăn nói chỏng lỏn...,
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim dần dần trở thành con người đúng mực với chồng và mẹ chồng.
Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết + Tràng “nhặt” được vợ từ chỗ liều, dần dần anh có những suy
của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi nghĩ nghiêm túc đầy trách nhiệm. Đây là sự biến đổi tâm lí một
sáng. anh chàng thô vụng, chuyên làm trò cười cho trẻ con đến chỗ trở
- Ý nghĩa nghệ thuật: thành một con người thực sự nên người.
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của + Đặc biệt là diễn biến tâm trạng của một người mẹ nghèo rất
hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì bao dung và giàu đức hi sinh: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện. thương quá” và biểu hiện sự “mừng lòng”, nói toàn chuyện vui
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích trong “bữa cơm” ngày đói. Ngay cả niềm tin mang tính chất kinh
cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành nghiệm chủ nghĩa của bà cũng khiến người đọc phải cảm động.
khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán. Đó là niềm tin vào triết lí dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba
đời”, “sông có khúc người có lúc”.
9. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm: + Tràng thì nghĩ đến xe thóc của Liên đoàn, trong óc... vẫn
 Giá trị hiện thực: thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Tác giả đã khắc
- Nạn đói khủng khiếp năm 1945 được tái hiện cụ thể. họa trạng thái tâm lí cá nhân bị dồn ép vào sự thay đổi số phận
+ Cảnh đói: Cái đói đã làm cho xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ của dân tộc.
đây càng xơ xác, thê lương. Cái đói đã làm cho bọn trẻ con cứ - Vẻ đẹp của từng nhân vật được toát lên qua những trang viết
ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích. Cái đói của Kim Lân. Vượt qua tất cả những khó khăn, những tủi hờn,
càng lan rộng hoành hành, khiến nhiều người xanh xám như khổ cực, những người lao động trong xã hội cũ vẫn nương tựa
những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Cảnh tang vào nhau để mà sống, mà hy vọng. “Vợ nhặt” cũng chính là
tóc bao trùm lên xóm ngụ cư: người chết tiếng nói đồng cảm, trân trọng của nhà văn Kim Lân với những
như ngả rạ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi người nông dân trước cách mạng.
gây của xác người.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:

1. Mở bài: 2. Kết bài:

MB1: KB1:
Ai đó đã từng nói rằng: “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng Truyện ngắn “Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thực sự đã để
tối sẽ ngả lại sau lưng” bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải: lại rất nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc bởi việc xây dựng
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ được 1 tình huống truyện hợp lý, chan chứa tình đời, tình
những gian khổ, hy sinh. Ở đời, không có con đường cùng, người. Nhắc nhớ tới “Vợ nhặt" xin được mạn phép sử dụng
chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh những dòng văn của nhà văn Nguyễn Khải để thay lời kết cho
để vượt qua những ranh giới đó”. Đọc “Vợ nhặt” của nhà bài viết này. Có lẽ, đây cũng chính là những gì mà bản thân
văn Kim Lân , ta thêm một lần nữa hiểu sâu sắc hơn về chân Kim Lân thật sự muốn trải lòng: “Trên đời không có con
lý này. đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có
đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới đó”.
MB2:
Trong nền văn học Việt Nam, Kim Lân được đánh giá là nhà KB2:
văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với
và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” như Kim
Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất Lân đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng về nhân
đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” vật anh Cu Tràng. Đi bao biết bao những điều bất hạnh, đói
là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện khổ, khó khăn ở trên đời, cuối cùng nhân vật này cũng đã neo
thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người đậu tới bến bờ của hạnh phúc. Có điều gì quý giá và đáng trân
nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành quý hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm
công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai trong những trang sách Kim Lân.
đoạn đó.
KB3:
MB3: Những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam còn giữ lại,
Còn nhớ sinh thời tác giả của Bỉ vỏ - Nhà văn Nguyên Hồng tình yêu, tình người, tình đời là thứ ánh sáng đẹp đẽ vô cùng
từng “phán” về đồng nghiệp của mình rằng: “Kim Lân là nhà giúp cho người vợ nhặt trở nên lấp lánh đến vậy. Dẫu có chút
văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu kiệm lời, dẫu có chút đối đãi không tốt, nhưng cuối cùng,
nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn”. Quả thật không chê Kim Lân vẫn hoàn thành sứ mệnh đưa nhân vật của mình cập
vào đâu được lời “truyền thần” ấy của nhà văn Nguyên bến hạnh phúc. Ngày mai của người đàn bà này sẽ ra sao, tôi
Hồng! Sự nghiệp và những quan niệm về văn chương của không phân vân nhiều, bởi tôi biết rằng, phía trước của những
Kim Lân qua những tác phẩm của ông đã để lại rất nhiều con người nghèo khổ này chắc chắn sẽ là ánh sáng, ánh sáng
những ấn tượng đẹp trong lòng độc giả, và càng chứng minh của niềm tin, của hạnh phúc.
nhận định của nhà văn Nguyên Hồng không thể bỏ đi từ nào
được. Đọc “Vợ nhặt” tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng KB4:
tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và thấm nhuần hơn điều Hình ảnh bà Cụ Tứ là một trong những hình tượng để lại
này. nhiều cảm xúc trong lòng đọc giả. Đi qua biết bao nhiêu khổ
sở, bất hạnh trong cuộc đời. Người mẹ nghèo ấy cuối cùng
vẫn là người nói những câu chuyện vui, tin tưởng vào tương
lai của các con và chu đáo cho những tháng ngày còn vất vả.
Trong đôi mắt của người mẹ nghèo, biết bao nhiêu những
tình cảm yêu thương con còn ở lại và bóng tối tan đi. Xin
được mượn một lời thơ của nhà thơ Chế Lan Viên thay lời kết
cho bài viết này, cũng là những tâm tư đọc giả như tôi còn
bâng khuâng mãi:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ


Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con"
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Văn bản: ĐẤT NƯỚC - Được sáng tác năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
-Nguyễn Khoa Điềm- bước vào giai đoạn ác liệt. Phong trào đấu tranh sôi nổi, tiêu
biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh
Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa , Nguyễn
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng Khoa Điềm đã sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng”
Hãy ngã vào tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng như đã góp thêm một tiếng thơ hay về Đất Nước để lay động
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi . và thức tỉnh ý thức, trách nhiệm của mỗi người.
Một thời đạn bom, một thời máu lửa, một thời mất mát hy - Cách ghi nhớ :
sinh, nơi ấy Trường ca “Mặt đường khát vọng” đã được vang  1971, kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt.
lên một cách hào sảng và đầy tự hào. “Đất Nước của nhân  Chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa
dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” ... Nguyễn Khoa Điềm 2. Trường ca Mặt đường khát vọng:
như đang kéo người đọc xích lại gần hơn với tâm tư tình cảm
của mình dành cho non sông, Tổ quốc. Chương I Lời chào
Chương II Báo động
Chương III Giặc Mĩ
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Nguyễn Khoa Điềm Chương IV Tuổi trẻ không yên
Chương V Đất Nước
- Nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Chương VI Áo trắng mặt đường
Mỹ Chương VII Xuống đường
Từ - Thể loại sở trường: Trường ca Chương VIII Khoảng lớn âm vang
khóa - Đề tài: Đất nước và con người Việt Nam Chương IX Báo bão
- Phong cách thơ: tài hoa, uyên bác, truyền thống,
trang trọng, trữ tình, chất chính luận, triết luận

Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện
tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thấm nhuần tư tưởng từ
gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và còn sớm tham
gia cách mạng nên đề tài mà ông thường đưa và những tác
phẩm của mình chính là về đất nước và con người Việt
Nam. Những trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sức hấp
dẫn bởi sự tài hoa, uyên bác, vừa đĩnh đạc truyền thống
mà vẫn hiện đại, trang trọng, trữ tình, luôn có sự kết hợp
hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng giữa
chất chính luận, triết luận và những cảm xúc nồng nàn
mãnh liệt của con tim. Gần 10 năm kháng chiến chống Mỹ
đã có rất nhiều nhà thơ ghi được dấu ấn trong nền văn học
Việt Nam và để rồi mai sau có người từng nhận định: “Bên
cạnh một Phạm Tiến Duật sôi nổi, trẻ trung phong trần với
những lối thơ lấm bụi Trường Sơn đầy chất phong sương.
Một Nguyễn Duy mộc mạc chân chất mà đằm thắm ngọt ngào
với những âm điệu lục bát ca dao vọng về... Là một Nguyễn
Khoa Điềm tài hoa uyên bác, truyền thống hiện đại không ồn
ào tinh nghịch, lãng đãng bất chợt. Thơ Nguyễn Khoa Điềm
chín trong cả cảm xúc và suy tư. Vốn văn hóa của người trí
thức, sự trải nghiệm của người lính và mẫn cảm của một nhà
thơ đã làm nên một Nguyễn Khoa Điềm đĩnh đạc nghiêm cẩn
trang trọng mà rất đỗi tinh tế trữ tình”.

3. Trích đoạn “ĐẤT NƯỚC”:


II. THÔNG TIN TÁC PHẨM:
Để hiểu hơn về trích đoạn “Đất Nước” các em có thể tham liêng vừa là một hiện hữu, cụ thể, rõ ràng, thân thuộc. Tôi cố
khảo tài liệu dưới đây nhé! gắng thể hiện một hình ảnh Đất nước giản dị gần gũi nhất. Đó là
cách để đi vào lòng người, mà không lặp lại người khác, vì trước
Đầu năm 1971, phong trào học sinh, sinh viên trong các đô thị tôi cũng như bấy giờ, có rất nhiều người đã viết rất hay về Đất
miền nam đang rất sôi nổi. Tinh thần yêu nước cháy bùng ở nước. Tôi nghĩ mỗi cá nhân sinh ra, ý niệm về Đất nước đã được
khắp nơi. Tôi công tác trong Thành ủy Huế, ở trên rừng, phụ thấm đẫm qua môi trường gia đình, qua thế giới tinh thần và cả
trách phong trào học sinh, sinh viên Huế. Đột nhiên có giấy mời vật chất mà người đó sống.
của Cơ quan Văn nghệ Khu Trị - Thiên đi dự trại sáng tác. Tôi,
anh Nguyễn Quang Hà, anh Nguyễn Đắc Xuân... đi mất ba ngày Đứa trẻ cảm nhận Đất nước qua lời ru của mẹ, câu chuyện kể
lên phía tây Huế, vượt A Lưới sang đất Lào dự trại. Tôi không của bà:
chuẩn bị gì trước, nhưng trại mở những một tháng, không lẽ lại “Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
không viết gì. Tôi quyết định phải viết một cái gì dài hơi. Lúc
đó, nhiều nhà thơ đã viết trường ca, ở miền nam trường ca Bài Đất nước gắn bó trong những vật thân thuộc "cái kèo cái cột
ca chim Chơ Rao của anh Thu Bồn đang rất nổi tiếng và được thành tên", trong hạt gạo ăn hằng ngày "một nắng hai sương xay,
thanh niên đô thị thuộc rất nhiều. Tôi lựa chọn viết trường ca, giã, giần, sàng...". Ông bà, cha mẹ, những thế hệ đi trước sẽ
cấu tứ theo từng mảng, như thế vừa dễ triển khai cảm xúc, vừa truyền ý niệm về Đất nước cho con trẻ, rồi đứa trẻ lớn lên, trong
dễ sử dụng chất liệu. Thời ấy, là sinh viên từ miền bắc vào, tôi những tình cảm ban đầu về gia đình, chòm xóm, về cánh đồng,
rất thích nhạc giao hưởng, đặc biệt là kết cấu giao hưởng, nó lũy tre... thì tình yêu Đất nước cũng đã bắt đầu ở đó rồi. Nghĩa là
nhiều giọng điệu, có đoạn đằm thắm nhẹ nhàng, có đoạn suy tư, ý niệm về Đất Nước sẽ cùng hình thành với sự hình thành của
có đoạn cao trào gay gắt, sôi nổi. Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản tâm hồn con người. Với năm tháng, khi tâm hồn ta lớn lên, ý
giao hưởng bằng ngôn ngữ. Thế là tôi bắt tay vào viết. Trong các niệm Đất nước sẽ có thêm những nét nghĩa mới. Thực ra "Đất
chương, chương cuối cùng có tựa đề Mùa thu tựu trường là tôi nước" là một từ được ghép từ hai yếu tố chỉ vật chất là đất và
thích nhất. Đó là chương được viết theo thể thơ năm chữ cái, nước, là hai yếu tố khởi nguyên của thế giới, để tạo thành một
giai điệu êm dịu, hình ảnh đẹp, nói về những người trẻ tuổi sau khái niệm chỉ Giang sơn Tổ quốc. Đất nước gắn bó máu thịt với
khi đấu tranh giành thắng lợi trở lại mái trường. Nhưng khi bản mỗi người, rất cụ thể:
“Đất là nơi anh đến trường
thảo tập hợp lại, nhiều anh em góp ý rằng phần này mềm yếu
Nước là nơi em tắm
quá nên tôi thay bằng chương khác. Về sau chương này bị thất
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
lạc do bom đạn, nên tôi rất tiếc.
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"...”
Ở đâu trên Đất nước cũng gắn với những chuyện kể, những
Mặt đường khát vọng được kết cấu theo từng mảng, mảng này
truyền thuyết, những câu ca đã đi vào thế giới tinh thần của con
khơi gợi, dẫn dắt cho mảng kia, tạo thành một chỉnh thể tác
người. Đất nước, cái hiện hữu đã trở thành giá trị tinh thần mà
phẩm trong một trường cảm xúc nhưng từng mảng lại đi sâu vào
trong đời sống tâm hồn của mỗi con người nó lấp lánh rất nhiều
một vấn đề, một ý tưởng do đó nó cũng có tính trọn vẹn riêng.
ý nghĩa. Truyền thuyết Tiên - Rồng, Âu Cơ - Lạc Long Quân là
Chương V - chương Đất nước là một chương lớn. Tôi viết truyền thuyết về cội nguồn của người Việt. Trong truyền thuyết
chương này trong những ngày mưa triền miên sau Tết. Đó là này cũng như trong lịch sử phát triển về sau, mở mang và đoàn
thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá dữ dội. B52 dội bom liên tục, làm tụ đã làm nên nét đặc trưng của dân tộc Việt, từ thế hệ này sang
cho mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, thế hệ khác:
cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bom nổ, bởi khói bom và “Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
mưa rừng. Có khi viết xong, một trận bom làm cho bản thảo bay
lung tung, lượm lại trang còn trang mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi Mỗi người dân Việt, bằng máu xương, mồ hôi công sức của
viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt, giờ mình, đã chiến đấu và lao động để mở mang và hoàn thiện Đất
chỉ việc tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của Nước, để truyền cho con cháu một Đất Nước trọn vẹn. Đất nước
chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn bè đang tranh đấu ở trong thành không phải chỉ ở những gì được thừa hưởng có thể nhìn thấy
phố, nên nhân vật của tôi là anh và em. Đó là lời đằm thắm của được, Đất nước còn ở trong chiều sâu tâm linh được truyền nối,
một người con trai với một người con gái. Chúng tôi, mỗi người xuyên suốt qua nhiều thế hệ:
có một số phận khác nhau, nhưng đều gắn kết trong một số phận “Những ai đã khuất
chung là số phận Đất nước. Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của Gánh vác phần người đi trước để lại...”
những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô Phần tâm linh đó đã kết nối tất cả nhân dân về trong một cội
danh, của nhân dân. Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh nguồn, trong sự thiêng liêng thành kính về một ngày giỗ Tổ.
hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ,
được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên "Khi ta lớn “Em ơi Đất Nước là máu xương mình
lên Đất Nước đã có rồi!". Đất nước vừa là một ý niệm thiêng Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở 1. “... Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp
Làm nên Đất Nước muôn đời” miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức
Đoạn thơ này lấy cảm hứng từ những núi Vọng Phu, những hòn suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí
Trống Mái, những ao đầm ở đồng bằng Bắc Bộ, đến cửa biển tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong
Cửu Long ở Nam Bộ... Những yếu tố vật chất, địa lý thấm đẫm chính tâm hồn họ. ..” - Trần Đình Sử - Đọc văn học văn
một cái nhìn huyền thoại, đầy màu sắc lãng mạn. Nói cách khác
là khoác cho nó một lớp huyền tích, là điều thường gặp trong đời 2. “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn
sống văn hóa dân gian. Chính điều này đã làm cho các giá trị vật học và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay
chất trở nên đẹp đẽ, sinh động, có sức hấp dẫn, quyến rũ đặc thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ.
biệt. Trong chương Đất nước cũng như toàn bộ trường ca Mặt Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”
đường khát vọng, ngôn ngữ ca dao tục ngữ, ngôn ngữ của đời - Nguyễn Quang Thiều
sống dân gian được sử dụng rất nhiều. Tác phẩm được cảm nhận
trong trường cảm xúc, trong những suy tư, ngẫm nghĩ. Ở đoạn 3. “Nói những điều lớn lao một cách nhỏ nhẹ, nói về đất nước
thơ này, đã nhấn mạnh Đất nước chính là thành quả của lao một cách dịu dàng, ngay cả những cuộc hò hẹn lứa đôi trong thơ
động, của chiến đấu, của mồ hôi nước mắt và khát vọng của ông những ngày chiến tranh ấy cũng mang tầm vóc của một dân
nhiều thế hệ nhân dân trong nhiều ngàn năm. Mỗi con người tộc...” - Thúy Nga
sinh ra và lớn lên trong một đất nước, luôn luôn trong tinh thần
họ đã chứa đựng những giá trị của Đất Nước, của dân tộc, mà họ 4. “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại,
đại diện. Là người Việt Nam, chúng ta tự hào về lịch sử bốn của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô
nghìn năm của Đất Nước mình. Đó là một lịch sử với những danh, của bản thân” - Nguyễn Khoa Điềm
chiến công lẫy lừng khai thiên phá địa và chống giặc ngoại xâm.
Nhưng làm nên những chiến công đó lại là "người người lớp 5. “Điều may mắn với tôi là được sống trong những tháng năm
lớp" nhân dân, những người con trai, con gái bình thường: hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình
“Con gái con trai bằng tuổi chúng ta hơn” - Nguyễn Khoa Điềm
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận 6. “Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện
Người con gái trở về nuôi cái cùng con những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và
Từ nhiều triệu năm về trước, trong buổi sơ khai của con người, không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá... Ở Nguyễn
lửa là một cứu tinh, là nhân tố đưa loài người vượt hẳn đến một Khoa Điềm lòng yêu nước là yêu nhân dân, yêu những con
giá trị khác tách xa loài vật. Khi phát hiện ra cây lúa nước, với người đã viết nên lịch sử, đã sản sinh ra văn hóa, đã phát kiến
người Á Đông, lửa và lúa là những thứ tối cần thiết cho sự sống. địa lý mà mở rộng biên cương bảo vệ lãnh thổ”
Bởi vậy gìn giữ ngọn lửa và giống lúa, chính là gìn giữ sự sống - Vũ Quần Phương
còn của cộng đồng. Ngỡ đơn giản, nhưng trong lịch sử nó phản
ánh cuộc chiến đấu sinh tồn giữa con người và thiên nhiên. 7. “Anh không bắt đầu thơ mình từ sách vở, từ phòng văn, mà từ
Nhưng khi "truyền giọng điệu mình cho con tập nói", "Gánh tên hiện thực cuộc chiến đấu của nhân dân, đất nước... Thơ anh vừa
xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" thì đó chính là khát vọng có cái tươi tắn của một tâm hồn trẻ, vừa có cái hào hùng vang
về duy trì bản sắc dân tộc. Cha ông ta với một tinh thần dân tộc dội, cái dịu ngọt của đất Huế, người Huế” - Mai Quốc Liên
cao cả, đã làm được điều đó và truyền lại cho chúng ta truyền
thống văn hóa như hôm nay. 8. “Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện
“Để Đất nước này là Đất nước của Nhân dân đại một giọng trữ tình giàu chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và
Đất nước của Nhân dân,
cá tính, một cây bút gắn kết được một cách tài hoa giữa vốn
Đất nước của ca dao thần thoại
sống, vốn tri thức văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng
Nhân dân làm ra Đất nước. Đất nước thuộc về Nhân dân .”
trước từng trang giấy” - Vũ Văn Sỹ
Từ đời này qua đời khác, không chỉ lao động chiến đấu, nhân
dân còn gìn giữ linh hồn dân tộc như ngọn lửa thắp lên từ hồi
9. “Chương Đất Nước anh sử dụng khá thoải mái các chất liệu
khai quốc vẫn cháy sáng trong mỗi bếp nhà. Linh hồn dân tộc ở
rút từ truyền thuyết, từ tục ngữ, ca dao, các thần tích thắng cảnh
trong nếp sống, trong phong tục tập quán, trong những giá trị
cho đến các phong tục tập quán để tạo ra một chuỗi hình tượng
tinh thần phong phú của văn hóa dân gian. Và như đã nói ở trên,
trùng điệp, để thể hiện một tâm hồn dân tộc” - Vũ Quần Phương
mỗi người Việt sinh ra trong lời ru của mẹ, câu chuyện của bà...
dần dần thấm lấy tinh thần dân tộc. Cứ như thế đời này qua đời
10. “Tập thơ mở ra là băn khoăn về tình cảm dân tộc, khép lại là
khác, nước Việt được trường tồn.
cuộc đấu tranh sâu rộng hòa với sức mạnh của toàn dân tộc
Nguyễn Khoa Điềm chia sẻ về trích đoạn “Đất Nước”
Nhận định về tác giả, tác phẩm: chống xâm lược” - Vũ Quần Phương
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:
- Song hành với vẻ đẹp ấy là hình ảnh cây tre Việt Nam –
biểutrưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân ta: Thật thà,
chất phác, đôn hậu, thủy chung, yêu hòa bình.
+ Liên hệ: Bài thơ “Tre Việt Nam” – Nguyễn Duy.
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
- Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam với phong tục
“bới tóc”. Tạo cho người phụ nữ vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất
1. 9 câu thơ đầu - Lý giải về cội nguồn Đất Nước: riêng.
+ Liên hệ:
- Câu thơ mở đầu viết theo thể câu khẳng định. “Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
+ Cách nói “Đất Nước đã có rồi” thể hiện niềm tự hào mãnh Để chi dài cho rối lòng anh”
liệt về sự trường tồn của Đất Nước. + “Gừng cay muối mặn”: Nhắc nhớ về tấm lòng thủy chung,
+ “Ta”: Là chủ thể trữ tình, người kể chuyện, người đại diện tình nghĩa, sự gắn bó keo sơn.
nhân xưng cho cả thế hệ trẻ. Nói lên được ý thức tìm hiểu cội => Truyền thống quý báu của nhân dân ta.
nguồn của Đất Nước. + Liên hệ:
- Đưa người đọc lạc vào miền cổ tích bằng cụm từ quen thuộc “Tay bưng đĩa muối chén gừng
“Ngày xửa ngày xưa” – thời gian nghệ thuật mang tính chất Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
phiếm chỉ, huyền hồ, huyền thoại. - Cách đặt tên giản dị “Cái kèo, cái cột”: Bắt nguồn từ việc
+ Định vị trong tâm thức người đọc một ý niệm Đất Nước đã đặt tên cho những vật dụng quen thuộc trong đời sống sinh
có từ rất lâu đời . Đó là Đất Nước của nền văn học dân gian hoạt, lấy tên của chính những vật đó để đặt tn cho con cái.
đặc sắc với những câu chuyện cổ tích thần thoại, truyền + Cũng bởi người xưa quan niệm đã tên con càng xấu thì
thuyết. càng dễ nuôi.
- Liên hệ: “Chuyện cổ nước mình” – Lâm Thị Mỹ Dạ. - Nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp - nghề trồng
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi lúa nước.
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa” + Sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương”: gợi lên sự cần
- Đất Nước buổi ban đầu được thể hiện qua một nét sống giản cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó của cha ông ta trong
dị của người mẹ, người bà Việt Nam đó là phong tục ăn trầu. đời sống nông nghiệp.
+ “Miếng trầu”: Là kết tinh của mọi thăng trầm lịch sử. + Liên hệ:
(+) Gợi nhớ về câu chuyện cổ tích “Sự tích Trầu cau” – “Ai ơi bưng bát cơm đầy
câu chuyện cổ xưa nhất. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
(+) Là biểu tượng cho tình yêu, vật chứng cho lứa đôi. - Câu thơ cuối khép lại bằng 1 câu khẳng định với niềm tự
(+) Là biểu tượng tâm linh của người Việt. hào. Sử dụng từ chỉ thời gian “ngày đó”: Nói về thời gian ra
- “Lớn lên”: Chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. đời của Đất Nước, dù không cụ thể nhưng đó là ngày ta có
+ Câu thơ gợi nhắc đến truyền thuyết “Thánh Gióng: Ba tuổi truyền thống, phong tục, văn hóa .
đã biết xông pha trận vàng, vươn vai trở thành chàng trai
Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làm ngà đánh giặc
=> Biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường,
bất khuất.
+ Liên hệ: Bài thơ “Quang vinh Tổ quốc chúng ta” – Tố Hữu
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên, đánh đuổi giặc Ân.
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.”
Phân tích chi tiết: gì thân thương nhất. Những câu thơ tiếp theo tác giả triển
khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra ở câu thơ đầu: “Đất
Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu trích đoạn thơ của mình bằng nước đã có từ rất lâu đời”. Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ
lời hồi đáp cho câu hỏi: “Đất nước có tự bao giờ?”: của mỗi người lớn lên trong những lời ru, những câu chuyện
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” cổ tích của bà, của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ
Hai chữ “Đất Nước” vang lên trong trang thơ đầy thiết tha,
thường hay kể”
trìu mến. Độc giả sẽ phát hiện một điều khác lạ đó là xuyên
suốt trong cả đoạn thơ này từ “Đất Nước” đều được viết hoa. Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của
Chia sẻ về lý do tại sao lại trình bày như vậy, Nguyễn Khoa đất nước. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” đưa chúng ta về một
Điềm lý giải với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình ảnh của cô Tấm dịu
vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn và với hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông bụt với những phép
cách viết này cũng đồngthời bài tỏ sự trân trọng của tác giả màu diệu kỳ giúp đỡ cho những người ở hiền gặp nạn,.. Là
những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng dành cho người Việt, ai mà không biết tới những câu chuyện gắn liền
đất nước. Điệp từ “Đất Nước” vang vọng suốt cả trường ca với tuổi thơ êm đềm đó. Và đất nước có trong những điều xa
như một khúc nhạc thiết tha gợi cảm xúc, đưa ta về một miền xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước khi những câu
không gian nối dài từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Hai từ chuyện này có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi
thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn những câu chuyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần phong
Khoa Điềm mà còn “làm bạn” với rất nhiều thi sĩ khác: phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong đó. Là
“Việt Nam đất nước ta ơi
đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
chuyện, cổ tích, truyền thuyết. Chính những câu chuyện và
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
lời ru thân quen thủa nào là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng
(Nguyễn Đình Thi) tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ
hay: Dạ đã từng rất xúc động khi viết về ý nghĩa của kho tàng
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. truyện cổ:
Nghe dịu nỗi đau của mẹ. “Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Các anh không về mình mẹ lặng im...” Thương người rồi mới thương ta
(Tạ Hữu Yên) Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”
Và đất nước cứ như thế trở thành một danh từ thiêng liêng Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa” Nguyễn Khoa
trong trái tim của bất cứ ai, chỉ cần trái tim còn đập trong Điềm còn xác định buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị
lồng ngực nhỏ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về vấn đề trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đó là
chính luận, thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô “ta” thể phong tục ăn trầu:
hiện nét tâm tình trò chuyện thân mật giữa người con trai với “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
người con gái, giữa “anh” và “em” về đất nước. Người con
trai ở đây – “ta” như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng
nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh yêu. trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có vẻ phi lý nhưng lại cực kỳ
Tuy nhiên nếu mở rộng ý thơ, “ta” ở đây cũng có thể coi là hợp lý xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được
tất cả mọi người, là một cách nói bao hàm đại diện cho dân bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ
tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trừu tượng, lớn lao tích: “Sự tích trầu cau” được xem là câu chuyện xưa nhất
như đất nước nay trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt
thể hiện rất rõ phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu
giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước qua ba nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch
chữ: “đã có rồi” khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách:
sững, hiện hữu trong lòng người đọc. Theo cách lý giải của “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Trải qua thời gian đằng
Nguyễn Khoa Điềm thì “đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh đẵng, miếng trầu trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời
hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế sống tinh thần của người Việt: miếng trầu giao duyên, miếng
hệ, được truyền từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta trầu cưới hỏi,... Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc
lớn lên đất nước đã có rồi!”. Lời khẳng định này thể hiện sự trong thơ ca:
“Những cô hàng xén răng đen
tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn
Cười như mùa thu tỏa nắng”
năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã
(Hoàng Cầm)
có đất và trời cũng như vậy, ta không biết được đất nước hình
thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện xung quan ta với những
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất
nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh nước thông qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với
vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy
thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta: của vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” mặn” . Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Hai chữ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
thơ gợi nhắc bạn đọc tới 2 hình ảnh: cây tre và truyền thuyết Muối và gừng vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn
“Thánh Gióng”. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ của người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm mượn câu ca dao,
đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng để nói về tình
những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng yêu dài lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo
trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như: sơn của vợ và chồng để làm nên một gia đình chan chứa hạnh
“Tre xanh phúc, yêu thương. Đó cũng là một truyền thống rất quý báu
Xanh tự bao giờ? của nhân dân ta.
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh Không chỉ vậy, Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát
Thân gầy guộc, lá mong manh
triển của cuộc sống đời thường. Cội nguồn của đất nước cũng
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: “Cái kèo,
Ở đâu tre cũng xanh tươi
cái cột thành tên”. Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
(Nguyễn Duy) nguồn từ việc đặt tên cho những vật dụng quen thuộc trong
Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh đời sống sinh hoạt hàng ngày, lấy tên của chính những vật
mẽ, kiên cường. Cây tre ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh dụng ấy để gọi tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt đã
Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường quan niệm đặt tên cho con càng xấu thì càng dễ nuôi. Hơn
diệt giặc Ân khỏi bờ cõi Việt: thế, là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của
con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay,
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân” không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông
(Tố Hữu) cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ chọn
Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp- nghề
của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã,
vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong giần, sàng”. Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ
con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực
mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất
Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này, truyền lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:
thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết chảy “Ai ơi bưng bát cơm đầy
trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu
Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thương chịu khó, chăm chỉ lao động của ông cha ta. Để làm ra
thuần phong mỹ tục tốt đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào
bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua câu thơ: trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn
“Tóc mẹ thì bới sau đầu” của những người nông dân tần tảo sớm hôm.
Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ,
Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người một nắng hai sương như thế .
phụ nữ phải bới tóc cho gọn gàng. Lâu dần điều đó trở thành
nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng
Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ định cội nguồn của đất nước
đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc với niềm tự hào mãnh liệt nhất:
chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao: “Đất Nước có từ ngày đó”
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”
(Ca dao)
“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. 2. Định nghĩa về Đất Nước:
Ngày đó không biết chính xác là ngày nào chỉ biết rất rõ một a.Bình diện địa lý:
điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu đời. Từ khi - Đất Nước trước hết là không gian rất thân thuộc, gần gũi với
có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu cuộc sống con người:
của những thuần phong mỹ tục, truyền thống đánh giặc giữ “Đất là nơi anh đến trường
nước và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Nước là nơi em tắm”
Những nét văn hóa đẹp đẽ nhất được Nguyễn Khoa Điềm đưa - Đặc biệt Đất Nước tồn tại trong những không gian riêng tư,
vào thơ mình một cách tự nhiên, chân thật để cho mỗi người thầm kín nhất của tình yêu đôi lứa:
đọc hiểu rằng văn hóa chính là đất nước và chúng ta cần phải “Đất Nước là nơi ta hò hẹn
có trách nhiệm hiểu biết, gìn giữ những giá trị cốt lõi này. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Chín dòng thơ không những thuyết phục bởi tư tưởng chính - Đất Nước là không gian mênh mông của núi rừng biển cả
“Đất là nơi con chim phượng hoàng...con cá ngư ông...”
luận mà còn đi vào lòng người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo.
nhưng không mang dáng vẻ hùng tráng, kì vĩ mà chứa đựng
Trong đoạn thơ, cấu trúc câu “Đất Nước đã có”, “Đất Nước
bao sự thân thương, tình nghĩa.
bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” cho phép
- Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của
hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất
cộng đồng người Việt qua bao thế hệ
nước trong thời gian trường kì. Kết hợp với đó là điệp từ “có”
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau
=> Trong cách nhìn về không gian Đất Nước, Nguyễn Khoa
thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu
Điềm nghiêng nhiều hơn về không gian riêng tư, không gian
vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất
đời thường. Nhà thơ nhìn Đất Nước từ cự ly gần và đã phát
nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã
hiện ra một Đất Nước hết sức thân quan, một Đất Nước dễ
thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản dị, tự nhiên, đậm đà
thương với tất cả mọi người.
màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức
b.Bình diện lịch sử:
mới mẻ - thể loại trường ca.
- Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử, từ
quá khứ đến hiện tại và tương lai.
- Một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ, gắn
liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết
về các Vua Hùng giữ nước, giản dị và gần gũi trong hiện tại
và triển vọng, tươi sáng trong tương lai.
=> Với một cảm nhận như vậy về Đất Nước , tác giả đã nhìn
thấy một phần Đất Nước trong mỗi chúng ta hiện tại. Đất
Nước không tồn tại ở đâu đó xa xôi mà kết tinh, hóa thân
ngay trong cuộc sống mỗi người. Đất Nước trong anh, trong
em, trong mỗi chúng ta.
- Đất Nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi
cảm, là lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tôc, là lời nhắc nhở
về ý thức trách nhiêm của mỗi người đối với Đất Nước: ̣
“Trong anh và em hôm nay
...
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
- “Em ơi em”: giọng thủ thỉ tâm tình nhỏ nhẹ mà thấm thía,
lời tâm sự và cũng là lời tự nhủ, tự căn dặn mình
- “Đất Nước là máu xương của mình”: quan niệm về Đất
Nước gắn bó với cuộc sống nhân dân, kết tinh trong máu thịt
của mỗi người.
- Điệp ngữ “phải biết”: nhấn mạnh lời nhắn nhủ và cũng là tự
nhủ.
- Lời nhắn nhủ cũng như tự nhủ của nhà thơ, hay lớn hơn là
tất cả thế hệ trẻ: ý thức về bổn phận với Đất Nước, mỗi trái
tim phải luôn căng tràn tình yêu thương, mỗi con người phải
biết đoàn kết, gắn bó, hy sinh, dâng hiến để giữ gìn, bảo vệ tổ
quốc. => Sự chân thành từ trái tim tác giả và ý thức sâu sắc
về bổn phận đối với Đất Nước.
Phân tích chi tiết: “Những ai đã khuất
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trữ tình chính luận. Với lối Những ai bây giờ
thơ vừa lãng mạn, vừa suy tư ấy, tác giả khi cảm nhận về bản Yêu nhau và sinh con đẻ cái
chất của đất nước cũng đem đến cho ta nhiều cảm xúc mới. Gánh vác phần người đi trước để lại
“Đất Nước” được chiết tự thành “Đất” và “Nước”. Đất Nước Dặn dò con cháu chuyện mai sau
là đất, là nước, là muôn hình vạn trạng của đời sống nhân dân Hằng năm ăn đâu làm đâu
và rồi lại hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất là tổ quốc, Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
dân tộc. Cứ như thế đất nước hiện ra vừa cụ thể, riêng tư, gần
gũi, vừa lớn lao, cao cả, thiêng liêng: Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch
“Đất là nơi anh đến trường hằng năm. Mọi người tưởng nhớ tới các vị vua đã có công
... dựng nước. Ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở đó mà
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” cao hơn, sâu hơn, nó nhắc nhở chúng ta phải trân trọng, biết
ơn những người đi trước đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu
Địa lý và lịch sử là hai phương diện tất yếu mỗi khi chiêm xương để đem lại thành quả tốt đẹp mà chúng ta đang
nghiệm về đất nước. Bởi: được hưởng thụ hôm nay. Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm
“Đất nước bốn nghìn năm người. Chính sự kế thừa và
Vất vả và gian lao”, phát huy truyền thống dân tộc của các thế hệ hôm nay đã tạo
Cũng là bởi: nên sức sống muôn đời của
“Việt Nam đất nước ta ơi non sông Việt Nam. Đúng như câu ca dao xưa có nói:
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”. “Dù ai đi ngược về xuôi
Viết sao cho thỏa, nói sao cho vừa, cho đủ về vẻ đẹp địa lý và Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
giá trị lịch sử lâu bền của tổ quốc Việt Nam ta. Nhưng qua
những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm, người đọc lại có một Tiếp tục với dòng chảy của cảm xúc, Nguyễn Khoa Điềm có
hình dung mới mẻ, thú vị nhưng vẫn đủ đầy về quê hương. viết trong những áng thơ của mình:
Về không gian địa lý, “Đất là nơi anh đến trường”, “Nước “Trong anh và em hôm nay
là nơi em tắm” . Đặc biệt đất nước tồn tại ngay cả trong Đều có một phần Đất Nước
những không gian riêng tư, thầm kín nhất của tình yêu đôi Khi hai đứa cầm tay
lứa: “Đất Nước là nơi ta hò hẹn.” Từ đây, không gian làng Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
quê thanh bình mộc mạc được gợi ra với cây đa, giếng nước, Khi chúng ta cầm tay mọi người
mái đình, lũy tre xanh rì rào trong gió, hàng cau thưa in dấu Đất nước vẹn tròn, to lớn”
hương quê nhà... Đất nước là cung bậc của tình yêu. Đất nước
mang màu của nỗi nhớ. Đất nước đã bao giờ gần gũi và riêng Tác giả đã có những cảm nhận rất sâu sắc về đất nước. Đất
tư như thế? nước không ở đâu xa mà hiện diện trong mỗi chúng ta. Điệp
Lời thơ lại nhắc nhớ về những điệu ca dao ngọt ngào: ngữ “cầm tay” được nhắc lại hai lần, thể hiện một tình cảm
“Khăn thương nhớ ai, đẹp: khi hai đứa “cầm tay” là khi hai đứa hiểu nhau, yêu
Khăn rơi xuống đất. thương nhau và Đất Nước cũng như đẹp thêm, hài hòa thêm
Khăn thương nhớ ai, “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Nói cách khác, tình yêu của
Khăn vắt lên vai. anh và em đã hòa vào tình yêu Tổ quốc.
Khăn thương nhớ ai, “Anh yêu em như anh yêu Đất Nước
Khăn chùi nước mắt.” Vất vả gian lao tươi thắm vô ngần”
Đất nước còn là không gian của núi rừng, biển cả, không (Nguyễn Đình Thi)
mang dáng vẻ hùng tráng mà chứa đựng bao nỗi niềm thân Trong anh, trong em, trong mọi người đều có một phần đất
thương, tình nghĩa. Đất nước cũng là không gian sinh tồn hết nước. Để rồi khi chúng ta cầm tay mọi người thì “Đất Nước
sức đời thường của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ: vẹn tròn to lớn”, một đất nước lớn lao, cao cả, thiêng liêng và
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.” cũng chính đất nước đã gắn kết cả một cuộc đời dân tộc “nơi
dân mình đoàn tụ”. Cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một cự li thật gần để soi tỏ về khiến đất nước gắn kết, tạo mối quan hệ thân thiết giữa cá
đất nước, khiến cho những giá trị trừu tượng, mơ hồ cũng trở nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái riêng
nên dễ hiểu và gần gũi vô cùng. Định nghĩa về bản chất của với cái chung và lớn hơn nữa là cả các thế hệ với nhau.Như
đất nước, ta thấy trong ý thơ của tác giả ban đầu gắn đất nước vậy đất nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi
với cội nguồn con Rồng cháu Lạc, để rồi truyền trao qua bao cảm mà ẩn sâu trong đó là lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân
thế hệ, đời sau nhớ về đời trước, và khi ngưỡng vọng về xa tộc. Ngoài ra, đó cũng là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm
xưa thì đất nước đã hiện hữu tự thuở nào: của mỗi người đối với đất nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình 3. Chủ thể làm nên Đất Nước:
Phải biết gắn bó và san sẻ a. Bình diện không gian địa lý:
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở - Những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng
Làm nên Đất Nước muôn đời...” núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông
núi quê hương để làm nên một Đất Nước thủy chung, tình
Giọng thơ tha thiết, sâu lắng với tiếng gọi “Em ơi em” như nghĩa.
một hình thức tâm tình của đôi lứa yêu nhau tạo những lời - Đó là những hòn trống mái có được từ sự hóa thân của
thơ bay bổng, thấm thía mà cũng chính là lời tự nhủ, lời tự những cặp vợ chồng yêu nhau để làm nên một Đất Nước
dặn mình. Nguyễn Khoa Điềm đã thơ hóa những vấn đề nồng thắm, nhân tình.
chính trị, khiến cho tính chính luận không hề khô khan, - “gót ngựa Thánh Gióng”, “Chín mươi chín con voi”: hình
không còn mang màu sắc giáo huấn mà là lời tự nhủ, tự dặn ảnh thấm đẫm tinh thần yêu nước và tính cội nguồn.
chân thành xuất phát từ trái tim. Tác giả lại đưa ra những cảm + Những từ “đi qua”, “để lại”, “góp mình” được sử dụng tinh
nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước trong câu thơ: “Đất Nước tế => Cách nhìn bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của
là máu xương của mình”. Có những tượng đài bất tử về đất sông núi, về khí phách, sức mạnh con người Việt Nam.
nước xuất hiện trong thi ca nhưng khi nói đất nước về đời - Núi sông mang hồn người và hóa linh thiêng.
người thì có lẽ chỉ có Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước không ở + Dòng Cửu Long Giang, núi bút non nghiên: dân tộc có
đâu xa, đất nước hóa thân kết tinh, hiện diện trong sự sống, truyền thống hiếu học, truyền thống văn hiến lâu đời.
cuộc đời của mỗi người. Chính vì thế, nghệ thuật điệp cấu Trong thiên nhiên là biểu tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức
trúc “phải biết” đã nhấn mạnh, khắc sâu ý thức về trọng trách và cả đời sống tâm linh con người Việt Nam.
của mỗi người. Tuy nhiên, với lời thơ ngân vang, giọng thơ + Con cóc con gà: những con vật bình thường trong đời
tha thiết, tác giả khiến cho người đọc cảm thấy rằng đây sống sinh hoạt ấy cũng góp cho Đất Nước trở nên thơ
không phải là mệnh lệnh mà chính là tinh thần tự giác một mộng, trữ tình. Đâu chỉ có ngọn núi mang tên Bà Đen, Bà
cách cao nhất, mệnh lệnh từ trái tim của “những người biết Điểm, ông Đốc, ông Trang? Trên khắp Đất Nước, những
yêu thương tha thiết” nhưng cũng rực lửa căm thù. Hàng loạt con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời
những động từ “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” xuất hiện dồn những cái tên bất tử.
dập ở mức độ tăng tiến lại càng khơi dậy khát vọng, lí tưởng + Động từ “góp” được điệp lại nhiều lần: khám phá mới mẻ
sống, lẽ sống cao đẹp đối với đất nước: Phải biết cống hiến, nhưng mang tính nhân văn sâu sắc. Nhân dân chính là
hy sinh, hóa thân vào dáng hình xứ sở, quê hương, đất nước người nghệ sĩ đã tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp
để tạo nên một đất nước trường tồn đến ngàn đời sau. Tới đây thêm một thiên nhiên vốn có.
ta chợt nhớ đến tình cảm của Xuân Diệu, một tình yêu Tổ => Tấm bản đồ Đất Nước được phác họa từ Bắc chí Nam trở
quốc đến tột cùng tồn tại nơi “dòng huyết chảy”: thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác tâm hồn,
“Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất Nước vừa thiêng liêng,
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy”
cao cả, vừa gần gũi. Trên không gian địa lý Đất Nước mỗi địa
(Xuân Diệu)
danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân
Hay ở thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ
của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam.
quốc. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc
b. Bình diện lịch sử:
hóa thân:
“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
- Ba câu thơ đầu : Lời tâm tình của nhà thơ
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương + Lời tâm tình mà trĩu nặng suy tư
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm Nếu là người, tôi sẽ chết + Nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân
cho quê hương” tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, hầu như
không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc
ngoại xâm.
- Sáu câu thơ tiếp: Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà
thơ đã nhận thức được một sự thật đó là : người làm nên lịch
sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những
con người vô danh bình dị.
- Chín câu thơ tiếp: Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất
Nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua
chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử
sách, văn chương, mà biểu dương sự cống hiến của muôn vàn
những con người bình thường trong việc xây dựng, vun đắp
và bảo vệ Đất Nước.
+ Ở đó, vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam được khám phá
và ngời sáng. Họ là vô vàn những con người bình dị, vô danh. - Tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn
Họ chính là nhân dân - những con người bình thường mà phi hóa văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là
thường, giản dị, mộc mạc mà cao cả, kỳ vĩ. Chính nhân dân diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn, tình cảm
đã tạo dựng, gìn giữ Đất Nước trải qua bao thời đại. của nhân dân qua baothế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra
+ Những con người bình thường, giản dị trong cuộc sống từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm
hàng ngày: “cần cù làm lụng” hồn Việt, bản sắc Việt: thật say đắm trong tình yêu (Dạy anh
+ Những con người phi thường mang trong mình dòng máu biết “yêu em từ thuở trong nôi”), quý trọng tình nghĩa (“Biết
anh hùng: “khi có giặc người con trai ra trận...ngày giặc đến quý công cầm vàng những ngày lặn lội”) và kiên trì, bền bỉ
nhà thì đàn bà cũng đánh.” trong đấu tranh (“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả
+ Điểm mới của Nguyễn Khoa Điềm trong cái nhìn về Đất thù mà không sợ dài lâu”)
Nước qua thời gian lịch sử là đã thấy được vai trò không - Liên hệ:
thể thay thế của những con người bình dị, vô danh mặc dù “Yêu em từ thuở trong nôi
“không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ mới là người Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”.
“làm nên Đất Nước muôn đời”. (Ca dao)
- Nghệ thuật: Thể thơ tự do, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, “Cầm vàng mà lội qua sông
vận dụng nhiều chất liệu dân gian để diễn tả tư tưởng Đất Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”.
Nước của Nhân dân. (Ca dao)
- Liên hệ: “Thù này ắt hẳn còn lâu
“Quê hương biết mấy thân yêu Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau (Ca dao)
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”
(Nguyễn Đình Thi)
“Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối”
(Chế Lan Viên)
c.Bình diện văn hóa:
- Nhân dân âm thầm giữ gìn và để lại cho thế hệ sau mọi giá
trị vật chất và tinh thần: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, bản sắc
văn hóa các vùng miền, các thành quả lao động.
- Điệp từ “họ” cùng với cách nói: “họ giữ – họ chuyền – họ
truyền – họ gánh...” cho thấy được sự đóng góp tích cực của
nhân dân vì sự phát triển của đất nước.
- Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất : là hạt lúa ta trồng
qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao
căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con
cháu đời sau “trồng cây hái trái”.
- Không chỉ vậy, họ còn mang đến những giá trị tinh thần quý
báu: họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ
ngôn ngữ dân tộc, họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo
tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
=> Họ tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau truyền
thống yêu nước đánh giặc.
- “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân/ Đất Nước
của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”: khẳng
định như một chân lý.
Phân tích chi tiết: sông núi. Vì thế những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp
thêm một dáng núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa
Lật giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư thân vào sông núi quê hương để làm nên một Đất Nước thủy
tưởng Đất Nước của nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi chung, tình nghĩa. Đó là những hòn Trống Mái có được tạo hình
thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất Nước gắn liền với từ sự hóa thân của những cặp vợ chồng yêu nhau để làm nên một
kỳ niệm quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều Đất Nước nồng thắm, nhân tình. Đó còn là sự hiện thân của
đại: “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi. Nhưng một số tướng những người học trò nghèo thành núi Bút non Nghiên làm nên
lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai một Đất Nước nghìn năm văn hiến. Những ao đầm để lại như
trò to lớn của nhân dân đối với Đất Nước. Trần Hưng Đạo đã dấu tích của đứa trẻ lên ba là tiếng nói của lòng yêu nước, tiếng
từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết nói đòi đi đánh giặc.... Đó là những địa danh lấy tên của những
khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng cá nhân bình dị nhưng là tấm gương sáng đầy nhân văn: Bà Đen,
khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Bà Điểm, Ông Đốc, Ông Trang? Trên khắp Đất Nước, những
Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời những
một số chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cái tên bất tử. Tấm bản đồ Đất Nước được phác họa từ Bắc chí
cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Nam, trở thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác
Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là dân”, tâm hồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất Nước vừa thiêng
đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng liêng, cao cả vừa gần gũi. Trong không gian địa lý Đất Nước,
ta phải biết lấy dân làm gốc”. Dù ở thời đại nào, các nhà tư mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa
tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức mạnh của nhân dân đối thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam. Điệp
với Đất Nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất Nước đi từ “góp” được sử dụng là sự nhấn mạnh, trân trọng của nhà thơ
suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, nhằm ghi nhận và ca ngợi những đóng góp của nhân dân trong
miền rộng, bờ cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có hình hài đất nước. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã sáng tạo
ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc, tuy nhiên chỉ đến chương “Đất ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm thắng cảnh thiên nhiên.
Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng Đất Nước của nhân Nhân dân thổi hồn vào cảnh vật vô tri để thiên nhiên lưu giữ câu
dân mới được lý giải một cách thấu đáo, toàn diện trên các bình chuyện về phần đời của họ. Tự hào và hãnh diện, trân trọng và
diện lịch sử, địa lý và văn hóa. ngợi ca, từng ý thơ bật lên từ tấm lòng của một người con đang
chiêm nghiệm về quê hương xứ sở, góp thêm vào mảng thơ đề
Bước vào những trang thơ “Đất Nước” ta thấy Nguyễn Khoa
tài Đất Nước những phát hiện mới mẻ và giàu tính nhân văn:
Điềm một lần nữa soi ngắm thật kỹ thật sâu vào các tầng địa lý,
lịch sử và văn hóa của Đất Nước. Trước hết nhân dân là người “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
làm nên không gian địa lý của dân tộc: Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự đóng góp
Vọng Phu của những con người bình dị, vô danh trong việc làm nên Đất
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Nước muôn đời. Nhà thơ chuyển sang giọng điệu tâm tình với
..... “em” mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta:
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...” “Em ơi em
Hãy nhìn từ rất xa
Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
đẫm những huyền thoại, mỗi hiện tượng văn học dân gian đều
nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó “Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là
những ý nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tỏ tình
máu nhân dân trong quá trình tạo nên Đất Nước. Mỗi tấc đất, mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng suy tư. Với lối tâm tình,
mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của
chứa đựng những ước mơ của con người. Đằng sau tình yêu với dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, bốn nghìn năm
Đất Nước, nhà thơ nhận ra không gian địa lý không còn là hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc
những hình thể vật chất thuần túy, những sự vật vô tri vô giác ngoại xâm. Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã
mà đó là “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. nhận thức được một sự thật đó là: người làm nên lịch sử không
Trong cái nhìn của nhà thơ, hình ảnh núi sông của tổ quốc bỗng chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô
trở nên thiêng liêng vô cùng. Đọc những truyền thuyết cổ tích danh bình dị:
huyền thoại nhằm giải thích hình dáng, tên gọi của danh lam
thắng cảnh, ta ngỡ như đó chỉ là một cách mỹ lệ hóa núi sông, “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
huyền thoại hóa một địa danh. Nhưng với cái nhìn của Nguyễn ...
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Khoa Điềm – người đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử,
văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức sống của
Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to
bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn
anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”. Nhưng hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. Chủ đề về
cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn
dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã “sống và chết, học Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài
không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “làm ra thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi...Nhưng, có thể nói
Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò
nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ
hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Những nhớ và sâu sắc. Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi
con người làm nên đất nước chính là những con người góp phần trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang
bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị vô danh. Họ là lún sâu vào lối sống ngoại lai. Từ đó, đoạn thơ đã làm sống lại
những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta. Viết về đề
có giặc ngoại xâm thì chính họ trở thành những người anh hùng tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa
cứu nước. “Khi có giặc người con trai ra trận/Người con gái trở Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận
về nuôi cái cùng con” đã thể hiện sự chung sức, chung lòng để thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp
đánh giặc cứu nước, và khi cần thì “giặc đến nhà đàn bà cũng của đất nước ở góc độ địa lý, lịch sử, văn hóa càng gợi lên lòng
đánh”. Nhà thơ đã khẳng định truyền thống đánh giặc ngoại xâm yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
của dân tộc Việt Nam: sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng và Nếu chỉ dừng lại ở phương diện lịch sử hay phương diện địa lý
có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đó là truyền thống được phát huy thì chưa thể có một khái niệm hoàn chỉnh về đất nước. Do đó tư
từ đời này sang đời khác. Chính bằng sự đóng góp một cách tự tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên bình diện
nhiên đó mà họ đã làm nên lịch sử - truyền thống lâu đời của đất thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn
nước. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không Khoa Điềm không khai thác khía cạnh văn hóa theo hướng liệt
nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị anh kê những danh nhân: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu .... mà tác giả đã tìm đến với những giá trị văn hóa của nhân dân,
dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường đó là vẻ đẹp của tâm hồn người Việt:
trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước:
“Nhiều người đã trở thành anh hùng “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
... Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Hình ảnh “người người lớp lớp”, “bốn nghìn lớp người” chính là Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
biểu tượng cho đông đảo tầng lớp nhân dân kế tiếp nhau. Họ đều Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
mang những đức tính chung của con người lao động như sự cần
cù, chất phác và khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng tự nguyện Nhân dân đã có công bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau
đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Người con trai ra trận, những giá trị vật chất, tinh thần, giúp hình thành và gìn giữ
người con gái ở hậu phương cũng góp sức lực, đảm đang nuôi những giá trị đáng quý của đất nước. Điệp từ “họ” cùng với cách
con để người chồng yên lòng đánh giặc, nhưng khi cần thì giặc nói: “họ giữ – họ chuyền – họ truyền – họ gánh...” cho thấy
đến nhà đàn bà cũng đánh, đó là hành động tất yếu để bảo vệ được sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất
mái nhà và bảo vệ quê hương. Những con người anh hùng vô nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta
danh ấy có một cuộc sống thật giản dị, chết bình tâm, cống hiến trồng qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm
và hy sinh một cách tự nguyện, vô tư, thầm lặng cho Đất Nước. bao căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con
Mặc dù không ai nhớ mặt đặt tên nhưng công lao của họ thật to cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang
lớn và đầy ý nghĩa, chính họ đã làm ra Đất Nước. Bằng những đến những giá trị tinh thần quý báu: họ “truyền giọng điệu mình
câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng nhà thơ đã cho ta thấy một sự cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, họ để lại phong tục,
khẳng định chắc chắn và chặt chẽ về tư tưởng “Đất Nước” của tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
nhân dân. Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã
khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
làng”...cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.”
góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa,
(Lưu Quang Vũ)
văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo
dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân. Không
những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm,
đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu
của mình. Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự
sự vừa trữ tình...đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ
Cội nguồn văn hóa chưa phải là những gì thiêng liêng, cao cả, nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu
mà trong tư tưởng của nhà thơ, cội nguồn văn hóa trước tiên bắt nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu
nguồn từ chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, từ biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc
những gì giản dị và thân thuộc nhất như: “giọng điệu”, “tên xã sống qua trí tưởng tượng bay bổng
tên làng”... của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân
dân với tình yêu thương, với sự
Không chỉ vậy, nhân dân còn tạo dựng chủ quyền và truyền
lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm
cho thế hệ sau truyền thống yêu nước và đánh giặc. Nhân dân
do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và
là những người không tiếc máu xương, sẵn sàng đứng lên bảo
có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách
vệ đất nước trước những biến động lịch sử và hiểm họa xâm
đậm nét nhất. Và khi nói đến “Đất
lăng:
nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm nguồn phong phú đẹp đẽ của văn
Có nội thù thì vùng lên đánh bại” hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó
Dân ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ bao đời nay, trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn
hết giặc Tàu 1000 năm lại đến giặc Tây 100 năm. Ta lại lật đổ lọc ba câu để nói
chế độ phong kiến, đánh đuổi phát xít Nhật để đưa nước Việt về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân
Nam đi đến độc lập thống nhất. Và hôm nay đây, trong chính dân, dân tộc:
thời khắc bản trường ca này ra đời, ta đang chống lại đế quốc
Mỹ xâm lược, lời thơ lại càng giục giã và khí thế hơn. Và sức “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
mạnh nhân dân sẽ là cơn sóng lớn để nhấn chìm bè lũ bán Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
nước và cướp nước ấy: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
“Sức nhân dân xẻ núi lấp sông
Mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”.
Con đường mở qua lòng dân rộng mở Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba
Đường vươn dài, dân trải tấm lòng che...” phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm
(Nguyễn Trọng Tạo) nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con
người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao:
Trận chiến ấy sẽ chiến thắng trong nay mai để mãi mãi:
“Yêu em từ thuở trong nôi
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng
của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời
thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã
hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì
cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng
đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là
Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến
và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm
một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả
của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những
nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về mối tình từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
cái
sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ
hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì
hơn ai hết,
Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại.
Mà đất nước của “ca dao thần
thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ
tích, ngọt ngào như ca dao, như
4. Khúc vĩ thanh của bản trường ca: 2. “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Mỗi câu thơ như sợi tơ dài
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu Rút ra từ tháng ngày bom đạn."
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát ( Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh )
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 3. “Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
- Là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
trong những câu dân ca, đặc biệt là những câu dân ca trên
Hơn cả những vì sao cô độc giữa trời”
sông nước. Tiếng hát của những dòng sông ấy được cất lên từ
(Không phải truyền thuyết - Thanh Thảo)
chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó gợi lên những
vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời gian.
4. “Tôi yêu đất nước này chân thật
Phân tích chi tiết: Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi tâm sự về Và yêu tôi đã biết làm người
chương thơ “Đất Nước” đã đặc biệt nhắc nhớ về một hình ảnh Cứ trông đất nước mình thống nhất"
mà ông rất tâm đắc – hình ảnh dòng sông: “Nước Việt có (Trần Vàng Sao )
nhiều sông. Mỗi con sông chảy qua một vùng châu thổ đều
kiến tạo cùng với nó một bản sắc văn hóa góp phần làm đa 5. “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
dạng thêm văn hóa chung của đất nước”. Để rồi từ sự chiêm Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
nghiệm đó, tác giả đưa bạn đọc đến với những dòng chảy của Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
tự nhiên hay cũng chính là dòng chảy của văn hóa, phong tục Của triệu người yêu dấu gian lao”...
Việt Nam: ( Xuân Diệu )

“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu 6. “Trên đất nước nghìn năm những nông dân lại tập cấy cày
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Nhà bác học phải nghĩ suy từ ba sào chua mặn
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Năm tấn thóc để làm thép gang mặt trận
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cũng là bài ca theo suốt những đoàn quân”
( Thời đại Hồ Chí Minh - Nguyễn Khoa Điềm )
Ý thơ là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước
trong những câu dân ca, đặc biệt là những câu dân ca trên 7. “Những mùa đi thăm thẳm
sông nước, tiếng hát của những dòng sông ấy đã được cất lên Trong mông lung chiều tà
từ chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó gợi lên Có bao chàng trai trẻ
những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời gian. Chắt Cứ lặng thinh mà già”
lọc những “hạt cườm” tinh túy từ vẻ đẹp tâm hồn con người ( Đỉnh núi - Trần Đăng Khoa )
Việt Nam, từ dọc dài thời gian lịch sử, bề rộng không gian địa
lý và cả bề sâu văn hóa phong tục, lối sống dân tộc, Nguyễn 8.“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Khoa Điềm đã xâu lại thành “chuỗi cườm” lung linh, óng Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
ánh: đất nước muôn đời. Chương thơ “Đất Nước” đã khơi Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
gợi, nhắc nhớ người đọc một lần nữa suy tư về đất nước, một Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”
đề tài không mới nhưng lại được khai thác ở những khía cạnh (Tổ quốc nhìn từ biển - Lê Việt Chiến)
bình dị mà sâu sắc, bởi đôi mắt khám phá và chiêm nghiệm
vô cùng mới mẻ của ông vua thể loại trường ca – nhà thơ 9. “Nước chúng ta
Nguyễn Khoa Điềm. Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
IV. DẪN CHỨNG LIÊN HỆ: Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
1. “Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi"
( Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm )
V-MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO: 2. Kết bài:

1. Mở bài: 1. Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ


những điều giản dị. Có một hình ảnh đất nước được lý giải
1. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tâm sự rằng: với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày
xưa. Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
không gian tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên ương.
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải
Đó là sự đúc kết của một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước” của mình. Cuộc chiến
tâm hồn: Sự gắn bó với mỗi miền đất sẽ trở thành chính ta, tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau,
một phần đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu. Và tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ
phải chăng vì lý do này mà những vần thơ viết về quê hương Quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn
đất nước luôn là những rung động thường trực trong tâm hồn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời đại:
người nghệ sĩ? Chính những rung động ấy đã thôi thúc “Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên
Nguyễn Khoa Điềm chắp bút viết trường ca “Mặt trường khát xuống đường chiếm lĩnh từng tầng cao của mái nhà, của
vọng”. Một trích đoạn không thể không nhắc đến đó là “Đất ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương tâm lên bầu trời đầy
Nước” . giặc giã” (Chu Lai).

2. Cảm hứng về đất nước, con người đã trở thành mạch chủ
lưu trên dòng sông văn học 1945 - 1975. Mạch chảy đó luôn
2. Trích đoạn “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát
âm vang niềm tự hào ngợi ca, tôn vinh tạo ra khúc tráng ca về
vọng” là sự lý giải hoàn hảo cho những thắc mắc của đọc giả
Tổ quốc. Để rồi có một người nghệ sĩ đã từng viết:
về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?”.
“Nhưng lạ lùng sao nhân dân ta thông minh Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi
Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì
Ta lớn lên với niềm tin chân thật....” thuộc về đất nước hay sao. Và những câu hỏi thắc mắc về quê
hương, đất nước mình vẫn còn là những điều bỏ ngỏ, để bạn
Đó là những vần thơ ca ngợi nhân dân đất nước thiết tha mà đọc không ngừng tìm kiếm những điều mới lạ ấy, sự thú vị ấy
Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong trường ca "Mặt đường khát trong thơ văn:
vọng". Giữa thời đạn bom, giữa thời máu lửa, khúc tráng ca
“Đất Nước” đã vang lên một cách hào sảng, chạm sâu vào trái “Quê hương là gì hở mẹ
tim của mỗi người con đất Việt. Đoạn trích là cái nhìn tin yêu Mà cô giáo dạy phải yêu
của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước được nhìn theo nhiều Quê hương là gì hả mẹ
khía cạnh, thăng trầm và biến đổi của lịch sử. “Đất Nước” là Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”
tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chứa đựng bao cảm xúc
đặc biệt của nhà thơ.
3. Hình tượng đất nước không phải lần đầu tiên xuất hiện,
3. Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về
nhưng cách lý giải về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại
một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không
đem tới cho bạn đọc sự thú vị đến bất ngờ. Đó là hình ảnh
có tổ, cái cây không có rễ”. Và ai đó cũng từng tự hỏi: “Có
của một đất nước gần gũi, dung dị, giống như hình ảnh của
mối tình nào nặng sâu hơn mối tình Tổ quốc?”. Đi tìm câu trả
những con người đã làm ra, dựng xây và phát triển - Nhân
lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với
dân. Tư tưởng “Đất Nước là của Nhân dân” cũng không phải
Nguyễn Đình Thi là hình ảnh một đất nước đau thương, căm
là tư tưởng lần đầu tiên xuất hiện trong nền văn học Việt
hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng.
Nam, nhưng đây lại là tác phẩm cho độc giả thấy được tư
Với Lê Anh Xuân là dáng đứng “Tổ quốc bay lên bát ngát
tưởng về đất nước của nhân dân chân thực và gần gũi nhất:
mùa xuân”. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp “Tổ quốc tôi như một
“Họ đã sống và chết
con tàu, mũi tàu rẽ sóng mũi Cà Mau”. Đặc biệt, vào cuối
Giản dị và bình tâm
năm 1971 từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn
Không ai nhớ mặt đặt tên
Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài đất nước
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước”
qua trích đoạn “Đất Nước” – trích trường ca “Mặt đường khát
vọng”.
Văn bản: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí xuất sắc nhất được
-Hoàng Phủ Ngọc Tường- viết tại Huế ngày 4/1/1981, có 3 phần. Trích đoạn SGK nằm
ở phần đầu của tác phẩm.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng tâm sự:
Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của đoạn trích
Thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông như là món quà nhỏ như sau:
thay cho một chút lòng thành. Đây là bút ký dài nhất và tâm
huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên ● Được viết tại Huế vào ngày 4/1/1981.
một dòng sông y như nó vốn có. Dòng sông của văn hóa, lịch ● Rút từ tập kí cùng tên xuất bản năm 1986 bày tỏ tình cảm
sử, huyền thoại... Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho của tác giả đối với quê hương, đất nước.
thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên
Những tâm tình của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về
ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ
"Ai đã đặt tên cho dòng sông"
đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động
làm thay đổi nó dù điều này không phải dễ... “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bút ký nổi tiếng của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nguồn cảm hứng để ông viết
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Hoàng Phủ Ngọc Tường
nên tác phẩm này chính là dòng sông Hương thơ mộng chảy
- Cuộc đời gắn bó thân thiết với xứ Huế. qua giữa lòng kinh thành Huế. Hãy nghe Hoàng Phủ Ngọc
- Từng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Tường tâm sự với người bạn văn Mai Văn Hoan về ngọn
Từ - Phong cách nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa nguồn xúc cảm cho bút ký thấm đẫm chất văn chương này.
khó chất nghệ thuật và chất trữ tình, vốn hiểu biết phong
a phú, lối hành văn mê đắm, tài hoa. Cho đến khi trở thành nhà văn, tôi có lợi thế là một nhà báo
- Viết nhiều và hay về Huế. trực tiếp tham gia kháng chiến. Suốt trong thời gian tham gia
kháng chiến, với nghề làm báo, tôi đã được đi đây đi đó trên
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thổn thức mà thốt lên rằng:
địa bàn hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị, được tiếp
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có
xúc nhiều với những con người đã sống trong lòng địch hoặc
lẽ không chỉ Chế Lan Viên mà có biết bao nghệ sĩ đã đưa vào
đã làm nên những chiến công. Suốt trong thời gian ấy, đế
tác phẩm của mình một “hồn nhớ” về mảnh đất đã để thương,
quốc Mỹ đã tung ra một sức mạnh bạo liệt nhất, quyết đè bẹp
để nhớ trong họ. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không ngoại
dân tộc ta; và ta cũng đối chọi lại bằng sức mạnh kiên quyết
lệ. Tuy quê gốc không phải ở Huế nhưng mảnh đất mẹ là nơi
nhất để tồn tại. Tôi đã được nghe, được thấy những sự việc,
sinh ra, lớn lên và trưởng thành, nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn.
những thông tin đáng giá nhất về cuộc chiến tranh Việt Nam.
Không ngại bày tỏ tình cảm của mình với xứ Huế thân
Như vậy, trong tôi đã hình thành được một thể loại văn học
thương, bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trong tập ký
gọi là bút ký. Bút ký là thể loại văn học đòi được tường thuật
cùng tên như một minh chứng cho tình cảm son sắt, nồng
lại thực tế đã xảy ra và rất gần với hiện thực cuộc sống. Khi
nhiệt mà tác giả dành cho nơi đây. Nét đặc sắc trong sáng tác
tôi quyết định chọn thể ký để viết văn thì cũng là lúc thể loại
của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất
văn học này đang bị “thất sủng”. Một số nhà phê bình có tên
trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng
tuổi viết bài công kích thể loại văn học này. Họ bảo rằng ký
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử,
không “phục vụ kịp thời” so với những mẩu tin báo chí hoặc
địa lý...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc
những bài phóng sự ; cũng không giàu tính truyền cảm và
tích, mê đắm và tài hoa.
tính điển hình so với truyện ngắn, tiểu thuyết. Nói tóm lại,
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: theo họ ký chỉ là một loại “văn chương thứ cấp”. Giữa lúc ấy
1. Hoàn cảnh ra đời: bỗng xuất hiện tác phẩm Một trận đánh của tác giả Nguyễn
Sinh - Vũ Kỳ Lân làm xôn xao dư luận. Tác giả đã mạnh dạn
- Tác phẩm được rút ra từ tập bút kí cùng tên được xuất bản thuật lại một trận đánh thất bại của quân ta - điều mà trước
năm 1986, gồm 8 bài viết về nhiều đề tài khác nhau: đây không ai nói đến. Nhưng chính từ thất bại mà họ đúc rút
+ Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ca được kinh nghiệm và cuối cùng họ đã chiến thắng. Tác phẩm
ngợi đất nước, con người Việt Nam: “Rừng hồi”, “Ai về này đã phần nào giải tỏa cho tôi: Phải viết theo cảm xúc chân
châu xưa”, “Đời rừng”, “Đứa con phù sa”,... thực của mình, không nên viết theo “mệnh lệnh”. Từ đó tôi
+ Có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà lựa chọn một cách viết bút ký riêng. Sau một vài phác thảo,
văn bộc lộ tấm lòng gắn bó với quê hương đất nước và có thể xem bút ký Như con sông từ nguồn ra biển là thành
niềm tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc, đặc công bước đầu của tôi và gắn chặt tôi với thể loại văn học
biệt là những bài kí viết về thiên nhiên và con người Huế: này.
“Hoa trái quanh ta”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”...
Về thiên bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tuyển 2. Nhận định về tác giả tác phẩm:
chọn vào chương trình Ngữ văn THPT, trong việc đi lại hằng
ngày, tôi có dịp tiếp xúc với sông Hương và thấy tận mắt 1. “Như một người đã chiêm nghiệm trong im lặng và trong
những biến ảo trên từng đoạn của nó. Tất cả có thể vẽ thành sương khói chỉ để giữ lại những nét đẹp sâu thẳm của thiên
một dòng sông nguyên vẹn nếu như chắp nối từng đoạn ấy nhiên, từ dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tôi đã
với nhau. Trước năm 1975, có một lần tôi đứng nhìn sông không ngần ngại gửi tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ lại đời
Hương trên cầu Trường Tiền. Mặt sông Hương bằng phẳng, mình bằng màu nước của dòng sông, nó xanh biếc và yên tĩnh
toả rộng ra và trôi vào bóng tối; có đôi chỗ phập phồng trong như một lẻ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đô.”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường - “Lời tạ từ gửi một dòng sông”)
làn gió nhẹ như một tà áo lụa và cứ trùng trình như tâm trạng
(“Lời tạ từ gửi một dòng sông” là tập bút kí của Hoàng Phủ Ngọc
đi không đành trong tình yêu của con sông đối với kinh
Tường, được tác giả xem như là lời tạ từ gửi dòng sông Hương)
thành. Tất cả vẻ đẹp ấy cứ vang lên trong tâm hồn tôi thành
một nốt nhạc của tình khúc... Tôi chợt nảy ra một ý định tái 2. “Đất nước có nhiều dòng sông, nhưng chỉ có một dòng
hiện cái khoảnh khắc kỳ ảo ấy của sông Hương. Đó là một lời sông để thương để nhớ, như cuộc đời có nhiều cuộc tình
hứa với dòng sông mà chừng nào chưa thực hiện được thì nhưng chỉ có một cuộc tình để mang theo”. (Khuyết danh)
lòng tôi vẫn băn khoăn, day dứt khôn nguôi.
3. “Ôi dòng sông Đời Người, ôi con sông Huế, nó đã chở đầy
Tôi có một chị bạn (Việt kiều ở Thụy Sĩ) mua một ngôi nhà ở phận người từ thuở từng giọt địa chất sinh ra.”
gần Văn Thánh để chuẩn bị về quê. Chị có tổ chức một đêm (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
nhạc Cung Trầm Tưởng. Người đến dự phần lớn là những trí
thức Huế. Chị C. H. có giọng hát véo von, lanh lảnh, cuốn hút 4. “Chảy suốt đời văn và đời người của Hoàng Phủ Ngọc
người nghe. Giọng hát của chị ngân vang trên nền đá cẩm Tường có lẽ là dòng sông Hương, mà nếu không có những
thạch của sự im lặng... Ngoài vườn, ánh trăng lọt qua những trang văn của ông, nó đã không long lanh đến thế trong lòng
cành lá, khiến cho bóng đêm có vẻ như chia thành nhiều tầng, bao nhiêu người đọc, dù đến hay chưa đến Huế.”
nhiều mảng... Con đường nhỏ, những cây dừa cao dọc bờ (Lê Đức Dục)
nước, cồn đất hoang xa xa... tất cả đã khiến cho con sông 5. “... Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con
Hương dường như mang nhiều ý tứ khác nhau. Bỗng nhiên từ Sông Hương mê hoặc. Nhiều tác phẩm văn học đã đưa con
đâu vang lại một tiếng động khẽ nhưng rất rõ ràng như một sông này đến với người đọc để từ đó đem lòng yêu Huế, dù
tiếng thở dài. Tôi cảm thấy như có một vị khách không mời, chưa một lần đặt chân đến nơi này. Nhưng với Hoàng Phủ
đang nép mình trong bóng tối, dưới mái hiên sau. Người Ngọc Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm
khách ấy tôi nghĩ chẳng phải là ai khác mà chính là sông tha thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của
Hương. Vâng, sông Hương đã trải qua cả ngàn đêm âm nhạc Hương Giang một cách toàn diện, đưa Sông Hương trở thành
từ những du thuyền trên sông của giới quý tộc xưa đến những biểu tượng của đất cố đô...” (Bùi Thị Hải Hạnh).
đêm nhạc thính phòng như ở căn nhà mới của chị C.H hiện
tại... Sông Hương đã nghe thấy, đã lưu giữ những cảnh ấy, Bố cục phân tích:
những tình ấy... Sông Hương mang trong dòng chảy lững lờ
một nét tâm sự của nghìn năm. Sáng ngủ dậy, qua cửa kính
phòng khách, tôi thấy sông Hương là một dòng bình yên,
thanh thản và vô tận như một nét vĩnh hằng. Nhớ lại những
điều đã xảy ra trong đêm hôm qua, tôi thầm nghĩ: Xin cảm ơn
người đã đem cuộc đời mình dệt thành tâm hồn của tôi. Cảm
ơn sông Hương! Tôi sẽ vẽ chân dung người trong một nét ký
họa.

Thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông như là món quà nhỏ
thay cho một chút lòng thành. Đây là bút ký dài nhất và tâm
huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên
một dòng sông y như nó vốn có. Dòng sông của văn hóa, lịch
sử, huyền thoại... Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho
thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên
ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ
đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động
làm thay đổi nó dù điều này không phải dễ...
I. HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM: - Có thể thấy bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ
1. Thủy trình của sông Hương: đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả
một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương.
a. Sông Hương ở thượng nguồn: Dường như nhà văn đã vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng
Với câu hỏi gợi tìm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, bằng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại
bước chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội vi thành phố Huế. Tác giả không chỉ tái hiện một cách chân
nguồn dòng chảy của Hương giang. thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của dòng sông mà
- Ở thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ trữ tình. quan trọng hơn là biến cái thủy trình ấy thành hành trình của
Chẳng phải ngẫu nhiên khi người ta gọi sông Hương là bản một người con gái đẹp duyên dáng và tình tứ. Đó cũng là cảm
trường ca của rừng già. Ở nơi khơi nguồn của dòng chảy, gắn nhận riêng, độc đáo và đầy thi vị của HPNT về Hương giang
liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.
đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng tráng, vừa trữ tình Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy ở dòng sông này một vẻ
như bản trường ca bất tận về thiên nhiên: “rầm rộ giữa những đẹp khác, vẻ đẹp ấy sâu lắng và cũng bí ẩn hơn. Đó là vẻ đẹp
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn trầm mặc “như triết lí”, “như cổ thi” của sông Hương. Đi
xoáy như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn và cũng có lúc nó giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm
trở nên dịu dàng và say đắm giữa những rặng dài chói lọi bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn.
của hoa đỗ quyên rừng”. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép
- Đến giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một “cô gái mình bên “những giấc ngủ nghìn năm của vua chúa được
Di-gan phóng khoáng và man dại”. Đây là một liên tưởng thú phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”.
vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này HPNT đã khắc vào
tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại c. Sông Hương khi chảy qua thành phố Huế:
nhưng cũng rất tình tứ của con sông. Biện pháp nhân hóa Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông
được sử dụng khiến con sông hiện lên như một con người có Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của
cá tính, có tâm hồn: “rừng già đã hun đúc cho nó một bản vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thảng thực yên tâm theo
lĩnh hoang dại, một tâm hồn tự do và trong sáng”. hướng Tây Nam - Đông Bắc” rồi uốn một cánh cung rất nhẹ
- Ra khỏi rừng, sông Hương trở thành “người mẹ phù sa của tới Cồn Hến khiến dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng
một vùng văn hóa xứ sở”. Không chỉ giúp người đọc có thêm “vâng” không nói ra của tình yêu. Nằm ngay giữa lòng thành
một góc nhìn, một sự hiểu biết vẻ đẹp hùng vĩ, man dại đầy phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống như sông
chất thơ của sông Hương, HPNT còn muốn đem đến một cái Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, nhưng trong
nhìn sâu sắc hơn, muốn “ghi công” sông Hương như một cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận
đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn dưới nhiều góc độ.
hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Sông Hương chính là - Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi
khởi nguồn, sự bắt đầu của một không gian văn hóa – văn hóa lưu của nó tạo nên những đường nét thật tinh tế, làm nên vẻ
Huế. đẹp cổ kính của cố đô. Đó là hình ảnh chiếc cầu trắng bắc qua
dòng sông “in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vành
b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố: trăng non”. Hai bên bờ sông và những chi lưu của nó xum
Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “người xuê những bóng cây cổ thụ “tỏa vầng lá u sầm xuống những
đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, xóm thuyền xúm xít”. Điều này khiến cho Huế mang một vẻ
được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình đẹp riêng mà không một thành phố hiện đại nào có được.
của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm - Qua cảm nhận dưới góc độ âm nhạc, sông Hương chính là
kiếm có ý thức” tình nhân đích thực của người con gái đẹp điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, rất chậm rãi, sâu
trong một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích. lắng, trữ tình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thật tinh tế khi
Sông Hương lúc này mang một dáng vóc mới, một sức sống nhận ra cái đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông
mới đầy khát khao và lãng mạn: “Sông Hương đã chuyển khác ở Việt Nam và trên thế giới, lưu tốc sông Hương có
dòng một cách liên tục, vòng giữ những khúc quanh đột ngột, phần chậm rãi.
uốn mình theo những đường cong thật mềm”. + Nhà văn lí giải từ đặc điểm địa lí “những chi lưu ấy cùng
- Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách, khiến nó phải vượt dòng nước khiến cho sông Hương khi chảy qua thành phố
qua một loạt các chướng ngại vật: Hòn Chén, Ngọc Trản, Huế đã trôi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ là mặt hồ yên tĩnh”.
Nguyệt Biều...nhưng chính trong quá trình ấy nó lại có cơ hội
phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm với những
đường cong tuyệt mĩ của người con gái đẹp, ra đi từ cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại.
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mang đến một kiến giải khác Phân tích cụ thể:
hết sức thi vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông Tôi vẫn cho rằng, những nhà văn thực sự có phong cách đều
yêu quý. Đó là cách lí giải bằng trái tim: sông Hương chảy mang trong tâm hồn một “chất nam châm” riêng để hút lấy
chậm, điệu nhảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của những gì thích hợp với nó. “Những gì” ấy, tôi gọi là “vùng
mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thẩm mỹ” của mỗi cây bút. Huế và dòng sông Hương là vùng
thân thương trước khi phải rời ra. thẩm mỹ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là quê hương văn học
- Từ góc nhìn văn hóa, tác giả gọi sông Hương là “người tài đích thực của ông. Ông viết về đối tượng này bằng một trái
nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, rồi thì dẫn ra câu chuyện về tim say đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri
người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ... Tất cả đó là sự thức phong phú để tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa
khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa sông Hương sang, vừa lấp lánh trí tuệ, vừa chan chứa ân tình.
và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hóa Huế nói
chung và vẻ đẹp sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của
bất kì dòng sông nào ở trong nước cũng như trên thế giới. trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương
- Với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế.
là một người tình dịu dàng và chung thủy. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc
+ Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch hướng chính độ khác nhau, từ góc độ địa lý đến lịch sử và qua góc nhìn
Bắc. Tuy nhiên do đặc điểm địa lí của nước ta, thủy trình văn hóa, thơ ca. Ở góc độ địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm
của dòng sông đã thay đổi, nó chuyển dòng sang hướng hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều
Đông và như vậy sẽ phải đi qua một góc của thành phố vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối
Huế, ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lí tự quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Với câu hỏi gợi tìm
nhiên của dòng sông. “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, bằng bước chân rong ruổi,
+ Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ, khúc ngoặt ấy là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn dòng chảy của
biểu hiện của hút vấn vương, thậm chí có chút “lẳng lơ Hương giang. Ở thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp
kín đáo” của người tình thủy chung, chí tình. Nhà văn hùng vĩ trữ tình. Chẳng phải ngẫu nhiên khi người ta gọi sông
hình dung sông Hương như nàng Kiều trở về tìm Kim Hương là “bản trường ca của rừng già”. Ở nơi khơi nguồn
Trọng để trao lời thề trước khi đi xa. Một phát hiện thực của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ,
độc đáo, thú vị và đậm màu sắc văn chương. Hương giang con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa
vốn đẹp nay càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn, một vẻ đẹp hài hùng tráng, vừa trữ tình như bản trường ca bất tận về thiên
hòa giữa hình dáng bên ngoài và phần tâm hồn sâu thẳm nhiên: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
bên trong. những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào đáy vực
bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
Nhận xét: những rặng dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng”. Sắc đỏ
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ “chói lọi” ấy của loài đỗ quyên càng làm nổi bật lên cái dáng
nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà điệu rộn rã, bừng bừng khí thế của một dòng sông giữa lòng
văn đều thể hiện một cảm nghĩ và khá mới mẻ về con sông đã Trường Sơn hoang dã và bí ẩn, tựa như tuổi trẻ son sắt của
trở thành biểu tượng của Huế. Ở trong đó ta thấy bàng bạc những chàng trai, những cô gái đang thỏa sức vẫy vùng giữa
một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và biển trời thanh xuân nồng nhiệt, sống động. Cuối cùng cái vẻ
thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình của dòng sông
vẻ đẹp thiên nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương
quê hương. giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

Nhưng bấy nhiêu đấy vẫn chưa đủ để làm nổi bật hẳn cái cá
tính của dòng Hương giang giữa muôn vàn các dòng sông của
nhiều tác giả khác, ví như so sánh với Nguyễn Tuân nhà văn
cũng có một dòng sông Đà hung bạo, mãnh liệt kết hợp với
vẻ trữ tình thi vị đầy đặc sắc. Thế nên Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã chọn cách nhân hóa sông Hương, khoác lên cho nó
một tính cách thật đặc biệt bằng dáng vẻ của một người con
gái Di-gan “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn,
cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”. Đến
giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một “cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại”.
Đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so a. Vẻ đẹp của dòng sông qua góc nhìn âm nhạc:
sánh này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người Khi sông Hương chảy lặng lờ qua thành phố Huế, nhà văn đã
đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng có một phát hiện vô cùng thú vị: “Sông Hương là người tài
rất tình tứ của con sông. Biện pháp nhân hóa được sử dụng nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đây quả thực là một sự so sánh
khiến con sông hiện lên như một con người có cá tính, có tâm vô cùng bất ngờ và độc đáo.
hồn: “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh hoang dại, - Với sự hiểu biết của mình, Hoảng Phủ Ngọc Tường đã huy
một tâm hồn tự do và trong sáng”. Nhà văn đã sử dụng hàng động vốn kiến thức và vốn ngôn từ sâu rộng để đưa vẻ đẹp
loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh của sông Hương gắn liền với âm nhạc. Âm nhạc cổ điển, âm
liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” nhạc dân gian Huế đều được hình thành từ mặt nước dòng
để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn Hương.
sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là - Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tinh tế khi dẫn ra câu chuyện
“bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người về người nghệ sĩ già chơi đàn hơn nửa thế kỷ, một buổi tối
mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với khi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/
một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho Đục như tiếng suối mới xa nửa vời” đã nhổm dậy vỗ đùi chỉ
gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên đó chính là “Tứ đại
phương diện khác nhau. Ra khỏi rừng, sông Hương trở thành cảnh”. Câu chuyện trên có ý nghĩa khẳng định về mối quan
“người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dòng sông hệ mật thiết giữa sông Hương và nền âm nhạc Huế. Cảm
đã hoàn toàn rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở nhận của Nguyễn Du về điệu “Tứ đại cảnh” của người Huế
mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ đã hiện diện trên những trang viết của đại thi hào Nguyễn Du
bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế khi miêu tả về tiếng đàn của Kiều. Chính sông Hương là nơi
bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân khởi nguồn cho những làn điệu dân ca Nam ai, Nam bình,
thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”. Nhắc nhở con người những điệu mái hò mãi đẩy, lời ca Huế luôn đồng hành và
nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời đã sóng sánh cùng với dòng nước Hương Giang.
dang rộng vòng tay ôm ấp, hy sinh, trải qua biết bao nhiêu thế
hệ thăng trầm nuôi lớn đứa con cố đô bằng tất cả tấm lòng b. Sông Hương – Dòng sông của sử thi viết giữa màu lá cỏ
yêu thương, mong đợi. Có thể nói rằng với sự liên tưởng này xanh biếc:
Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ biến sông Hương thành Dòng sông Hương dưới góc nhìn lịch sử bây giờ không còn là
một thực thể có linh hồn có xúc cảm, giúp bạn đọc có thêm cô gá Digan phóng khoáng và man dại, cũng không phải thiếu
một góc nhìn, một sự hiểu biết vẻ đẹp hùng vĩ, man dại đầy nữ ngủ mơ màng giữa cánh đầu Châu Hóa mà bây giờ, người
chất thơ của sông Hương mà còn đặc biệt nhấn mạnh làm nổi tình của đất Huế đang mang trong mình một màu lịch sử -
bật mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với đang trở thành một chứng nhân trước biết bao biến thiên của
mảnh đất cố đô bao đời nay, góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo lịch sử thiêng liêng. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trong ký
tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Điều đó cũng của mình: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian
phần nào thể hiện được tấm lòng gắn bó của nhà văn với quê ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc...”
hương, gắn bó với dòng sông có nhiều nét cá tính độc đáo Những trang văn của người nghệ sĩ gợi lại cho người đọc biết
này. bao quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc ta, nhấn mạnh sự
hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Với người Huế,
Khái quát: với những người yêu sông Hương, dòng sông này không
Như vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả những là một bản hùng ca, một bản trường ca mà còn là một
dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi bản tình ca giữa đời thường.
góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ và khá mới mẻ về Trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
con sông đã trở thành biểu tượng của Huế. Ở trong đó ta thấy nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử, từng nhánh rẽ
bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự của dòng sông cho đến cả những cây đa, cây cổ thụ bên dòng
hào và thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những sông cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã tiến hành
vẻ đẹp thiên nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông một “cuộc quay ngược thời gian” ngoạn mục để trở về quá
quê hương. khứ, khẳng định vai trò của sông Hương trong lịch sử dân
tộc.
- Với một đất nước có bề dày lịch sử như Việt Nam, kể từ
thời vua Hùng , sông Hương đã là dòng sông biên thùy xa
xôi.
- Bước sang thời trung đại, với tên gọi khác là Linh Giang nó
đã cùng với nhân dân Huế “oanh oanh liệt liệt” bảo vệ phần
2. Dòng sông của âm nhạc, lịch sử, thi ca và cuộc đời
biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
liền với những chiến công của người anh hùng áo vải Hương Giang cứ tự tình, lặng lờ mà đem trong mình chất thơ
Quang Trung – Nguyễn Huệ. đầy ăm ắp như thế. Ký của Hoàng Phủ cứ thôi thúc con người
- Trải qua những cuộc chiến tàn khốc và đẫm máu của những ta phải đến Huế một lần, thôi thúc con người ta tìm đến
cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX, sông Hương gắn liền với cuộc những tứ thơ về dòng Hương, dòng Huế...
cách mạng tháng Tám với những chiến công vang dội, rung
chuyển. Đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân d. Dòng sông của cuộc đời:
1968, sông Hương cũng như kinh thành Huế cùng với những Trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương mang một vẻ
người dân Huế đã chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp của đế đẹp dịu hiền và khiêm nhường như thế. Điều làm nên vẻ đẹp
quốc Mỹ. Sông Hương cùng với những người dân xứ Huế đã đáng trọng của con sông chính là biết lắng nghe lời kêu gọi
chiến đấu một cách kiên cường, bất khuất và dũng cảm để của Tổ quốc và hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Khi trở về
chống lại kẻ thù. Không phải ngẫu nhiên mà một hội nghị với cuộc sống bình thường, sông Hương dịu hiền hệt như
tổng kết chiến tranh đồng chí đại tướng đã phát biểu: “Lịch sử người con gái Huế. Những đổi thay bất ngờ của sông Hương
Đảng đã ghi bằng nét son tên thành phố Huế, thành phố tuy mang dáng dấp của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam
nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”. suốt mấy nghìn năm qua. Những biến thiên của cuộc đời suốt
Cùng với rất nhiều những dòng sông trên đất nước Việt Nam mấy ngàn năm lịch sử cho thấy sự thích ứng của con người
như sông Bến Hải, sông Gianh, sông Đà, sông Bạch Đằng,... Việt Nam là vô hạn, sức mạnh của con người Việt Nam là
sông Hương đã trở thành dòng sông của lịch sử mang vẻ đẹp vô hạn. Luôn tự làm mới mình, cũng chính vì điều này, mà
của một bản hùng ca ghi lại những tháng năm chiến đấu kiên sông Hương luôn gây được thiện cảm với bất kỳ ai biết tới.
cường của nhân dân ta. Bên cạnh sự mềm mại, dịu dàng, vẻ
đẹp của sông Hương còn được nhìn nhận ở những khía cạnh
khác nhau đặc biệt là khía cạnh lịch sử.

c. Sông Hương – Dòng sông của thi ca, không bao giờ tự
lặp lại chính mình:
Sông Hương dưới góc nhìn thi ca là một dòng sông không
bao giờ tự lặp lại chính mình, cũng không bao giờ lặp lại
trong mỗi góc nhìn của người nghệ sĩ. Với cách viết
trích dẫn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy trong
lòng những người đọc biết bao vần thơ hay về Huế, về dòng
Hương
- Qua thơ của Tản Đà: “Dòng sông trắng, lá cây xanh”, đó là
sự tương giao, sự đồng điệu của những tâm hồn người nghệ
sĩ. Đó là nét chấm phá tiêu biểu của nhà văn trong tác phẩm
của mình.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện vẻ đẹp của một sức
mạnh phục sinh trong tâm hồn nhờ cuộc sống mới, nhờ thời
đại mới, con người mới, cách mạng đã gột rửa, thanh tẩy mọi
nhuốc nhơ, nhục nhã ê chề của đời ca nữ, kỹ nữ trên sông
Hương:
“Răng không cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
- Thi đàn Việt Nam cũng đã ghi nhận biết bao nhiêu tao nhân,
mặc khách buông lòng mình về dòng Hương. Trong thơ Hàn
Mặc Tử, cũng đã từng gây cho bạn đọc những bồi hồi và ám
ảnh:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay” Phân tích cụ thể:
- Nhà thơ Thu Bồn cũng đã từng viết trong tác phẩm của Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông
mình: Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc
“Con sông dùng dằng con sông không chảy độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông
Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, sông Hương cũng như
thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.Đây quả thực là kinh thành Huế cùng với những người dân Huế đã chứng kiến
một sự so sánh vô cùng bất ngờ và độc đáo. Với sự hiểu biết sự tàn phá khủng khiếp của đế quốc Mỹ. Sông Hương cùng
của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến với những người dân xứ Huế đã chiến đấu một cách kiên
thức và vốn ngôn từ sâu rộng để đưa vẻ đẹp của sông Hương cường, bất khuất và dũng cảm để chống lại kẻ thù. Không
gắn liền với âm nhạc. Âm nhạc cổ điển, âm nhạc dân gian phải ngẫu nhiên mà một hội nghị tổng kết chiến tranh đồng
Huế đều được hình thành từ mặt nước dòng Hương. chí đại tướng đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét
son tên thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tinh tế khi dẫn ra câu chuyện hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
về người nghệ sĩ già chơi đàn hơn nửa thế kỷ, một buổi tối
khi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Cùng với rất nhiều những dòng sông trên đất nước Việt Nam
Đục như tiếng suối mới xa nửa vời” đã nhổm dậy vỗ đùi chỉ như sông Bến Hải, sông Gianh, sông Đà, sông Bạch Đằng,...
vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên đó chính là “Tứ đại sông Hương đã trở thành dòng sông của lịch sử mang vẻ đẹp
cảnh”. Câu chuyện trên có ý nghĩa khẳng định về mối quan của một bản hùng ca ghi lại những tháng năm chiến đấu kiên
hệ mật thiết giữa sông Hương và nền âm nhạc Huế. Cảm cường của nhân dân ta. Bên cạnh sự mềm mại, dịu dàng, vẻ
nhận của Nguyễn Du về điệu “Tứ đại cảnh” của người Huế đẹp của sông Hương còn được nhìn nhận ở những khía cạnh
đã hiện diện trên những trang viết của đại thi hào Nguyễn Du khác nhau đặc biệt là khía cạnh lịch sử.
khi miêu tả về tiếng đàn của Kiều. Chính sông Hương là nơi
khởi nguồn cho những làn điệu dân ca Nam ai, Nam bình, Sông Hương dưới góc nhìn thi ca là một dòng sông không
những điệu mái hò mãi đẩy, lời ca Huế luôn đồng hành và bao giờ tự lặp lại chính mình, cũng không bao giờ lặp lại
sóng sánh cùng với dòng nước Hương Giang. trong mỗi góc nhìn của người nghệ sĩ. Với cách viết trích
dẫn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy trong lòng
Dòng sông Hương dưới góc nhìn lịch sử bây giờ không còn là những người đọc biết bao vần thơ hay về Huế, về dòng
cô gá Digan phóng khoáng và man dại, cũng không phải thiếu Hương . Qua thơ của Tản Đà: “Dòng sông trắng, lá cây
nữ ngủ mơ màng giữa cánh đầu Châu Hóa mà bây giờ, người xanh”, đó là sự
tình của đất Huế đang mang trong mình một màu lịch sử - tương giao, sự đồng điệu của những tâm hồn người nghệ sĩ.
đang trở thành một chứng nhân trước biết bao biến thiên của Đó là nét chấm phá tiêu biểu của nhà văn trong tác phẩm của
lịch sử thiêng liêng. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trong ký mình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện vẻ đẹp của một
của mình: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian sức mạnh phục sinh trong tâm hồn nhờ cuộc sống mới, nhờ
ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc...”. thời đại mới, con người mới, cách mạng đã gột rửa, thanh tẩy
Những trang văn của người nghệ sĩ gợi lại cho người đọc biết mọi nhuốc nhơ, nhục nhã ê chề của đời ca nữ, kỹ nữ trên sông
bao quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc ta, nhấn mạnh sự Hương:
hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Với người Huế,
với những người yêu sông Hương, dòng sông này không “Răng không cô gái trên sông
những là một bản hùng ca, một bản trường ca mà còn là một Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
bản tình ca giữa đời thường. Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
Trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử, từng nhánh rẽ Thi đàn Việt Nam cũng đã ghi nhận biết bao nhiêu tao nhân,
của dòng sông cho đến cả những cây đa, cây cổ thụ bên dòng mặc khách buông lòng mình về dòng Hương. Trong thơ Hàn
sông cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã tiến hành Mặc Tử, cũng đã từng gây cho bạn đọc những bồi hồi và ám
một “cuộc quay ngược thời gian” ngoạn mục để trở về quá ảnh:
khứ, khẳng định vai trò của sông Hương trong lịch sử dân “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
tộc. Với một đất nước có bề dày lịch sử như Việt Nam, kể từ Có chở trăng về kịp tối nay”
thời vua Hùng , sông Hương đã là dòng sông biên thùy xa
xôi. Bước sang thời trung đại, với tên gọi khác là Linh Giang Nhà thơ Thu Bồn cũng đã từng viết trong tác phẩm của mình:
nó đã cùng với nhân dân Huế “oanh oanh liệt liệt” bảo vệ
phần biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương “Con sông dùng dằng con sông không chảy
gắn liền với những chiến công của người anh hùng áo vải Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Quang Trung – Nguyễn Huệ. Trải qua những cuộc chiến tàn
khốc và đẫm máu của những cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX, Hương Giang cứ tự tình, lặng lờ mà đem trong mình chất thơ
sông Hương gắn liền với cuộc cách mạng tháng Tám với đầy ăm ắp như thế. Ký của Hoàng Phủ cứ thôi thúc con người
những chiến công vang dội, rung chuyển. Đặc biệt là trong
ta phải đến Huế một lần, thôi thúc con người ta tìm đến Hoàng Phủ chọn một huyền thoại, để lý giải về một cái tên.
những tứ thơ về dòng Hương, dòng Huế... Vì yêu thương dòng sông này, những người dân ven sông đã
nấu thứ nước của hàng trăm loài hoa đổ xuống để nước của
Trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương mang một vẻ dòng sông này thơ mát muôn đời. Tôi tự hỏi, mình có đang
đẹp dịu hiền và khiêm nhường như thế. Điều làm nên vẻ đẹp thực lòng thực dạ muốn ôm trọn hình ảnh của dòng sông này
đáng trọng của con sông chính là biết lắng nghe lời kêu gọi vào trong trái tim hay không? Bởi lẽ, Hoàng Phủ Ngọc
của Tổ quốc và hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Khi trở về Tường đã quá xuất sắc khi xây dựng hình tượng về dòng
với cuộc sống bình thường, sông Hương dịu hiền hệt như Hương – dòng Huế qua những góc nhìn khác nhau: góc độ
người con gái Huế. Những đổi thay bất ngờ của sông Hương lịch sử, góc độ thiên nhiên, góc độ thi ca, góc độ âm nhạc,
mang dáng dấp của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam góc độ cuộc đời,...
suốt mấy nghìn năm qua. Những biến thiên của cuộc đời suốt
mấy ngàn năm lịch sử cho thấy sự thích ứng của con người Bài ca về sông Hương sẽ còn được biết bao nhiêu con người
Việt Nam là vô hạn, sức mạnh của con người Việt Nam là vô hát hoài hát mãi. Ký ức có trôi đi, thì lịch sử vẫn luôn nhuộm
hạn. Luôn tự làm mới mình, cũng chính vì điều này, mà sông một màu tự hào chói lọi lên dòng sông của một khúc tâm
Hương luôn gây được thiện cảm với bất kỳ ai biết tới. tình. Dòng Hương – một dòng văn hóa – một dòng Huế thật
thơ!
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm
lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua
đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn
về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng
định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở
thể bút ký đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng
biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học
về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê
hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế
mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:

“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự
mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí.
Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và
khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà
sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi
mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.

3. Khái quát, giải mã nhan đề:


II. TÀI LIỆU MỞ RỘNG: KB2:
1. Mở bài: Con sông Hương thơ mộng của xứ Huế đã làm ngẩn ngơ
không ít những tâm hồn nhạy cảm và cũng làm đắm say
MB1: không ít bậc nghệ sĩ tài hoa. Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ
Nhà thơ Thu Bồn đã từng viết trong tác phẩm của mình: Thu Bồn viết về sông Hương: “Con sông dùng dằng con sông
không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và đến
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành nàng
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
thơ của xứ Huế. Từ thủy trình của dòng sông đến những nét
Những câu thơ quen thuộc nhắc nhớ về dòng Hương – dòng đẹp văn hóa, lịch sử, thi ca hội tụ trong nó đều được nhà văn
sông, dòng Huế, dòng thơ. Đã có biết bao nhiêu người nghệ sĩ quan sát một cách tinh tế và chan chứa tình yêu với cái đẹp
đã từng sinh ra ở Huế, sống tại Huế, tới Huế khi đến với dòng của thiên nhiên đất nước. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là
Hương đều “nặng lòng” với “người con gái này”. Không phải đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về con sông xứ Huế,
tự nhiên, sông Hương lại đi vào trong những tác phẩm nghệ chinh phục người đọc bằng những cảm xúc sâu lắng được
thuật một cách tự nhiên và tình tứ như thế. So với những tổng hợp từ một vốn kiến thức phong phú, uyên bác, văn
dòng sông được thi ca gọi tên, Hương giang mang vẻ đẹp và phong tao nhã, tinh tế và tài hoa. Đây không chỉ là một trong
sức quyến rũ của riêng mình. Đó cũng là nguyên cớ tại sao, những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút
một người yêu Huế nồng nàn như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kí đặc sắc vào bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
viết về sông Hương một cách rất tình, rất sâu như thế! Đọc
KB3:
ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc
Dòng sông Hương đã từng là hình tượng trở đi trở lại trong
Tường, ta thấy nổi bật trong tác phẩm chính là vẻ đẹp của
rất nhiều những tác phẩm hay. “Ai đã đặt tên cho dòng
dòng Hương giang. Một dòng sông của thi ca, dòng sông văn
sông?” của nhà văn Hoàng Phủ không chỉ hay mà còn đẹp.
hóa, dòng sông lịch sử, dòng sông thuộc về con người Huế,
Đẹp trong từng hình ảnh, đẹp trong câu từ, đẹp trong suy
ôm trọn trong mình phong cách Huế.
nghĩ, trong cảm xúc của một con người yêu Huế và yêu sông
MB2: Hương vô cùng. Từng bước dùng lời văn của mình chiếm lấy
Ai đó đã từng có nói rằng: “Đất nước có nhiều dòng sông trái tim của đọc giả, đưa đọc giả về một miền đất để nhớ để
nhưng chỉ có một dòng sông để thương để nhớ, giống như thương quá nhiều. Chợt lại nghe bâng khuâng đâu đây những
cuộc đời của mỗi con người, có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có câu hát còn vang vọng:
một cuộc tình để mãi mãi mang theo. Dòng sông để thương
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
để nhớ của mỗi người rất khác nhau. Nếu như Văn Cao cả đời
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
gắn liền với dòng sông Lô hùng tráng, nếu Hoàng Cầm là nỗi
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
nhớ khi ta đi ngang qua “sông Đuống trôi đi một dòng lấp
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư...”
lánh”, nếu Hoài Vũ cả đời gắn liền với con sông Vàm Cỏ tha
thiết chở Phù Sa thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại song hành
cùng trái tim độc giả qua ký: “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

2. Kết bài:

KB1:
Thiên nhiên Huế thật dịu dàng và thơ mộng dưới ngòi bút của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cuộc hành trình mà người đọc được
trải nghiệm qua “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” lần lượt theo
dòng chảy của Hương giang, tôi bắt gặp khung cảnh thiên
nhiên Huế lúc nguyên sơ, trong trẻo, lúc mượt mà, khi kì ảo,
lúc dịu dàng say đắm, khi thâm trầm trang nghiêm. Tất cả đều
sống động qua tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường
với con sông này. Không hiểu sao đọc xong ký của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, có những dòng thơ cứ trở đi trở lại trong
tôi:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy


Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
Văn bản: SÓNG Câu chuyện tình yêu Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ:
-Xuân Quỳnh-
“Hơn Lưu Quang Vũ sáu tuổi, một đời chồng, lại đèo bòng
“Nếu nói Xuân Quỳnh là một chồi thơ, thì phải nói thêm, đấy con riêng, nhà thơ Xuân Quỳnh từng bị mẹ chồng phản đối
là một chồi thơ khỏe, tràn đầy sức sống và hứa hẹn một cây kịch liệt và gay gắt. Bà Khánh – mẹ của Vũ quan niệm, phụ
thơ vững chắc, xanh tươi. Nói một cách khác, Xuân Quỳnh nữ một lần đò, chẳng khác gì cốc chè hâm lại, sẽ chẳng thể có
đến với thơ một cách hồn nhiên, không chút cố tình, gượng được kết cục tốt đẹp. Thậm chí, bà từng nói thẳng: “Tôi
ép; trong chị thực sự có một hồn thơ - đó là điều đáng quý không bao giờ chấp nhận mối tình này”. Thế nhưng, may
nhất đối với những ai được gọi là thi sĩ”. mắn thay, bố ruột của anh là người hiểu chuyện. Ông đã nhờ
Chu Nga nhiều văn sĩ nổi tiếng thuyết phục bà Khánh. Cuối cùng bà
cũng nguôi ngoai và chấp nhận Quỳnh là con dâu của mình.
Không chỉ vậy, nhà viết kịch Ngọc Thụ kể, ở cơ quan, Vũ
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Xuân Quỳnh còn chịu rất nhiều điều tiếng. Bị bạn bè, đồng nghiệp nói ra
nói vào khiến anh ngại ngùng, trở nên khép mình hơn. Thế
- Người phụ nữ sinh ra để yêu và làm thơ
- Đề tài: Tình yêu và thiếu nhi nhưng, hai người vẫn lặng lẽ vượt qua miệng lưỡi thế gian, ở
Từ - Hồn thơ: trắc ẩn, hồn nhiên, tươi tắn, chân thành, bên nhau hơn chục năm trời. Thời ấy, đôi vợ chồng bạc phận
khó đằm thắm, khát vọng hạnh phúc sống trong căn hộ rộng 6m2 ở phố Huế. Đó là một gia đình
a - Nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì kỳ lạ, có đầy đủ “con anh, con tôi, con chúng ta”. Vậy nhưng,
chống Mỹ lúc nào cũng ngập tràn mùi hương mộc mạc của sách vở và
tiếng cười hạnh phúc, yêu thương. Năm 1976 khi Xuân
Xuân Quỳnh - người phụ nữ sinh ra với sứ mệnh để yêu và Quỳnh đi công tác miền Nam, Lưu Quang Vũ và Xuân
làm thơ. Được mệnh danh như vậy bởi chính chị từng tâm sự Quỳnh thường xuyên gửi thư cho nhau.Trong một bức thư
rằng: tình, Lưu Quang Vũ có viết: “Em đi đã được một tuần. Nhớ
“Nếu ngày mai em không làm thơ nữa em và buồn lắm. Mấy bố con ở nhà vẫn bình thường. Mẹ đi
Cuộc sống trở về bình yên vắng. Mí cứ quấn bố, tối không chịu xuống bà. Hôm nào cũng
Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm bảo: bố với em đi đón mẹ đi. Mí ăn được, ngủ được, vẽ thêm
Không nỗi khổ không niềm vui kinh ngạc” nhiều tranh mới. Tuấn Anh xuống bác, bà Tuấn Anh vẫn ở
đây, ngày nào Tuấn Anh cũng về đi bơi, xong ăn cơm chiều
Trong chặng đường sáng tác, Xuân Quỳnh lấy cảm hứng từ
với bà hoặc với anh rồi lại xuống bác. Kít thì vẫn về luôn”.
hai đề tài chính đó là tình yêu và thiếu nhi. Những vần thơ
Trong thơ của mình, Xuân Quỳnh từng viết:
của nữ thi sĩ bộc bạch tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ
nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, “Chỉ còn em và anh
đằm thắm và luôn da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. Cùng tình yêu ở lại”
Nếm trải nhiều trong trường đời, sau này, Xuân Quỳnh có
tâm sự về nghiệp thơ: “Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy Như một điềm báo xót xa về tương lai của họ. Hay như trong
như mình được sống thêm một cuộc đời nữa. Vì uất ức. Khi một bài thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ viết tặng người vợ
mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi phải quyết sống. thương yêu của mình cũng có những câu khiến người đọc
Mà sống tức là phảiviết. Nói được niềm vui nỗi khổ của mình, phải suy nghĩ:
tôi cảm thấy có cái sung sướng không mấy ai có! Như người
khác không được yêu, mình được yêu. Như người khác chỉ “Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay
biết im lặng mà mình biết nói, và nói lên được thành tiếng”. Ta đã có những ngày vui sướng nhất
Đã uống cả men nồng và rượu chát
Đã đi qua cùng tận của con đường
Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên
Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt.”

Tình yêu đẹp đẽ của Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ giống


như pháo hoa. Bung nở rực rỡ, khiến mọi người đều trầm trồ
ngưỡng mộ. Thế nhưng lại nhanh chóng tàn lụi, khiến tất thảy
đều đau lòng thổn thức. Một vụ tai nạn thương tâm đã cướp
đi sinh mệnh của 2 văn sĩ tài năng, để lại hậu thế một tiếng
thở dài chua xót.
Trích doanhnghiepvn
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: hồn thơ Xuân Quỳnh. Theo cách ấy, Xuân Quỳnh là người
đàn bà bước dưới đạn bom mà làm thơ về sự sống. Không bị
- Được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế tại vùng mắc kẹt bởi nguồn thơ lửa máu, nên chị không phải bận lòng
biển Diêm Điền - tỉnh Thái Bình. Khi chị vừa bước vào độ tìm lối ra như bao người khác. Tạnh bom đạn, về lại đời
tuổi 25. thường, mạch thơ Xuân Quỳnh vẫn cứ đà xưa mà tuôn chảy.
- Đó là những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc Chỉ khác là, giờ đây những tâm sự đàn bà nhất được dịp khơi
kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai, là khi thanh niên sâu, những tiếng lòng từng cắt xén được hồn nhiên biểu tỏ.
trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy Thiết tha với một tình yêu nặng về gắn bó, chở che và chia sẻ,
mới thấy rõ được nỗi khát khao của người con gái trong tình chị luôn trăn trở với sự mong manh của yêu đương, sự bấp
yêu. bênh của hạnh phúc, luôn băn khoăn về nỗi lạnh nhạt của thời
Cách ghi nhớ: gian, phôi pha của tuổi trẻ, luôn nơm nớp với mưa bão bất
 1967: Chuyến đi thực tế tại Diêm Điền - Thái Bình. thường, đổ vỡ xa xôi... Đây là lúc những suy ngẫm về trái tim
 25 tuổi. đập sau làn áo mỏng, về bàn tay ngón chẳng thon dài luôn
sóng sánh trong thơ chị. Những dự cảm về nhà ga của chia ly
Để hiểu hơn về hồn thơ Xuân Quỳnh các em có thể tham gặp gỡ, con tàu của khát khao đi hồi hộp mỗi khi về luôn cồn
khảo thêm tài liệu mở rộng dưới đây nhé! cào trong thơ chị. Những nỗi cỏ dại bị dày xéo, hoa dại bị bỏ
quên, mây trắng mải phiêu dạt, lá vàng ngày một thưa, cỏ
Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho
may thèm giữ mãi, hoa cúc muốn y nguyên luôn khắc khoải
nhiều thế hệ. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu
trong thơ chị... Càng lo liệu đắp bồi, càng lo âu phấp phỏng.
chưa từng nguôi yên. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn
Con sóng thơ trong hồn chị càng về sau càng nặng trĩu những
năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho mai hậu qua mỗi
u uẩn của một lòng nữ vốn cả nghĩ cả lo. Cất lên những nỗi
tiếng thơ mình. Và, lâu nay, lòng thơ của mỗi chúng ta, người
niềm máu thịt ấy, Xuân Quỳnh thực là người đàn bà của
mờ người tỏ, người đang yêu, người đã yêu, đều từng thầm
muôn thuở.
thu thầm phát thứ sóng đặc biệt ấy: sóng Xuân Quỳnh.
Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ ; sáng tạo và cách
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay tân, tất tật là nhất thể. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác
Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng chị sinh ra là để lạ cho thơ, chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải
dành cho thơ. Dù đầu đời, vốn học vấn còn chưa cao, nhưng thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn
hồn thơ ở người con gái đất La Khê - Hà Đông ấy đã luôn dồi vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi
dào và dạt dào. Dù chặng đời đầu từng dấn thân vào nghiệp điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son
múa, nhưng chị đã sớm rời sân khấu để ra nhập thi đàn. Dù phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi
cuộc sống nhiều trắc trở với tuổi thơ lận đận, tuổi xuân gian mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh.
lao, tổ ấm đầu đổ vỡ, tổ ấm sau sóng gió, nhưng lòng chị vẫn Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật : thơ là
không khi nào nguôi thơ. Các tập thơ vẫn tuần tự ra đời theo sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ
mỗi chặng đường, từ đầu cuộc chiến chống Mỹ đến thống Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn
nhất hòa bình : Chồi biếc, Hoa dọc chiến hào, Gió lào cát nguôi. Với nhiều giải thưởng cao quý, mà mới đây là Giải
trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ thưởng Hồ Chí Minh, Xuân Quỳnh đã được vinh danh ở bậc
may. cao nhất dành cho những nghệ sĩ có nhiều đóng góp với chính
thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Và điều ấy là
Cứ thế, sóng thơ náu sẵn trong hồn đã thầm dẫn lối cho chị ra xứng đáng, dù khi bầu, hội đồng giải thưởng đã từng bỏ quên.
với biển lớn thi ca để trở thành một tên tuổi nổi bật trong nền Giờ đây, đặt chân dung nữ thi sĩ Xuân Quỳnh vào dòng thời
thơ Việt hiện đại. Nếu không làm thơ nữa, Xuân Quỳnh gian, thì không chỉ đặt chị vào vị trí đầu của top thi sĩ cùng
không còn là mình. Thơ thực là nghiệp dĩ của chị. Thơ Xuân thời Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Nhã
Quỳnh là niềm đau đáu bình an giữa thời tao loạn. Khi binh Ca... Mà theo trục dọc, phải đặt chị trong cái mạch thưa thớt
lửa, đạn bom cuốn mọi thân phận, mọi nguồn lực vào cuộc những nữ sĩ xuất chúng của thơ Việt như Hồ Xuân Hương,
chiến, thơ ca cũng không thể không say máu anh hùng mà cất Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan... Xuân Quỳnh thực
lời sắt máu. Dù không thể cưỡng lại thời, song, những tiếng là một trong những gương mặt nữ sáng giá nhất của thơ Việt.
thơ thầm kín và mãnh liệt nhất, Xuân Quỳnh vẫn chỉ dành Có lẽ vị trí ấy mới là điều công chúng nghệ thuật Việt hôm
cho niềm khao khát yên lành : cho góc vườn đôi lứa, tổ ấm qua và hôm nay muốn dành cho nữ thi sĩ này. Và vị trí ấy của
sáng đèn, vành nôi sơ tán, chiếc tã ban mai, cho lời ru thèm Xuân Quỳnh, dường như mỗi chúng ta hôm nay ở đây cũng
mặt đất, tiếng gà nhớ nắng trưa, cho những bông hoa nghẹn đã dành sẵn trong lòng mình. Cũng như mỗi lòng yêu đã dành
hương, những cánh chuồn lạc bão... những thứ bé mọn thôi, sẵn một bến bờ để sóng Xuân Quỳnh tìm về vỗ mãi.
vô nghĩa nữa, mà lại hằng nhen nhóm, cưu mang, chăm chút
cả cõi đời. Đó mới thực là những con sóng dưới lòng sâu của Nhận xét về tác giả, tác phẩm:
1. “... Sóng là một bài thơ về tình yêu. Có hàng trăm dáng vẻ
của thơ tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ hoài niệm,
thơ đau khổ vì thất tình... Sóng là bài thơ giãi bày và chiêm
nghiệm...” - Trần Đình Sử

2. “Xuân Quỳnh viết bài này “bợm” thật!” - Nhà thơ Vũ Cao

3. "Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay
tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ...”
- TS Chu Văn Sơn
1. Khổ 1: Sự đối lập - Thông điệp tình yêu mới mẻ:
4. “Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội,
nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là - Sử dụng các cụm từ đối lập: dữ dội >< dịu êm,
khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân ồn ào >< lặng lẽ
vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở” - GS TS Trần Đăng + Những trạng thái đối cực của con sóng
Suyền + Những trạng thái đối cực của tình yêu
+ Những trạng thái đối lập của người con gái khi yêu.
5. “Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không - Liên hệ:
lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh + “Thuyền và biển” – Xuân Quỳnh:
là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển “Vì tình yêu muôn thủa
hình cho qui luật : thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có Có bao giờ đứng yên”
lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân + “Em bảo anh đi đi” – Puskin:
Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” - TS Chu Văn Sơn “Em bảo: "Anh đi đi"
Sao anh không đứng lại ?
6. “Thơ Xuân Quỳnh chất chứa tình yêu thương con người,
Em bảo: "Anh đừng đợi"
như một “bản năng gốc”, từ đó làm nên chất thơ rất đậm nét ở
Sao anh vội về ngay ?
chị. Xuân Quỳnh làm thơ dễ dàng, như lời “tự hát” ấp ủ từ
Lời nói thoảng gió bay
đâu đó, ngân nga mỗi khi có dịp, câu thơ trôi chảy kể cả
Đôi mắt huyền đẫm lệ
những khi diễn đạt những điều tế nhị, sâu kín. Những tình
Mà sao anh dại thế
cảm được biểu hiện tự nhiên, chân thực, một cách đầy chất
Không nhìn vào mắt em
thơ” - Nhà thơ Lê Thành Nghị
Mà sao anh dại thế
7. “Thơ Xuân Quỳnh có nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, Không nhìn vào mắt em
khi đắm say hạnh phúc, lúc day dứt suy tư. Nhưng xuyên suốt Không nhìn vào mắt sầu
các tập thơ của chị là một tình yêu sâu nặng không nhạt phai. Không nhìn vào mắt sâu ?”
Trong cái hữu hạn ngắn ngủi của cuộc đời, tình yêu trở thành - Từ “và": thể hiện mối quan hệ song hành. Những trạng thái
vĩnh cửu. Với bản chất trong sáng và tinh diệu của nó, tình đối lập này thường đi liền với nhau, không tách rời, tạo ra
yêu không thể bị thời gian tàn phá, bị không gian chia rẽ và những xúc cảm đặc biệt trong tình yêu.
ngăn cách. Tình yêu bất tận và bền vững, vượt ra ngoài cái - Thông điệp tình yêu mới mẻ:
giới hạn thường tình của lẽ tử sinh.” – Lưu Khánh Thơ + Người phụ nữ hiện đại dám đấu tranh vì tình yêu, vượt
qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc
8. “Có lẽ từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, đích thực.
phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ + Chủ động buông bỏ những giới hạn chật hẹp, tầm thường
mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn được thể hiện ở một (sông) để tìm ra biển lớn tình yêu - tình yêu đích thực
tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào phong phú như vậy...” - Nhà trong cuộc đời (biển, đại dương).
thơ Vũ Nho - Liên hệ:
+ “Hương thầm” – Phan Thị Thanh Nhàn:
“Dấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay!
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,
Bên ấy có người ngày mai ra trận!
Bên ấy có người ngày mai đi xa.”

III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:


2. Khổ 2: Khát vọng tình yêu: - Biết bao nhiêu thế kỷ trôi qua rồi, con người vẫn cứ mãi
phân vân đi tìm câu trả lời cho tình yêu, say mê với tình yêu,
- Thán từ “Ôi”: bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái cảm xúc dành trái tim của mình để sẵn sàng đập nhanh hơn vì một
trào lên trong lòng. người.
- Đối “Ngày xưa” >< “Ngày sau”: chỉ khoảng thời gian quá => Quy luật của tình yêu là không có quy luật nào ca. Bởi em
khứ và hiện tại. vẫn sẽ can đảm bên cạnh anh, yêu anh bằng tất cả đủ đầy cảm
- “Vẫn thế”: chỉ sự bất biến, không đổi thay. xúc.
- Chủ thể: khát vọng tình yêu - Tình yêu vốn dĩ là một ẩn số giữa hai tâm hồn chứa đầy bí
- Không gian - điều kiện cần: bồi hồi trong lồng ngực của mật.
người trẻ + Liên hệ: “Xa cách” – Xuân Diệu
=> Khát vọng tình yêu là khát vọng của muôn đời, của quá “Dẫu tin tưởng chung một đời, một mộng.
khứ, của hiện tại, của tương lai, chỉ cần trong trái tim những Em là em, anh vẫn cứ là anh.
người trẻ còn đang đập những nhịp ngân rung thì khát vọng Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
tình yêu sẽ trường tồn mãi mãi. Còn đại dương là còn sóng, Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.”
còn những trái tim đang đập trong lồng ngực là còn tình yêu.
- Liên hệ: 4. Khổ 5: Nỗi nhớ:
+ “Bài thơ tuổi nhỏ” – Xuân Diệu:
- Biên độ: Mở rộng từ 4 lên đến 6 câu.
“Làm sao sống được mà không yêu
+ Phá vỡ những quy luật về độ dài của một khổ trong cả bài.
Không nhớ, không thương một kẻ nào?”
+ Để diễn tả cho thỏa, cho đạt sự ngút ngàn của nỗi nhớ.
+ “Đôi mắt xanh non” – Xuân Diệu:
- Hai hình tượng “Sóng” và “Em” đan xen với nhau.
“Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non
+ 4 câu trước, em ẩn mình trong sóng để bộc lộ những cảm
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
xúc trong lòng.
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu
+ 2 câu sau, em tác mình ra khỏi sóng để hạ lời thì thầm hai
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu.”
tiếng “em – anh”.
3. Khổ 3+4: Cuộc truy tìm căn nguyên: - Nỗi nhớ:
+ Bao trùm không gian: “Dưới lòng sâu”, “Trên mặt nước”
- Nhân vật em giờ đây đã không còn giấu mình sau những + Bao trùm thời gian: Ngày, đêm.
cơn sóng, không còn mượn lời sóng để nói hộ lòng mình nữa + Xuất hiện trong: Tiềm thức, ý thức, vô thức.
mà đã tách mình ra khỏi sóng để hạ lời thì thầm hai tiếng => Cái thức trong mơ chính là biểu hiện cao nhất của nỗi
“em - anh”. nhớ, nỗi nhớ bây giờ không chỉ xuất hiện trong ý thức, tiềm
- Em đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn những thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức.
con sóng. Và em bỗng lắng lòng lại nghĩ về anh, về bản thân - “Lòng em”: là nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn của người
em và về tình yêu của chúng ta. nghệ sĩ.
- Tự đặt ra một câu hỏi cho lòng mình, để truy tìm căn + Khi nói “Lòng em nhớ đến anh” có nghĩa là em đang dốc
nguyên của con sóng nhưng cũng chính là lúc em muốn truy cả tâm can của mình để trao gửi nỗi nhớ thương ấy đến
tìm căn nguyên của tình yêu. anh – tình yêu đích thực của cuộc đời.
- Tìm ra được khởi nguồn của con sóng là từ gió nhưng gió - Liên hệ:
đến từ đâu thì em chưa biết. + “Thuyền và biển” – Xuân Quỳnh:
=> Em đã thất bại trong cuộc truy tìm của mình. “Những ngày không gặp nhau
- Để trả lời cho câu hỏi của chính mình em đã buông nhẹ một Lòng thuyền đau rạn vỡ
cái lắc đầu đáng yêu: “Em cũng không biết nữa”. Những ngày không gặp nhau
- Trái tim em luôn đi tìm sự lý giải, cắt nghĩa tình yêu của Biển bạc đầu thương nhớ”
chính mình: + “Tương tư, chiều...” – Xuân Diệu:
+ Chúng ta yêu nhau từ bao giờ, yêu nhau vì điều gì,.... “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
+ Nhưng tất cả đều là những câu hỏi khó để trả lời hoặc Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”
cũng có thể là sẽ chẳng có câu hỏi nào trọn vẹn cả.
- Liên hệ: “Vì sao” – Xuân Diệu
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...”
5. Khổ 6: Khát vọng thủy chung: 7. Khổ 8: Những lo âu, trăn trở:

- Sử dụng phạm trù đối lập “Dẫu xuôi” >< “Dẫu ngược”, - Cặp phạm trù đối lập “tuy” >< “vẫn” , “dẫu” >< “vẫn”: Thể
“phương Bắc” >< “phương Nam”: hiện những triết lý về sự vĩnh hằng của vũ trụ bao la đối lập
+ Đặt giả thiết “dẫu” = Cho dù, chưa xảy ra. với sự hữu hạn của đời người.
+ Cách nói lạ hóa “xuôi về phương Bắc”, “ngược về phương => Xuân Quỳnh là người rất đỗi nhạy cảm với những bước đi
Nam” đã trở thành một tín hiệu nghệ thuật độc đáo – lời của thời gian. Và chính sự nhạy cảm ấy đã dẫn chị tới tâm
tâm tình, khát vọng của Xuân Quỳnh. trạng lo âu, khắc khoải. Thế nhưng đến với “Sóng”, Xuân
=> Mượn phương hướng của trời đất để khẳng định lòng thủy Quỳnh đã vượt qua quy luật đó để tìm thấy sự lạc quan trong
chung là sáng tạo mới mẻ của Xuân Quỳnh. chính mình. Lựa chọn sống tích cực, không chán nản, tuyệt
+ Cuộc đời này còn ẩn chứa rất nhiều những éo le mà em và vọng, sống hết mình cho mỗi phút giây.
anh cần phải trải qua. - Liên hệ:
- Đất trời này dẫu có bốn phương tám hướng, có xuôi phương + “Vội Vàng” – Xuân Diệu:
Nam hay ngược phương Bắc thì trái tim em cũng chỉ có duy “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
nhất một phương để hướng về đó là phương anh – phương Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
của hạnh phúc, của tình yêu, của khát vọng đợi, chờ, yêu, tin. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
- Liên hệ: “Thuyền và biển” - Xuân Quỳnh Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Biển mênh mông nhường nào
+ “Hoa cỏ may” – Xuân Quỳnh:
Chỉ có biển mới biết
“Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Thuyền đi đâu, về đâu” Áo em sơ ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,
6. Khổ 7: Sự suy ngẫm: Ai biết lòng anh có đổi thay ?”

- Từ “dẫu” đã có một sự biến đổi khéo léo thành từ “dù” – 8. Khổ 9: Khát vọng hóa thân:
đây là sự lật trở ý thơ vô cùng tài tình.
+ Để ngoài việc khẳng định một tình yêu thủy chung Xuân - “Biển”: Biển lớn tình yêu.
Quỳnh còn muốn san sẻ những hạnh phúc của tình yêu. - “Sóng”: Khát vọng hóa thân cho cái tôi cá nhân.
- Nghệ thuật đảo 2 câu cuối: “Dù muôn vời cách trở - “Trăm ngàn”: Con số ước lệ chỉ sự vô cùng, vô tận.
Con nào chẳng tới bờ” - Đặt trong thời điểm ra đời ở đây cũng có thể hiểu: mang
+ Để theo thông thường: Ý thơ thuận hơn và sự khẳng định tình yêu cá nhân của mình hòa nhập vào tình yêu Tổ quốc.
trở nên chắc chắn, đầy lý trí với một kết thúc bình ổn, có => Cái tôi cá nhân mong muốn được hóa thân, được tan ra
hậu. thành trăm ngàn con sóng nhỏ, được hòa vào đại dương để
+ Kết cấu đảo: Khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh, vĩnh viễn hát mãi khúc ca ngàn năm.
mang chút cảm tính và vì thế niềm tin mãnh liệt chân - Người phụ nữ muốn được tan mình ra trở thành những con
chính vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có thêm dư sóng để hòa nhập vào biển lớn tình yêu. Khao khát sự đồng
vị đắng cay của người từng trải. điệu tuyệt đích vô biên, phá vỡ mọi giới hạn, mọi khoảng
- Hành trình của sóng tìm ra đại dương với rất nhiều những cách để sống trọn vẹn với tình yêu trong từng hơi thở nồng
gian khổ nhọc nhằn, có những khi sẽ gặp bão giông hay sóng nàn. => Khao khát được sống trong tình yêu vĩnh hằng không
gió. Thế nhưng cuối cùng, vượt qua tất cả mọi khó khăn trở chỉ xuất hiện khi chị ở độ tuổi 25 mà sau này khi đã đi qua
ngại, sóng vẫn tìm được đến nơi đích thực thuộc về mình. những giông bão trong cuộc đời thì đó vẫn là khát khao mà
- Cũng giống như hành tình của em tìm đến tình yêu của chị mong mỏi.
mình, bỏ qua tất cả những giới hạn nhỏ bé, tầm thường để - Liên hệ:
đến bên anh – tình yêu đích thực của cuộc đời em. + “Tự hát” – Xuân Quỳnh:
- Liên hệ: “Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
+ Ca dao: Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua” Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
+ “Thơ tình cuối mùa thu” – Xuân Quỳnh: + “Thơ tình cuối mùa thu” – Xuân Quỳnh:
“Thời gian như là gió
“Tình ta như hàng cây
Mùa đi cùng tháng năm
Đã qua mùa gió bão Tuổi theo mùa đi mãi
Tình ta như dòng sông Chỉ còn anh và em
Đã yên ngày thác lũ” Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...”
Phân tích chi tiết: Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông,
của con sóng và của “bể”, ở đây có thể hiểu là biển, là đại
1. Khổ 1: Sự đối lập - Thông điệp tình yêu mới mẻ: dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông đổ về biển lớn,
sóng không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng
Viết về đề tài tình yêu, đặc biệt khi lựa chọn hình tượng sóng
chuyển mình ra biển lớn, tìm về đại dương, tìm đến nơi thuộc
làm hình tượng chính cho tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh
về. Ở hai câu thơ này, mạch sóng như bứt phá ra khỏi một
không phải là người nghệ sĩ đầu tiên nhưng lại là người
không gian chật hẹp để tìm đến những điều lớn lao. Cũng
nghệ sĩ vô cùng tinh tế, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của
giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ, vượt qua
trái tim người phụ nữ . Điều này được thể hiện rõ qua những
những giới hạn nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu
vần thơ:
đích thực của cuộc đời mình. Có thể thấy rằng, đây cũng
“Dữ dội và dịu êm chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh,
Ồn ào và lặng lẽ cũng là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ
Sông không hiểu nổi mình hiện đại, dám đấu tranh vì tình yêu, vượt qua những thứ lễ
Sóng tìm ra tận bể” giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc đời
mình. Nếu như trong bài “Hương thầm” nhà thơ Phan Thị
Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi Thanh Nhàn từng viết:
cũng đã từng tìm về biển với những mong mỏi được trải lòng
và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại dương bao la, “Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
trước muôn trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có Cô gái ngượng ngùng sang nhà hàng xóm
trong mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới tận bây giờ, Bên ấy có người ngày mai ra trận
biển vẫn hát khúc ca của đại dương, và chúng tôi, độc giả của Bên ấy có người ngày mai đi xa”
những năm tháng này, vẫn ru hoài giấc mơ qua những thi
Để rồi họ chia tay mà chẳng dám nói với nhau điều gì. Xuân
phẩm khởi nguồn từ con sóng. Trong khổ thơ này, nghệ thuật
Quỳnh thì không như vậy, chị luôn quan niệm không chỉ
đối đã được sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập:
riêng con trai có thể chủ động trong tình yêu, mà người phụ
“Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng lẽ” là biểu hiện rõ ràng
nữ cũng vậy, phải chủ động tìm đến tình yêu để sống được là
nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại
chính mình. Đây chính là thông điệp mới mẻ mà Xuân Quỳnh
dương. Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ
muốn gửi gắm đến bạn đọc qua khổ thơ này.
nhàng, êm dịu, khi có bão đi ngang biển động
Hơn cả những gì anh nghĩ, dẫu đó thực chất là trái tim mềm
sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái
yếu của em thì em vẫn muốn dùng sự mạnh mẽ của chính
đối cực của sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của
mình để hướng tới, để theo đuổi tình yêu duy nhất trong cuộc
tình yêu, có những khi rất bình yên, nhưng cũng có những
đời của mình. Những điều em muốn nói cùng anh là những
ngày bão tố. Ta cũng có thể hiểu hai câu thơ này theo một
điều không thể nào ngăn cách, bao mong mỏi, bao buồn vui
trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực của trái tim người
đau khổ cuộc đời cũng không thể ngăn nổi trái tim mềm yếu
phụ nữ khi yêu, một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi
hướng tới tình yêu. Bởi duy nhất chỉ có phương anh mới
vui, khi buồn, khi giận hờn, khi trách móc, khi hạnh phúc, khi
khiến trái tim em thổn thức. Thế nên Xuân Quỳnh mới viết:
tổn thương,... những cung bậc cảm xúc của tình yêu quả thật
rất diệu kỳ bởi một lẽ: “Tôi ghét bầu trời sau khung cửa bình yên
Con đường vắng người đi và hàng cây lộng gió
“Vì tình yêu muôn thủa
Tôi yêu dòng sông mùa nước lũ
Có bao giờ đứng yên”
Sông phá phách ngàn đời nhưng đỏ lặng phù sa”
Ý thơ chưa dừng lại ở đó, bởi nội tâm của người phụ nữ vốn
dĩ sâu sắc hơn những gì ta tưởng tượng . Hai câu thơ này còn
diễn tả sự yếu đuối tất yếu bên trong của người phụ nữ khi có
những mạnh mẽ che phủ bên ngoài. Suy cho cùng, sau tất cả
những hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời, những trái tim ấy vẫn thuộc
về trọn vẹn tâm hồn phái yếu. Chuyển đến hai câu thơ tiếp
theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân Quỳnh:

“Sông không hiểu nổi mình


Sóng tìm ra tận bể”
2. Khổ 2: Khát vọng tình yêu: em nghĩ về tình yêu của chúng ta. Cảm giác nhỏ bé trước
khoảng không bao la vốn dĩ là cảm xúc bình thường có được.
Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình Thế nên:
yêu để đến bây giờ, biết bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi, những
độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình yêu của mình cho một “Đừng ví em là biển
mảnh “tình thơ” đã cũ . Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi Sâu thẳm và bao la
là khát vọng của tuổi trẻ, của lứa đôi: Thuyền nan em bé nhỏ
Không xa được bến bờ...”
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế Trước khoảng không vô tận và đối diện với trái tim, em tự đặt
Nỗi khát vọng tình yêu ra một câu hỏi cho lòng mình, để truy tìm căn nguyên của
Bồi hồi trong ngực trẻ” sóng nhưng cũng chính là lúc em muốn truy tìm căn nguyên
của tình yêu.
Thán từ “ôi” được sử dụng, bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái
cảm xúc đang trào lên trong lòng. Cặp từ đối “ngày xưa” – “Sóng bắt đầu từ gió
“ngày sau” khiến cho người đọc có biết bao nhiêu liên tưởng. Gió bắt đầu từ đâu
Đó là thời gian chỉ quá khứ, quá khứ nối dài đến hiện tại, Em cũng không biết nữa
tương lai để nhắc nhở người trẻ chúng ta về thông điệp ý Khi nào ta yêu nhau?”
nghĩa. Trải qua hàng ngàn hàng vạn năm, từ khi đại dương
xuất hiện, những con sóng cũng ra đời. Và dẫu cho thời gian Em đang trên chuyến hành trình truy tìm căn nguyên của tình
mãi là một dòng tuyến tính không bao giờ quay trở lại thì yêu. Em không thẳng thắn nói ngay vào điều đó, mà em
sóng vẫn cứ mãi hát khúc ca của đại dương bất diệt, vẫn cứ là muốn thông qua hình ảnh sóng để trải lòng mình. Theo khoa
mình, vẫn “dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ”. Cũng giống như học, sóng sinh ra từ gió. Thơ Xuân Quỳnh vốn không thường
tình yêu, những khát khao về tình yêu luôn luôn là những viết về những điều khô khan như thế, tác giả bẻ ngay “cuống
hoài bão đang đập nhanh trong trái tim của những người trẻ. lái” về những nốt nhạc của trái tim. Vậy thì gió bắt đầu từ
Câu chuyện tình yêu vốn dĩ không phải câu chuyện của riêng đâu? Em suy hoài, nghĩ mãi nhưng cuối cùng lại chẳng tìm
ai mà đó là câu chuyện của tôi, của bạn, của chúng ta, của quá được câu trả lời. Và rồi để bao biện cho sự thất bại trong cuộc
khứ, hiện tại và muôn đời sau sẽ còn nhắc mãi, nhắc hoài. truy tìm của mình, người con gái ấy buông nhẹ một cái lắc
Còn đại dương là còn sóng, còn những trái tim đang đập đầu đáng yêu: “Em cũng không biết nữa”. Và gửi lời tới
trong lồng ngực là còn khát vọng tình yêu . Điều này thật “anh” một câu hỏi rất nhẹ nhàng: “Khi nào ta yêu nhau?”.
giống với ý thơ trong “Bài thơ tuổi nhỏ” của ông hoàng thơ Trái tim “em” luôn muốn tìm sự lý giải, cắt nghĩa tình yêu,
tình Việt Nam – Xuân Diệu: truy tìm căn nguyên tình yêu của chính mình: “Chúng ta yêu
nhau từ bao giờ, chúng ta yêu nhau vì điều gì...” Tất cả đều là
“Làm sao sống được mà không yêu những câu hỏi rất khó để trả lời, hoặc là sẽ chẳng thể nào tìm
Không nhớ, không thương một kẻ nào...” ra được một câu trả lời nào trọn vẹn cả. Xuân Quỳnh đã thất
bại trong cuộc truy tìm, cắt nghĩa tình yêu nhưng lại ghi được
3. Khổ 3+4: Cuộc truy tìm căn nguyên tình yêu:
ấn tượng sâu đậm trong lòng đọc giải từ cách lý giải đầy nữ
Có những khoảnh khắc, bản thân mình rất muốn tìm một nơi tính. Lý giải về tình yêu vốn dĩ là một hành trình rất thú vị,
nương náu cho những trầm tư của chính mình. Không phải vì gây được sự hấp dẫn với viết bao cây bút tài hoa, nếu như
bản thân yếu đuối mà chỉ bởi trái tim sau những lần cứng cỏi Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình Việt Nam từng lý giải tình
rất muốn có một khoảng dừng chân để suy nghĩ, chiêm yêu bằng một buổi chiều nắng tắt:
nghiệm về tình yêu mình đã đi qua. Và “em” đã chọn cho
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
mình một khoảng trầm tư bình yên như thế khi đứng trước đại
Có khó gì đâu một buổi chiều
dương bao la, trước muôn ngàn con sóng vỗ bạc đầu:
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
“Trước muôn trùng sóng bể Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Em nghĩ về anh, em
Thì Nguyễn Bính lại khiến lòng người rạo rực khi lý giải chữ
Em nghĩ về biển lớn
yêu bằng cảm xúc “ghen tuông”:
Từ nơi nào sóng lên”
“Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi
Đến khổ thơ này, em tách mình khỏi sóng, để hạ lời thì thầm
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
hai tiếng “em – anh”. Khi đứng trước đại dương bao la, trước
Và nghĩa là cô là tất cả của riêng tôi!”
muôn ngàn những con sóng đang gối lên nhau chạy xa tít tắp
tới đường chân trời, em nghĩ về anh, nghĩ về bản thân mình,
Nhìn nhận trong cách truy tìm căn nguyên, cắt nghĩa về tình “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
yêu của những người nghệ sĩ mới thấy được, Xuân Quỳnh đã Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”
tự lý giải tình yêu cho bản thân mình một cách rất riêng, rất
nữ tính, rất trực cảm. Em không biết tình yêu có từ đâu cả. Còn với những vần thơ của Xuân Quỳnh dường như đã chạm
Cũng chính vì sự không rõ ngọn ngành này mà đã biết bao tới nơi sâu thẳm nhất của trái tim tình yêu mang theo một
nhiêu thế kỷ trôi qua rồi, con người vẫn cứ phân vân đi tìm thông điệp thật tình tứ, mến thương: Sóng nhớ bờ và em nhớ
câu trả lời cho tình yêu, say mê trong tình yêu, dành trái tim anh.
của mình để sẵn sàng đập nhanh hơn vì một người . Có một Có một điều đặc biệt trong khổ thơ này đó là đến đây, biên độ
quy luật của tình yêu đó là chẳng có quy luật nào cả và em của khổ thơ đã được mở rộng từ bốn câu lên sáu câu, phá vỡ
vẫn sẽ can đảm bên cạnh anh, yêu anh bằng tất cả đủ đầy những quy luật về độ dài của một khổ trong cả bài. Phải
những cảm xúc của riêng mình. Tình yêu vốn dĩ là một ẩn số chăng, chỉ khi mở rộng biên độ khổ thơ mới có thể diễn tả
giữa hai tâm hồn chứa đầy bí mật: cho thỏa, cho đạt sự ngút ngàn của nỗi nhớ. Một nỗi nhớ bao
trùm không gian, choán luôn cả thời gian, khoảng cách. Việc
“Dù tin tưởng chung một đời một mộng phá vỡ biên độ của khổ thơ thêm một lần nữa chứng minh
Anh là anh mà em vẫn là em cho phong cách nghệ thuật đôi khi “bất tuân theo những quy
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành luật nghề thơ” của Xuân Quỳnh. Quan trọng nhất trong
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” những vần thơ của chị là được bày tỏ, được sẻ chia, được thấu
hiểu. Bởi “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ; sáng
Và những tâm hồn bí mật ấy vẫn luôn khao khát được giao tạo và cách tân, tất tật là nhất thể. Cho nên, tìm những miền
hòa cùng nhau, khám phá những điều mà cả cuộc đời cũng thi cảm khác lạ cho thơ, chế tác những hình thức tân kỳ cho
chẳng thể nào lý giải nổi. Bởi tình yêu là bài toán chẳng thể thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn
nào đưa ra được một đáp số đúng nhất, cũng chính vì thế mà nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm,
nó luôn mới mẻ, luôn hấp dẫn, luôn là khởi nguồn cho rất thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh.
nhiều những tác phẩm hay. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên
gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là
4. Khổ 5: Nỗi nhớ:
tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển
Tiếp tục với hành trình nghĩ suy và chiêm nghiệm, Xuân hình cho qui luật: Thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có
Quỳnh, với những dòng thơ trong “Sóng”, đã không thể nào lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân
bỏ qua một cung bậc cảm xúc tất yếu của tình yêu - nỗi nhớ . Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi”. (Chu Văn Sơn) Trong khổ thơ
“Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào này có sự xuất hiện của cả hai hình tượng “sóng” và “em” đan
đó. Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung, cứ thế mà thức dậy, xen với nhau, bốn câu thơ trước em ẩn mình trong sóng bộc
mà da diết”. Cội nguồn của tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ, lộ những cảm xúc trong lòng mình, hai câu thơ sau em tách
“đặc tính” của tình yêu cũng gắn với nhớ nhung. Lấy cảm mình khỏi sóng, hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”. Các cặp
hứng thơ từ điều này nên Xuân Quỳnh viết: từ đối lập được sử dụng rất tinh tế ở đoạn thơ này: “lòng sâu
– mặt nước” – cụm từ diễn tả về không gian; “ngày – đêm” –
“Con sóng dưới lòng sâu diễn tả về thời gian, một nỗi nhớ thường trực, choán hết cả
Con sóng trên mặt nước không gian, thời gian tầm sâu bề rộng. Nỗi nhớ ấy không chỉ
Ôi con sóng nhớ bờ xuất hiện trong ý thức, trong tiềm thức mà còn xuất hiện cả
Ngày đêm không ngủ được trong vô thức, phá vỡ mọi giới hạn về thời gian và không
Lòng em nhớ đến anh gian:
Cả trong mơ còn thức” “Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Năm tháng trôi qua chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại.
Tình yêu xưa nay luôn gắn liền với nỗi nhớ, một trái tim đang Xuân Quỳnh tinh tế lắm khi sử dụng cụm từ “lòng em” – là
yêu là một trái tim đang nhớ, một trái tim ngừng nhớ là dấu nơi thẳm sâu nhất trong tâm hồn người nghệ sĩ. Khi chị nói
hiệu chắc chắn của một trái tim ngừng yêu bởi mấy ai yêu mà “lòng em nhớ đến anh” có nghĩa là em đang dốc cả tâm tâm
không một lần thương nhớ. Cũng bởi lẽ đó mà trong kho tàng can của mình để trao gửi nỗi nhớ thương ấy đến anh – tình
ca dao Việt Nam có rất nhiều câu bộc bạch về nỗi nhớ: yêu đích thực trong cuộc đời mình. Vị ngọt ngào, mê đắm của
tình yêu lan tỏa trong một câu thơ thật lạ: “Cả trong mơ còn
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
thức”. Cái thức trong mơ chính là biểu hiện cao nhất của nỗi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
nhớ, nỗi nhớ bây giờ không chỉ xuất hiện trong ý thức, tiềm
hay: thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức. Cái thức trong mơ là
một trong những nét nghệ thuật độc đáo ở khổ thơ này, đưa
chúng ta đến những góc nhìn mới mẻ hơn về tình yêu, về nỗi Từ “dẫu” đã có một sự biến đổi khéo léo thành từ “dù” - đây
nhớ. Một nỗi nhớ mãnh liệt và sâu sắc, nỗi nhớ ấy cũng đã là sự lật trở ý thơ vô cùng tài tình để ngoài việc khẳng định
từng xuất hiện ở một tác phẩm khác của nữ sĩ Xuân Quỳnh: một tình yêu thủy chung, Xuân Quỳnh còn muốn san sẻ
những hạnh phúc của tình yêu thông qua một thông điệp vô
“Những ngày không gặp nhau cùng tuyệt vời. Hành trình của sóng tìm ra đại dương với rất
Biển bạc đầu mong nhớ nhiều những gian khổ nhọc nhằn, có những khi sẽ gặp bão
Những ngày không gặp nhau giông sóng gió, thế nhưng cuối cùng, vượt qua tất cả mọi khó
Lòng thuyền đau rạn vỡ” khăn trở ngại, sóng vẫn tìm được đến nơi đích thực thuộc về
mình. Cũng giống như hành trình em tìm đến tình yêu đích
Hay có một bận Nguyễn Bình cũng từng thủ thỉ rằng:
thực của cuộc đời mình, bỏ qua tất cả những giới hạn nhỏ bé,
“Quái lạ, làm sao cứ nhớ nhau, tầm thường để đến bên anh. Điều này, thật giống với ý trong
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu. câu ca dao xưa:
Bốn phương mây nước, người đôi ngả,
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Hai chữ “tương tư” một gánh sầu.”
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
5. Khổ 6: Khát vọng thủy chung:
Nữ thi sĩ còn tinh tế khi sử dụng nghệ thuật đảo hai câu cuối:
Trong tình yêu, thứ mà mỗi người luôn hướng đến có lẽ chính
“Con nào chẳng tới bờ
là sự thủy chung. Bởi chính tấm lòng thủy chung sẽ dẫn lối ta
Dù muôn vời cách trở”
đến bến bờ của hạnh phúc, đến nơi ta thuộc về. Và để rồi nữ
thi sĩ Xuân Quỳnh - người dành cả cuộc đời để yêu cũng từng Nếu như để theo thông thường thì ý thơ thuận hơn và sự
trải lòng rằng: khẳng định trở nên chắc chắn, đầy lý trí với một kết thúc bình
ổn, có hậu. Còn khi sử dụng kết cấu đảo khiến niềm tin sâu
“Dẫu xuôi về phương bắc
sắc mà vẫn mong manh, mang chút cảm tính và vì thế niềm
Dẫu ngược về phương nam
tin mãnh liệt chân chính vào đích đến cuối cùng của tình yêu
Nơi nào em cũng nghĩ
như có thêm dư vị đắng cay của người từng trải. Đi qua đủ
Hướng về anh - một phương”
những thăng trầm trong tình yêu thì nhất định tình yêu của
Sử dụng phạm trù đối lập “Dẫu xuôi” >< “Dẫu ngược”, em dành cho anh sẽ cập bến hạnh phúc:
“phương Bắc” >< “phương Nam” như để nhấn mạnh vào
“Tình ta như hàng cây
những nghịch lý, éo le trong tình yêu. Không chỉ vậy, cách
Đã qua mùa gió bão
nói lạ hóa “xuôi về phương Bắc” - “ngược về phương Nam”
Tình ta như dòng sông
đã trở thành một tín hiệu nghệ thuật độc đáo là lời tâm tình, là
Đã yên ngày thác lũ”
khát vọng của Xuân Quỳnh bởi cuộc đời này còn ẩn chứa rất
nhiều những nghịch lý éo le, rất nhiều những trái ngang và 7. Khổ 8: Trăn trở, âu lo trong tình yêu:
trắc trở, thế gian điên đảo đảo điên nhưng trái tim của em,
tình yêu của em vẫn chỉ có một nơi duy nhất để hướng về, đó Người phụ nữ mang trong mình khát vọng về một tình yêu
là nơi anh - bến đỗ bình yên cho thuyền tình em neo đậu. Đất vĩnh hằng, khao khát sự thủy chung và hướng tới những suy
trời này dẫu cho có bốn phương tám hướng, xuôi phương nghĩ khác về tình yêu. Giọng thơ như trầm xuống để bộc bạch
Nam hay ngược phương Bắc thì trái tim em cũng chỉ có duy những lo âu, trăn trở đời thường của một người khi yêu:
nhất một nơi để hướng về đó là phương anh - phương của
hạnh phúc, của khát vọng đợi, chờ, yêu, tin. “Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
6. Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu: Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nếu như ở khổ thơ trước nhân vật em tách mình ra khỏi sóng
để hạ lời thì thầm hai tiếng “em-anh” thì đến đây nhân vật em Sử dụng cặp phạm trù đối lập kết hợp với kiểu cấu trúc câu
đã ẩn mình vào trong sóng để bộc lộ những cảm xúc trong “tuy - vẫn”, “dẫu - vẫn” để thể hiện những triết lý về sự vĩnh
lòng mình: hằng, trường cửu của vũ trụ bao la đối lập với sự hữu hạn thời
gian, sự nhỏ bé của con người. Đứng trước đại dương bao la,
“Ở ngoài kia đại dương trước muôn trùng con sóng “em” bỗng lo sợ trước sự trôi
Trăm nghìn con sóng đó chảy của thời gian, lo sợ chừng ấy thời gian là yêu đương
Con nào chẳng tới bờ không đủ.
Dù muôn vời cách trở”
Cũng giống như Xuân Quỳnh, ông hoàng thơ tình Xuân Diệu 8. Khổ 9: Khát vọng hóa thân:
cũng bộc bạch sự lo âu của mình qua những vần thơ:
Xuân Quỳnh là người rất đỗi nhạy cảm với những bước đi
“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, của thời gian. Và chính sự nhạy cảm ấy đã dẫn chị tới tâm
Không cho dài thời trẻ của nhân gian, trạng lo âu, khắc khoải. Thế nhưng đến với “Sóng”, Xuân
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Quỳnh đã vượt qua quy luật đó để tìm thấy sự lạc quan trong
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại chính mình. Lựa chọn sống tích cực, không chán nản, tuyệt
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, vọng, sống hết mình cho mỗi phút giây. Nhận thức được sự
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” hữu hạn của cuộc đời, Xuân Quỳnh khao khát được hóa thân
để vĩnh viễn hóa tình yêu của mình:
Người phụ nữ đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh rất trân trọng
và khao khát tình yêu. Cũng chính vì lẽ đó mà thơ chị đầy ắp “Làm sao được tan ra
những lo âu, e ngại. Trong cuộc đời đầy biến động này, tình Thành trăm con sóng nhỏ
yêu quả là một cái gì đó thật mong manh , dễ đổ vỡ, bao giờ Giữa biển lớn tình yêu
nó cũng mang theo nỗi khắc khoải không yên để rồi nữ thi sĩ Để ngàn năm còn vỗ”
từng tâm sự rằng:
Cái tôi cá nhân mong muốn được hóa thân, được tan ra thành
“Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may trăm con sóng nhỏ, được hòa vào đại dương để vĩnh viễn hát
Áo em sơ ý cỏ găm đầy mãi khúc ca ngàn năm. “Biển” ở đây là biển lớn tình yêu,
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói, “sóng” là khát vọng hóa thân cho cái tôi cá nhân, “trăm
Ai biết lòng anh có đổi thay?” ngàn” là con số ước lệ chỉ sự vô cùng, vô tận. Nhận thức
được sự hữu hạn của đời người, người phụ nữ muốn được tan
“Càng lo liệu đắp bồi, càng lo âu phấp phỏng. Con sóng thơ vào những con sóng để hòa nhập vào biển lớn tình yêu, khao
trong hồn chị càng về sau càng nặng trĩu những u uẩn của khát về sự đồng điệu tuyệt đích vô biên, phá vỡ mọi giới hạn,
một lòng nữ vốn cả nghĩ cả lo. Cất lên những nỗi niềm máu mọi khoảng cách để sống trọn vẹn với tình yêu. Khao khát
thịt ấy, Xuân Quỳnh thực là người đàn bà của muôn thuở”. được sống trong tình yêu vĩnh hằng không chỉ xuất hiện khi
chị ở độ tuổi 25 mà sau này khi đã đi qua những giông bão

trong cuộc đời thì đó vẫn là khát khao mà chị mong mỏi:

“Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em


Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Đặt vào hoàn cảnh ra đời của thi phẩm “Sóng” thì độc giả còn
có thể thấy được khát khao của nữ thi sĩ là tình yêu cá nhân
hòa cùng vào tình yêu Tổ quốc. Cất lên những nỗi lòng,
những tâm sự về tình yêu cá nhân rồi tinh tế đưa vào tình yêu
đất nước, tình yêu dân tộc. Những vần thơ nhẹ nhàng của nữ
thi sĩ cứ như vậy đi vào trong tâm thức mỗi độc giả để rồi:
“Lòng thơ của mỗi chúng ta, người mờ người tỏ, người đang
yêu, người đã yêu, đều từng thầm thu thầm phát thứ sóng đặc
biệt ấy : sóng Xuân Quỳnh”.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:

1. Mở bài: 2. Kết bài:


1.
1.
Suốt cả chặng đường dài sáng tác của mình có rất nhiều
Chẳng biết tự bao giờ, nền văn học Việt Nam đã dành một
người nghệ sĩ cứ đeo đuổi giấc mơ, tìm hiểu và cắt nghĩa tình
chỗ đứng nhất định cho đề tài tình yêu. Đôi khi là những rạo
yêu. Thế nhưng, câu trả lời vẫn cứ làm một con số khó đoán
rực của một thời tươi trẻ trong thơ Xuân Diệu, khi là khúc
định. Trong nền văn học Việt Nam, ta biết tới ông hoàng thơ
điệu buồn thương da diết, mong ngóng giây phút hội ngộ
tình Xuân Diệu với những vần thơ tình nồng nàn, đắm đuối.
trong thơ Hàn Mặc Tử, khi lại là chút chân quê mộc mạc mà
Trên thế giới, bản thân ta cũng không thể nào quên đi một
Nguyễn Bính mang theo,.. Để rồi, khi trong lòng mang bao
trong những bài thơ tình nổi tiếng “Tôi yêu em” của nhà thơ
bão tố thì người ta lại tìm về một mảnh tình yêu bình yêu như
Puskin. Và giữa biết bao chông chênh của cuộc đời, ta lại tình
“Sóng”.
cờ xô trái tim mình vào thơ tiếng thơ giản dị, gần gũi nhưng
vô cùng ấm áp và sâu sắc của Xuân Quỳnh. Một trong những 2.
tác phẩm nổi tiếng của Xuân Quỳnh không thể nào không kể May mắn cho nền văn học Việt Nam hiện đại khi có được
tới thi phẩm “Sóng” – bông hoa lạ nở dọc chiến hào. một nữ sĩ tài năng như Xuân Quỳnh. May mắn cho Xuân
2. Quỳnh bởi chị sở hữu một trái tim khao khát yêu thương và
“ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! một tâm hồn nhạy cảm tới vậy. May mắn cho chúng ta vì thế
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều hệ của những năm tháng này vẫn được tiếp tục lắng nghe bản
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, tình ca “Sóng" để rồi gật gù cái đầu nghĩ về những điều tưởng
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu” cũ và chưa bao giờ cũ về tình yêu. Xuân Quỳnh đã thật sự
thành công , thành công với những điều nhỏ nhặt, bình
Đã mấy thập kỷ trôi qua, những vần thơ tình của Xuân Diệu
thường từ cuộc đời chị viết. Và chị cũng thành công, khi có
vẫn vang lên như một nốt nhạc huyền ảo, vấn vương mãi
đôi lần cất lên vài dòng tâm sự khiến người ta
trong tâm hồn độc giả. Thử hỏi tình yêu là gì? Tại sao tình
nao lòng:
yêu lại có sức hút mãnh liệt đến vậy? Tình yêu không chỉ
xuất hiện trong cuộc sống mà nó đã đi vào thơ ca như một “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
huyền thoại. Thơ ca Việt Nam hiện đại luôn dành một chỗ Cuộc sống trở về bình yên
đứng ngất định cho đề tài tình yêu. Cùng với ông hoàng thơ Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm
tình Xuân Diệu , nền văn học Việt Nam còn có nữ thi sĩ Không nỗi khổ không niềm vui kinh ngạc”
Xuân Quỳnh với những bài thơ tình ấm áp, sâu sắc. Một thi
phẩm không thể nào không kể đến đó là “Sóng”. 3.
Thi phẩm “Sóng” khép lại, vậy mà dư âm trong những vần
3. thơ còn vang mãi trong trái tim bạn đọc. Đó là những cảm
Tôi vẫn còn nhớ như in có một bận, Xuân Diệu đã từng thủ xúc trong trái tim của người con gái khi yêu, khao khát yêu
thỉ trong tác phẩm của mình: và muốn vĩnh viễn hóa tình yêu của mình. Năm tháng trôi đi,
chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại. Những thanh âm
“Làm sao sống được mà không yêu
cảm xúc mà sóng để lại trong lòng bạn đọc đem tới một sức
Không nhớ không thương một kẻ nào”
cuốn hút vô cùng mạnh mẽ. Thế hệ bây giờ trân trọng tình
Con người ta vẫn thường vì tình yêu mà si mê nhiều như thế! yêu mà Xuân Quỳnh gửi gắm, yêu thêm những giá trị cuộc
Người thường đã vậy, thi sĩ hẳn sẽ nhạy cảm hơn, đó cũng là đời và trân quý những người bên cạnh mình. “Sóng" của nữ sĩ
lý do vì sao giữa muôn nẻo của thơ ca Việt Nam, những bài “sinh ra để yêu mà làm thơ” này vốn dĩ không ồn ào, mà trái
thơ viết về tình yêu, những nhà thơ viết về tình yêu vẫn lại cực kỳ êm dịu. Những năm tháng “bom rơi đạn nổ” ấy,
thường được bạn đọc chú ý bằng cái nhìn đầy trìu mến. Và bông hoa hái dọc chiến hào này mới thật đẹp, thật tinh tế làm
bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng là một tác phẩm sao.
như thế.
Văn bản: VỢ CHỒNG A PHỦ II. THÔNG TIN TÁC PHẨM:
-Tô Hoài-
Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập “Truyện Tây
Nhà văn Tô Hoài đã có dịp tâm sự: Bắc” – Tập truyện được trao giải nhất về truyện, kí - giải
thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. “Truyện Tây
“Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có
thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công Bắc” là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của Tô Hoài
tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Trong chuyến đi
cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của này, Tô Hoài đã sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào các
họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta dân tộc Thái, Mường, Mông,.. cũng như học hỏi và biết thêm
1 tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ nhiều điều về phong tục tập quán nơi đây. Nguồn cảm hứng
chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và mới lạ dưới cái nhìn của một nhà văn nhân đạo đã giúp ông
uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh,
viết nên các tác phẩm: "Cứu đất cứu mường", “Mường Giơn”
cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho
Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy trốn đi nơi và “Vợ chồng A Phủ”.
khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết
của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ Cách ghi nhớ hoàn cảnh sáng tác chi tiết của tác phẩm:
dần. Và tôi bắt tay vào viết.”  Là kết quả của chuyến đi thực tế tới vùng Tây Bắc năm
1952.
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Tô Hoài  Tại đây, ông đã có dịp tiếp xúc và cảm nhận nét văn hóa,
phong tục tập quán và con người Tây Bắc.
- Là một người từng trải.
- Sự nghiệp: được chú ý qua tác phẩm “Dế Mèn phiêu
Từ lưu ký”, sự nghiệp gắn bó với Cách mạng.
khó - Thành tựu: số lượng tác phẩm đồ sộ nhiều thể loại.
a - Phong cách nghệ thuật: lối kể chuyện tự nhiên, vốn
hiểu biết rộng.

Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công. Bước vào
tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm
sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,...Vì vậy vốn
sống cũng như sự từng trải của ông in sâu vào trong sáng
tác... Đến với văn chương, ông gây được tiếng vang lớn qua
tác phẩm truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Năm 1943, Tô
Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh
Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo
chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện
Tây Bắc. Với hơn 60 năm lao động nghệ thuật miệt mài, tâm
huyết, với số lượng tác phẩm đồ sộ: 100 tác phẩm thuộc
nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký,
kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác... Tác phẩm
của ông đi vào lòng bạn đọc bởi lối kể chuyện có duyên, tự
nhiên, vốn am hiểu rộng, khéo léo đưa hiểu biết của mình
vào trong tác phẩm.
Để hiểu rõ hơn về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Vợ chồng A hoạt của họ, viết được một số truyện ngắn, trong đó có Vợ
Phủ” các em có thể tham khảo sưu tầm của team Học văn chị chồng A Phủ. Thực ra trong ngôn ngữ Mèo không có chữ Phủ
Hiên về bài trả lời phỏng vấn, tâm sự của chính tác giả khi chỉ có chữ Phữ thôi.
giãi bày về “đứa con tinh thần” của mình.
Đời sống văn hóa của người Mèo giờ đây vẫn mới lạ và bí ẩn
NHÀ VĂN TÔ HOÀI TÂM SỰ VỀ TÁC PHẨM đối với chúng ta. Họ có những truyền thống văn hóa độc đáo.
“VỢ CHỒNG A PHỦ” Nhưng trong Vợ chồng A Phủ, thân phận người đàn bà thật
không khác gì con trâu con ngựa. Điều đó có thật hay chỉ là
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được rút ra từ tập “Truyện Tây một cốt truyện hư cấu của tác giả?
Bắc” và là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này. Truyện
có 2 phần: Phần đầu kể chuyện Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; Nhà văn Tô Hoài
phần sau là thời kì ở Phiềng Sa, hai người gặp cách mạng rồi
trở thành du kích. Nhưng chương trình văn lớp 12 chỉ trích Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có
dạy phần đầu của tác phẩm. thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công
tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một
Thưa nhà văn, những năm đầu thập niên năm mươi, cuộc cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của
kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã có những thay đổi họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta
về chiến lược. Tinh thần và sức mạnh bất khuất của cả nước 1 tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ
được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và
ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội, những núi uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh,
đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho
em. Đời sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy trốn đi nơi
kháng Pháp thì là một. Nhưng dường như đời sống của người khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết
Mèo (H’Mông) đã để lại ấn tượng riêng biệt và sâu đậm cho của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ
ông? dần. Và tôi bắt tay vào viết.

Nhà văn Tô Hoài:

Năm 1952, khi các hoạt động kháng Pháp tăng mạnh trên
chiến trường, quân ta đã dần đánh đuổi quân Pháp khỏi Sơn
La, Lai Châu, tôi là phóng viên của báo Cứu Quốc, báo Đại
Đoàn Kết bây giờ, được cử đi viết về các căn cứ cách mạng
và đời sống ở vùng mới giải phóng. Tây Bắc với những cánh
rừng bạt ngàn là nơi sinh sống chủ yếu của người Mường,
Thái, Mèo... và một số dân tộc nhỏ khác. Trong các dân tộc
anh em, người Mèo thường sinh sống ở những vùng núi cao
nhất và xa nhất. Đấy cũng chính là nơi có căn cứ cách mạng
sớm nhất. Người Mèo chống Pháp với một tinh thần bất khuất
và kiên cường kì lạ. Tôi chọn đi viết về đời sống dân tộc Mèo
là vì vậy. Tôi đi từ núi này sang núi khác, từ vùng Mèo Nghĩa
Lộ đến Lai Châu trong 5 tháng trời. Đường đi rất khó khăn,
hiểm trở, thiếu thốn đủ thứ cộng với khí lạnh của vùng Tây
Bắc, nhưng may mắn là đến bản nào cũng gặp cán bộ cách
mạng.
Từ 1950 – 1951, tôi và Nam Cao đã từng đi viết và sống với
đồng bào miền núi. Khó nhất là sự cách biệt ngôn ngữ, phải
có chung tiếng nói mới có thể hiểu được nhau. Người Mèo có
ngôn ngữ riêng, tuy nhiên vốn từ vựng của họ ít, nên tôi
không mấy khó khăn khi học tiếng của họ. Chỉ cần vài chục
từ là có thể giao tiếp được. Tuy vậy, vì ở vùng núi cao và xa
nên đời sống của họ trăm bề thiếu thốn. Hạt muối quý hơn
vàng. Có nơi 5-6 tháng ăn không tí muối nào. Khi bản có
việc, thịt bò, ngựa đều phải ăn nhạt. Tôi sống trong sự thiếu
thốn của người Mèo 5 tháng, đi sâu tìm hiểu đời sống, sinh
Nhận xét về tác giả và tác phẩm: III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:

1. "Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế Bố cục
lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay phân tích
lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh 1 Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị.
liệt". (Tô Hoài, “Tác phẩm văn học 1930 - 1945” trang 71). 2 Nhân vật A Phủ.
3 Chi tiết tiếng sáo.
2. “Ở "Vợ chồng A Phủ" nhà văn đã có sử dụng công và 4 Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
thành công trong miêu tả,trong dựng cảnh. Nói cách khác,
1. Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị:
ông đã dựng lên cho bạn đọc thấy được diễn biến tâm lí cùng
đời sống nội tâm của nhân vật qua hàng loạt chi tiết bên ngoài a.Ấn tượng ban đầu về nhân vật Mị:
như một dáng ngồi, một cách ăn mặc, một vài câu hỏi, một - Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở
cái nhìn, một bước đi đến một tảng đá hay một ô cửa sổ khi trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả với một
miêu tả như thế, do đã được nhập vào với số phận của nhân đoạn văn trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống
vật, thuộc được hoàn cảnh sống đầy biến động và đổi thay lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai
của nhân vật, nhà văn đã định ra được một cách tự nhiên một bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù
mạch lời kể chuyện vừa phù hợp với tâm lý riêng của họ,vừa quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới
mang sự gãy gọn của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại”. khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
- Nguyễn Quốc Luân + Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm
thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay
3. Bàn về kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài,
sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí
có ý kiến cho rằng: “Hành động cắt đứt dây mây cởi trói cứu
quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”.
A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật bất ngờ, đột
+ Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô tri, có cảm giác như
ngột, không thể dự đoán trước”, lại có người khẳng định: “Đó
người con gái ấy cũng không hề có một chút cảm xúc nào.
là một kết thúc tự nhiên, tất yếu”.
+ Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình ảnh
4. Nhận xét về nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của tảng đá ấy phải chẳng là tảng đá của số phận đang đè
của nhà văn Tô Hoài, tác giả Đỗ Kim Hoài khẳng định: “ nặng lên Mị.
Tấm lòng yêu thương của nhà văn vẫn nhận ra: bên trong + Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận đau khổ,
hình ảnh của một con rùa nuôi trong xó cửa kia, đang còn bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về số phận
một người”. của người con gái này.
b. Nguồn gốc, lai lịch, cuộc sống của Mị - trước khi bị
5. Nhận xét về nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ làm dâu gạt nợ:
của nhà văn Tô Hoài có ý kiến cho rằng: “Mị là một cô gái - Mị vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có
hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người con gái Việt Nam khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi: “thổi lá cũng hay như
nhưng lại có một số phận bất hạnh”. thổi sáo” .
- Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát
6. Bàn về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, có ý kiến cho rằng: khao yêu đương. Quả thế, Mị đã nhận được tình yêu và đã
“Thắp sáng ngọn lửa của khát vọng sống, Tô Hoài cũng làm khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước
bừng sáng giá trị nhân van cao cả của tác phẩm”. trước âm thanh hò hẹn của người yêu .
7. “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông - Cuộc sống tuổi thanh xuân, tương lai của Mị hứa hẹn biết
như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không bao điều tốt lành, tươi sáng. Khi mùa xuân về, Mị đã sống
Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có dịp tò mò hỏi ông về những giây phút tươi đẹp của tuổi thiếu nữ.
Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngò ông hiểu Hà Nội c. Bi kịch thân phận làm dâu gạt nợ:
sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là nhà Hà Nội học, dù ông không - Nguyên nhân: vì một món nợ truyền kiếp từ khi cha mẹ mới
nghiên cứu.” - Trần Đăng Khoa cưới nhau mà Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí - một
tên quan lại, địa chủ tham lam, sảo quyệt và tàn nhẫn ở Hồng
Ngài.
- Kể từ khi về làm con dâu nhà thống lí, Mị phải sống những
ngày tháng đau thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con
dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là bề tôi tớ không công. Mị
không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh
thần.
+ Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con - Tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng vào tâm hồn Mị “thiết tha,
vật, thậm chí không bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng bổi hổi” từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng có sức mời gọi
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc nào lớn lao đối với Mị: “Ta không có con trai con gái...”.
cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc làm giống nhau, tiếp - Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã, chiêng đánh ầm
nhau vẽ ra mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. ĩ và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
+ Bị giam hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của => Những yếu tố ngoại cảnh ấy không thể không tác động
nhà thống lí, Mị đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, đến Mị, đặc biệt là tiếng sáo. Tiếng sáo gọi bạn tình chính là
tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị bị tê liệt cả lòng yêu đời, âm thanh của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa,
sức sống lẫn tinh thần phản kháng, mất hết ý thức về thời nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào
gian, không gian: “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức sức sống vẫn còn
“mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
trong xó cửa”.  Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
+ Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ - “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi
vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng chơi... Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng...Mà
thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường” Tiếng
Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác sáo được lặp lại nhiều lần, để rồi sau bao tháng ngày câm
Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và lặng, Mị cất tiếng nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương
sức sống của cô. đầy xao xuyến: “Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm
=> Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã nương / Tao chưa có con trai, con gái / Tao đi tìm người yêu”
được cất lên nhân danh quyền sống. Chế độ ấy thực sự đáng - Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát,
lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa
lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ.
sống. + Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người
d. Sức sống tiềm tàng của Mị khi dám chết, dám sống dù hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan
cảm thấy cuộc đời không còn bất cứ ý nghĩa nào nữa: lúc nào cũng không hay)
- Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt + Mị lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng
“đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. giỏi...), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một
- Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn con người, vẫn có cái quyền sống của một con người :
đó món nợ của người cha. Đây là một trong những biểu hiện “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có
đầu tiên của lòng ham sống – dám chết khi nghĩ rằng cuộc chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử,
đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Nhưng đến lúc có không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, - Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân
kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Đây cũng chính là một trong phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị
những hành động thể hiện sự khát sống của Mị, dám sống đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo
ngay cả khi trên cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa gì quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ
nữa. vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì
=> Đây là hai trong số những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón
trong trái tim của cô gái này, nhất định vẫn ẩn chứa một lòng trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn
ham sống rất lớn. nhớ lại nữa”.
e. Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân: - Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân
 Sức sống tiềm tàng là khả năng sống từ sâu thẳm bên trong cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và
của con người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khắc suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong
nghiệt. Nó được ví như hạt mầm bị vùi trong cát bỏng, chỉ ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới
đợi một cơn mưa là nảy mầm thành cây đời xanh tươi. thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị
 Ngoại cảnh: Mùa xuân về trên vùng cao Tây Bắc có ý xắn miếng mỡ, thắp sáng căn phòng u tối; quấn lại tóc, với
nghĩa như “một hoàn cảnh điển hình” làm khơi dậy ở thiên thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó,
nhiên và con người sức sống tiềm tàng. Mị đã làm như trong một giấc mơ
- Khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức sống và màu
sắc: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa xòe như con
bướm sặc sỡ, đám trẻ đợi Tết chơi quay, cười ầm lên trên sân
trước nhà...
- A Sử biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm, Mị không cảm thấy sợ hãi, chỉ cảm thấy một điều duy nhất
đánh rồi trói đứng Mị vào cột, tắt đèn đóng sập cửa lại. bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc ác”. Nghĩ thế, Mị cầm
Những hành động nhẫn tâm của A Sử dường như muốn đẩy dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có khựng lại vài giây rồi bất
Mị vào bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như
thế nhưng Mị thực tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng
ra với mình. Mị đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người
đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ,
trong cảm giác du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn tất cả những nỗi sợ hãi như cường quyền, bạo quyền hay thần
trong đầu của Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc quyền đều tan biến, chỉ còn lại trong Mị là một lòng ham
chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong sống vô cùng mãnh liệt, trào sôi.
thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động - Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả
ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện những khổ ải nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ
tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng A Châu, hai người được giác ngộ cách mạng và kết hôn với
sáo mà tay chân đau không cựa được. nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc
- Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra bảo vệ Tổ quốc.
cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và
cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng
con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo
chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng
hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng,
mà thậm chí còn câm lặng hơn trước .
g. Sự phản kháng táo bạo trong đêm đông cởi trói cho A
Phủ:
- Mùa đông trên núi cao dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen
không thể bỏ đó là sưởi lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là
người bạn, là tri âm, là tri kỷ, là thứ hiếm hoi mang tới cho
Mị một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô
đơn trên dẻo cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn
thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất
quyết không bỏ thói quen này.
- Khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô
cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết
đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê
dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong hoàn cảnh của Mị, cô gái này
thực sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ của người
khác, thậm chí, trái tim của Mị bây giờ còn mất hết những
cảm xúc, chỉ còn một trái tim đóng băng, lạnh giá vô cùng.
- Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A
Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng
làm tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ.
Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị
cũng đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm
không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước
mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót
thương cho chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết
nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy
có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình,
Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một
con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn
thương mình: “Mình là đàn bà ... chỉ còn biết đợi ngày rũ
xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết”.
Phân tích chi tiết Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông
bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy
Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị. “mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó
a. Trong đêm tình mùa xuân: quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị,
cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức
Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong
sống của cô. Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã lên tiếng tố cáo
cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả với một đoạn văn
chế độ phong kiến miền núi. Chế độ ấy thực sự đáng lên án,
trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra
bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của
thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng
niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
Những tưởng rằng cuộc đời Mị sẽ như thế cho đến khi chấm
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối
dứt ở nhà thống lí Pá Tra nhưng không phải vậy. Sức sống, sự
lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách giới thiệu
ham sống trong Mị đã phản kháng: khi mới bị bắt về làm dâu
tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm
gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt “đến hàng mấy tháng, đêm
thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu
nào Mị cũng khóc”. Mị đã từng muốn chết mà không được
ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng
chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Đây là một
sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Mị xuất hiện bên cạnh
trong những biểu hiện đầu tiên của lòng ham sống – dám chết
những vật vô tri, có cảm giác như người con gái ấy cũng
khi nghĩ rằng cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa.
không hề có một chút cảm xúc nào. Mị như một cái xác
Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị
không hồn, hoàn toàn mất hết ý niệm về không gian và thời
lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Đây cũng chính
gian. Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình
là một trong những hành động thể hiện sự khát sống của Mị,
ảnh của tảng đá ấy phải chăng là tảng đá của số phận đang đè
dám sống ngay cả khi trên cuộc đời này không còn bất kỳ ý
nặng lên Mị? Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận
nghĩa gì nữa. Đây là hai trong số những tín hiệu đầu tiên
đau khổ, bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về số
chứng tỏ rằng trong trái tim của cô gái này, nhất định vẫn ẩn
phận của người con gái này.
chứa một lòng ham sống rất lớn như trực chờ có đốn lửa nhen
Tô Hoài đã khắc họa hình tượng Mị là một cô gái Mèo trẻ nhóm sẽ bùng lên mạnh mẽ.
trung, xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo và có khát vọng tự do, khát
Và rồi đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã làm trỗi dậy khát
vọng yêu và được yêu vô cùng mãnh liệt. Cô “thổi lá cũng
khao được giải phóng, tự do trong Mị....
hay như thổi sáo”, đã bao lần trái tim Mị hồi hộp trước trước
Khi mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng như đã chết
âm thanh hò hẹn của người yêu. Mị hiện lên như một bông
trong Mị như có cơ hội hồi sinh bởi mùa xuân là mùa của cây
hoa xinh đẹp của núi rừng Tây Bắc.
cối đâm hoa nảy lộc, mùa của hội hè đình đám, mùa của gặp
Xinh đẹp, tài sắc là vậy thế nhưng bất hạnh ập đến ngay khi
gỡ, hò hẹn lứa đôi...Mùa xuân đến với Hồng Ngài đã được Tô
người con gái ấy đến tuổi trưởng thành phải gánh trên vai
Hoài miêu tả bằng những câu văn rất hay. Khung cảnh mùa
món nợ truyền kiếp từ cha mẹ. Vì món nợ ấy, Mị đã bị thống
xuân tươi vui tràn đầy sức sống và màu sắc: “cỏ gianh vàng
lý Pá Tra bắt về làm “con dâu gạt nợ”. Cuộc sống của một cô
ửng”, “những chiếc váy hoa xòe như con bướm sặc sỡ”,...
con dâu gạt nợ đã cướp đi tuổi thanh xuân dạt dào trong Mị.
Giữa giá rét của mùa đông nhưng người dân Hồng Ngài vẫn
Kể từ khi về làm con dâu nhà thống lí, Mị phải sống những
rực rỡ đón xuân.
ngày tháng đau thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con
Hòa với những sắc màu của mùa xuân là âm thanh náo nhiệt,
dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là bề tôi tớ không công. Mị
tưng bừng: “đám trẻ đợi Tết chơi quay”, “cười ầm lên trên
không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh
sân trước nhà”, tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng vào tâm hồn Mị
thần. Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con
“thiết tha, bổi hổi” từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng có
vật, thậm chí không bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng mình
sức mời gọi lớn lao đối với Mị: “Ta không có con trai con
cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc nào cũng chỉ
gái...” Tiếng sáo là âm thanh quen thuộc của vùng núi Tây
nhớ đi nhớ lại những việc làm giống nhau, tiếp nhau vẽ ra
Bắc, là tiếng lòng đắm say của trai gái Mèo trao gửi bạn tình
mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Bị giam
nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào
hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của nhà thống
miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức sức sống vẫn còn
lí, Mị đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, tâm hồn lạnh
tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này. Trong
lẽo, trống vắng. Mị bị tê liệt cả lòng yêu đời, sức sống lẫn
khoảnh khắc ấy, tiếng sáo như tác động mạnh mẽ đến tâm
tinh thần phản kháng, mất hết ý thức về thời gian, không
hồn Mị cùng với không khí mùa xuân tưng bừng, đang hừng
gian: “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, “mỗi ngày Mị
hực một sức sống mãnh liệt. Tất cả như khơi dậy, làm cho Mị
càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
bừng tỉnh.
Khi nghe tiếng sáo lặp lại nhiều lần, sau bao tháng ngày câm Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sáng đang trỗi dậy
lặng, Mị cất tiếng nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương mạnh mẽ trong lòng Mị, thắp sáng căn phòng u tối chính là
đầy xao xuyến, Mị ngồi nhẩm theo bài hát “Mày có con trai xua đi tăm tối cuộc đời mình, bừng lên ánh sáng hi vọng cho
con gái rồi / Mày đi làm nương / Tao chưa có con trai, con cuộc đời. Mị “quấn lại tóc, thay chiếc váy hoa với ở vách” ,
gái / Tao đi tìm người yêu”. Tiếng sáo cất lên từ trái tim rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như
tưởng chừng như khô cằn, chai sạn của Mị giờ đây, tiếng sáo trong một giấc mơ. Đó không chỉ là nhu cầu làm đẹp của bản
đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và khát vọng được yêu bấy lâu thân trước lúc đi chơi, đó còn là mình chứng rõ nhất về giá trị
nay Mị chôn chặt trong tim. Mị như bừng tỉnh, tiếng sao rung bản thân, lòng ham sống đang bừng dậy đầy mạnh mẽ, mãnh
lên trong trái tim Mị khiến cho nhận thức về cuộc sống ùa về. liệt khiến cho Mị bất chấp bạo quyền. Tâm hồn Mị lúc này
Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, như đang ngân lên khát vọng hạnh phúc, tự do không gì kìm
“uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cách uống “ực từng nén được.
bát” không phải là cách uống của người thưởng rượu, cũng Vậy nhưng, khát vọng sống của Mị lại bị vùi dập một cách
không phải cách uống của người thèm rượu bởi đã từ lâu Mị phũ phàng: A Sử về, biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi
không thèm khát rượu nữa rồi. Mị uống rượu là vì thói quen: chơi, hắn tức lắm, đánh rồi “trói đứng Mị vào cột nhà bằng
“ngày trước, Mị cũng uống rượu”, uống theo thói quen của cả một thúng sợi đay”, không những thế, nó còn “lấy tóc Mị
người Mèo nhưng cách uống “ực từng bát” lại giống như Mị cuốn lên xà nhà”, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những hành động
đang cố nuốt xuống những cay đắng, tủi nhục cùng uất hận nhẫn tâm của A Sử dường như muốn đẩy Mị vào bóng tối,
trào dâng. dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng thế nhưng Mị thực
Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra với mình. Mị
Mị lãng quên thực tại “lịm đi nhìn mọi người nhảy đồng”, đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những
“người hát mà không nghe, không thấy” và cuộc rượu tan lúc giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác
nào cũng không hay, lòng Mị như đang “sống về ngày trước”. du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong đầu của
Tô Hoài đã rất tinh tế khi dùng từ “sống” chứ không phải Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám
“nhớ”... Mị như thoát xác để tìm về những ngày xưa hạnh chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây
phúc. Mị lại nhớ về ngày trước “Mị thổi lá hay như thổi sáo”, trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức
“có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” và giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc,
quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay
cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn còn trẻ. Mị chân đau không cựa được “dây trói thít lại, đau nhức”. Nhưng
muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy.
Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa
phải ở với nhau”. tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng “chân ngựa
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân đạp vào vách”, nhai cỏ, gãi chân khiến “Mị thổn thức nghĩ
phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị mình không bằng con ngựa”.
đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo Khái quát:
quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng
vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì xé giữa quá khứ đẹp đẽ và thực tại đau khổ, giữa ước mơ
ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón hạnh phúc và nỗi tủi hờn về kiếp trâu ngựa. Đó là biểu hiện
trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn của tâm hồn yêu sống, thèm sống, sống một cuộc đời tự do,
nhớ lại nữa”. Chính mong muốn được chết trong Mị lại chính hạnh phúc bất chấp cường quyền chà đạp, vùi dập. Diễn biến
là biểu hiện cao nhất của khát vọng ham sống của con người tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng
bởi chỉ khi chết đi Mị mới được tự do. Tuy là muốn chết Ngài là một tâm trạng hồi hộp, vui sướng và đau khổ, ham
nhưng đó là hành động của người yêu cuộc sống thiết tha khi sống và muốn chết. Trong bóng tối nặng nề ấy, Tô Hoài đã
bị đẩy đến cảnh “sống không bằng chết”. không đề nhân vật nói câu nào và hành động cũng rất ít, phân
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn là những dòng nội tâm trỗi dậy, tuôn trào trong lòng Mị.
lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy Thông qua nhân vật Mị, ta thấy tác giả bộc lộ rõ nét tài năng
nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật Mị một cách chân thực,
giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời sinh động. Sự trỗi dậy của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy
điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị “xắn chưa thay đổi được số phận của cô nhưng đó là tiền đề quan
một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng”. trọng cho những đột biến lớn lao trong đời Mị để rồi dũng
cảm cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ, giải phóng cho chính
cuộc đời mình. Như nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói: “Một tia lửa
hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”.
b. Trong đêm mùa đông trên núi cao(cắt dây trói cho A Nghĩ thế, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có khựng
Phủ): lại vài giây rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Hành động “cắt” dây
trói là một quyết định mạnh mẽ, táo bạo, nhanh chóng và dứt
Sau đêm tình mùa xuân, Mị lại trở về với cuộc sống bình khoát. Dường như ta cảm nhận được Mị không chỉ cắt dây
thường như một cái xác không hồn. Mùa đông ở Hồng Ngài trói cho A Phủ mà còn đang cắt dây trói cho chính mình.
dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen không thể bỏ đó là sưởi Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên
lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là người bạn, là tri âm, là trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như
tri kỷ, là thứ hiếm hoi mang tới cho Mị một nguồn sáng ấm tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống
áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô đơn trên rẻo cao này. Dù và khát vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi
đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp sợ hãi như cường quyền, bạo quyền hay thần quyền đều tan
Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất quyết không bỏ thói quen này biến, chỉ còn lại trong Mị là một lòng ham sống vô cùng
“Tối nào Mị cũng ra sưởi lửa”. Khi chứng kiến tình cảnh của mãnh liệt, trào sôi.
A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước
mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả
như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong những khổ ải nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ
hoàn cảnh của Mị, cô gái này thực sự đã quá khổ để có thể A Châu, hai người được giác ngộ cách mạng và kết hôn với
đồng cảm với nỗi khổ của người khác, thậm chí, trái tim của nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc
Mị bây giờ còn mất hết những cảm xúc, chỉ còn một trái tim bảo vệ Tổ quốc.
đóng băng, lạnh giá vô cùng. Sống cùng những chà đạp, tủi
nhục ở nhà thống lý, Mị đã rơi vào trạng thái trơ lì cảm xúc. Khái quát:
Ở đây Tô Hoài không nhằm chỉ trích sự vô cảm của Mị mà Hành động cắt dây trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi
thông qua Mị ông muốn tố cáo, lên án sự tàn bạo của gia đình Hồng Ngài không phải hành động mang tính bản năng mà đó
thống lý đã biến một cô gái trẻ trung yêu đời trở nên câm là sự trỗi dậy của lòng khát vọng sống tự do mãnh liệt. Hành
lặng, tâm hồn tê dại. động táo bạo và đầy bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của một sức
sống tiềm tàng khi đã trỗi dậy để chống lại cường quyền, thần
Chính nhờ ngọn lửa mà Mị trông sang A Phủ “Đêm ấy A Phủ quyền để giải phóng chính mình. Hành động cắt dây trói cùng
khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài của Mị có vẻ bất ngờ nhưng rất
xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm phù hợp tâm lí con người với quy luật cuộc sống “tức nước
tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị vỡ bờ”. Người đọc cũng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc
nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng của nhà văn Tô Hoài khi ông luôn phát hiện và khẳng định vẻ
đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không đẹp tiềm ẩn của con người. Với nhân vật Mị, giáo sư Trần
biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của Đình Sử đã nhận xét: “ Đây là nhân vật thành công bậc nhất
A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương trong văn xuôi Cách mạng đương đại.”.
cho chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết nhận ra
mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người
nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần
có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người
cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình:
“Mình là đàn bà ... chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi
còn người kia việc gì mà phải chết”. Mị không cảm thấy sợ
hãi, chỉ cảm thấy một điều duy nhất bây giờ: “Cha con chúng
nó thật độc ác”. Khi một kể đang trong tình trạng mất hết ý
thức lại nhận ra nguyên nhân cái khổ mà mình phải gánh chịu
thì đúng là một cuộc lộn ngược dòng của ý chí. Nó đã cho
người đọc thấy được chắc chăn lần trỗi dậy này không dừng
lại như đêm tình mùa xuân mà sẽ là một cuộc phản kháng
mãnh liệt khi Mị nhận thức rất rõ nguyên nhân của nỗi thống
khổ.
2. Nhân vật A Phủ: Sau đó thống lí vừa gán nợ cho A Phủ một cách trắng trợn,
vừa bày cách để A Phủ trả nợ, cái cách vô lí và vô nhân đạo:
A Phủ là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ nhỏ do trong một trận “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ.
đại dịch cả gia đình A Phủ đều chết chỉ một mình A Phủ sống Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền thì tao
sót vậy nên ngay từ nhỏ A Phủ đã bơ vơ không nơi nương bắt mày làm con trâu con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con đời
tựa. Đó là sự mất mát đầu tiên nhưng lại vô cùng to lớn và cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Như
quá sức chịu đựng đối với một đứa trẻ. Sự bất hạnh không vậy dưới hình thức cho vay này, A Phủ chính thức trở thành
dừng lại ở đó, A Phủ lớn lên còn trở thành một món hàng để tôi đòi cho nhà chúa đất phong kiến.
người làng đem đổi lấy thóc khi người ta đói bụng (trái ngược
với Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành dù Từ sau đám xử kiện, A Phủ chấp nhận làm con ở gạt nợ cho
cũng mồ côi nhưng lại được lớn lên trong vòng tay yêu nhà thống lí, không còn nhớ đến những tháng ngày theo bạn
thương, che chở của buôn làng). đi chơi hội các làng, suốt năm, suốt tháng vùi đầu vào công
việc, bị bóc lột tàn tệ.
Tuổi thơ bất hạnh, cơ cực là vậy nhưng khi trưởng thành A
Phủ vẫn là một chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi, là niềm Khi bị trói đứng vào cột, đứng trước cái chết đang cận kề, A
ao ước của biết bao cô gái trong làng “đứa nào được A Phủ Phủ ban đầu không chấp nhận, đến đêm anh “cúi xuống, nhay
cũng bằng được một con trâu tốt trong nhà”. Hoàn cảnh xuất đứt hai vòng mây” nhưng đó chỉ là sự cố gắng vô ích, vì sáng
thân đặc biệt nên A Phủ không có bố mẹ, không có nhà, mai ra cổ anh lại thêm thòng lọng, dường càng chặt hơn, càng
không có ruộng vì vậy nên A Phủ không lấy được vợ. Cuộc tàn bạo hơn. Bị trói, bị bỏ đói, gắng gượng trong vô vọng
sống A Phủ là tiếp nối bất hạnh của những con số không. Đó suốt mấy ngày đêm, chàng thanh niên khỏe mạnh ngày nào
là cuộc sống triền miên trong nghèo khổ không có tương lai. nay đã không còn chút sức lực, chỉ biết trút dòng nước mắt
tuyệt vọng. Đến khi được Mị cắt dây trói, A Phủ như một cái
A Phủ xuất hiện bất ngờ trong đám đánh nhau của trai làng xác trực “ngã khuỵu xuống, không bước nổi”.Nhưng khi khát
bên với A Sử. A Sử vào làng tìm đám chơi có tiếng sáo, tiếng vọng sống một lần nữa được đánh thức mãnh liệt, A Phủ đã
khèn nhưng vì đến muộn nên phải đứng ngoài. A Sử và đám quật sức chạy, quyết tâm vùng chạy để thoát khỏi gông cùm,
bạn đã tìm cách gây sự và bị A Phủ đánh cho một trận nên xiềng xích và đến Phiềng Sa, chàng trai gan góc, táo bạo ấy
thân.Nhà văn đã miêu tả sức mạnh của A Phủ ngay từ lần đã trở thành tiểu đội trưởng du kích.
xuất hiện này: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném
con quay rất to vào mặt A Sử” rồi “xộc tới ném cái vòng cổ, Khái quát:
kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Nhưng trong Mặc dù số phận đầy đau khổ và bất hạnh nhưng ở A Phủ vẫn
cuộc chiến chống cường quyền hùng dũng mà đơn độc này, A tiềm tàng những phẩm chất cao đẹp tiêu biểu cho vẻ đẹp của
Phủ đã thua cuộc. Anh bị bắt sống, trói chân tay và xọc gậy những con người lao động vùng núi cao Tây Bắc. Thông qua
mang về nhà thống lí Pá Tra. nhân vật A Phủ người đọc cũng thấy được bút pháp khắc họa
nhân vật phong phú, tài hình ở Tô Hoài. Nếu như với nhân
A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra bắt trói, đánh đập vô nhân vật Mị chủ yếu là được khắc họa từ thế giới nội tâm bên trong
đạo, phạt vạ dã man, vô lí và trở thành người ở trừ nợ cho nhà đầy tinh tế thì đối với nhân vật A Phủ lại chủ yếu được khắc
thống lí. A Phủ chịu trói quỳ giữa nhà cho bọn tay sai đánh họa từ những điểm nhìn bên ngoài với những hành động
tới tấp hết trận này đến trận khác, đến nỗi thân tàn ma dại: mạnh mẽ, đầy ý nghĩa, Đó chính là thành công trong nghệ
“mắt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”, “đầu thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Cứ xong một lượt đánh
các quan lại chửi, lại hút, khói thuốc phiện tuôn ngập các cửa
sổ, cứ như thế “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh,
càng đánh, càng chửi, càng hút”. Qua bữa tiệc phạt vạ, nhà
văn đã vạch trần bản chất bất công, thối nát của bọn thống trị
phong kiến và số phận thảm thương của người dân miền núi
trước Cách mạng.Sau khi bị đánh đập tàn bạo, A Phủ bị bọn
thống lí, chức việc trói chặt vào kiếp đời nô lệ. Đầu tiên
chúng buộc tội cho A Phủ vì đánh con quan nhưng làng tha
cho tội chết, chỉ bắt nộp vạ.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:
1. Mở bài:

Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng lại gắn bó sâu sắc
với đất và con người Tây Bắc, ông đã từng thốt lên rằng:
“Đất và người Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều
quá”. Vợ chồng A Phủ chính là kiệt tác được ra đời từ những
nỗi nhớ thương ấy. Tác phẩm được viết sau chuyến đi thực tế
của nhà văn ở vùng Tây Bắc vào năm 1952, in trong tập
“Truyện Tây Bắc”. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô
Hoài nói riêng và văn xuôi chống Pháp nói riêng. Tác phẩm
là bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của
người dân nghèo miền núi trong ách áp bức, bóc lột của thế
lực phong kiến thực dân, đồng thời tác phẩm cũng là bài ca
về sự sức sống và khát vọng tự do của người dân miền núi.
2. Kết bài:
Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận cùng khổ của Mị và
A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối,
ngột ngạt của người dân miền núi Tây Bắc dưới chế độ phong
kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức, tước
đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền sống của những người
dân nghèo vô tội. Quá trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng
bản thân, đi theo cách mạng của Mị và A Phủ cũng chính là
quá trình giác ngộ Cách mạng của đồng bào dân tộc miền núi.
Truyện ngắn không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của Tô
Hoài khi bênh vực, đồng cảm với số phận con người mà còn
thể hiện niềm tin của tác giả vào Cách mạng, khẳng định
chỉ có đi theo Cách mạng con người mới có thể thực sự tìm
thấy tự do, phá bỏ xiềng xích áp bức để hướng đến cuộc sống
hạnh phúc. Tô Hoài đã làm đúng thiên chức của một nhà văn
như Nguyễn Minh Châu từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời
để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực”.
Văn bản: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Nguyễn Minh Châu được xem là người tiên phong trong
-Nguyễn Minh Châu- việc đổi mới nghệ thuật truyện ngắn. Chiếc thuyền ngoài xa
là tác phẩm tiêu biểu cho truyện ngắn về đề tài đời tư - thế sự
Tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn sau 1975 của ông. Những trang đời sinh động, đầy nghịch lý
Nguyễn Minh Châu, giúp nhà văn đến gần hơn với bạn đọc.
đã hắt bóng vào những trang văn của Nguyễn Minh Châu.
Đồng thời là áng văn tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của
ông sau năm 1975. Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp Qua tác phẩm, người đọc thấy được những vấn đề phức tạp
của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là của đời sống, kể cả bi kịch số phận con người. Nguyễn
nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để Minh Châu quan niệm viết văn là đi tìm “hạt ngọc ẩn” trong
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám tâm hồn con người, dù nhân vật được đặt giữa những bộn bề,
phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời phức tạp, giữa lấm láp đời thường. Nguyễn Minh Châu từng
thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và khẳng định và nhấn mạnh thiên chức của nhà văn: “Nhà văn
sống cùng cuộc đời.
(Lê Ngọc Chương - “Chiếc thuyền ngoài xa”, một ẩn dụ của Nguyễn Minh Châu) tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc giống
như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân
tường...”. Nguyễn Minh Châu từng tâm sự: “Nhà văn phải là
- Là cây bút đi tiên phong cho quá trình đổi mới văn
học như nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: “Nguyễn một thứ côn trùng lấy cây rau mà thăm dò không khí thời đại.
Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường Nhưng nhà văn muốn có tầm cỡ thời đại thì phải ngụp sâu
tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. vào dân tộc mình, nhân dân mình...” Nguyễn Minh Châu
Ông luôn ý thức về ngòi bút của mình, luôn trăn trở, quan niệm nghệ thuật và cuộc sống phải có mối liên hệ chặt
tìm tòi, đổi mới cách viết cũng như phát hiện những chẽ. Sau 1975, ông đã phê phán lối viết “tráng lên một lớp
điều mới mẻ, có ý men trữ tình” cho hiện thực đời sống. Theo ông, “viết văn là
nghĩa trong cuộc sống để thể hiện.
phải đào xới tới tận cùng cái đáy của cuộc đời”, người nghệ sĩ
- Quá trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu: chia làm
2 chặng: phải biết “vất bỏ thói quen mã hóa hiện thực đời sống”,
 Trước 1975: chủ yếu là những tác phẩm mang tránh “dễ dãi về cách nhìn và phô bày đời sống một cách
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. giản đơn”. “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng
Từ  Sau 1975: tác phẩm của ông chuyển hẳn sang cảm tâm mà tâm điểm là con người”.
khó hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lý nhân => Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đã chuyển
a sinh. hóa vào thực tiễn sáng tác mà Chiếc thuyền ngoài xa là một
- Trong thời kì nào Nguyễn Minh Châu đều sáng tác
trong những tác phẩm tiêu biểu cho những quan niệm ấy.
theo phương châm “Đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm
hồn mỗi con người” và ông luôn có cái nhìn thấu hiểu,
Câu chuyện thú vị về Nguyễn Minh Châu:
trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu đối với con người.
- Là cây bút có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, Nguyễn Minh Châu bị “gãy”
cuộc sống của những người lính ngoài chiến trường
cũng như cuộc sống của những người dân chài sau Một dịp nhà văn Nguyễn Minh Châu về quê và được một cán bộ
chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một bức tuyên huấn dẫn đến trường học nói chuyện văn chương. Nhà văn
tranh góc cạnh có chiều sâu, có sức khái quát cao về
mới nói được một chập thì các cử tọa tỏ ra “không thèm nghe”,
cuộc sống đa diện, nhiều chiều luôn vận động và phát
triển. cứ làm việc riêng, mỗi lúc một ồn ã, rồi thì kẻ ra người vào khá
- Nguyễn Minh Châu quan niệm nghệ thuật và cuộc nhốn nháo. Nhà văn cũng đã thấy ngao ngán, chưa biết xử sự thế
sống phải có mối liên hệ chặt chẽ. nào thì đồng chí cán bộ tuyên huấn dẫn nhà văn đi nói chuyện
xông lên bục “quảng cáo” về nhà văn rất kêu, nào Nguyễn Minh
Châu là nhà văn lớn, nổi tiếng khắp nước và khắp... thế giới; nào
Nguyễn Minh Châu làm đến chức Ủy viên Ban chấp hành Hội
Nhà văn... Người cán bộ bước xuống, Nguyễn Minh Châu sau
một lát né sang một bên, tiếp tục ra đứng trước micro đăng đàn.
Nhưng tình thế không hề xoay chuyển tốt lên, ngược lại thêm
xấu đi. Nguyễn Minh Châu nghĩ, lúc này thượng sách là đánh
bài chuồn, bèn “nói tóm lại” vắn tắt ít phút, cám ơn mọi người
“đã chú ý lắng nghe, “hẹn một dịp khác gặp lại”... rồi rút lui vội.
Điều thú vị là khi Nguyễn Minh Châu kể lại cho bạn bè về cái
lấn đăng đàn “bị gãy 100%” của mình như trên, nhà văn không
hề tỏ ra mảy may đau khổ gì sất, ngược lại còn có vẻ... khoái.
(Nguồn: Văn Nghệ Quân Đội số 651)
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: Để hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa", các em có thể tham khảo bài báo
1. Hoàn cảnh sáng tác – xuất xứ: dưới đây được ghi bởi TRẦN ĐỨC TÀI ( BÁO GIÁO DỤC
VÀ THỜI ĐẠI)
- Từ những năm 80 của thế kỉ XX,từ cảm hứng sử thi lãng
mạn của những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, cảm hứng GD&TĐ - Nếu cái Đẹp là sự sống thì Mẫu tính là nguồn cội
sáng tác của nhà văn dần dần chuyển sang tính chất triết luận của sự sống. Hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn
về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản con người của Nguyễn Minh Châu thì viên ngọc quý giá nhất,
chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc sáng nhất là Mẫu tính. Nhà viết kịch người Anh, George
nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc Bernard Shaw từng cho rằng: Vũ trụ có nhiều kỳ quan nhưng
thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm ra đời trong kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ.
mạch cảm xúc này của tác giả.
- Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu trong tập Bến quê, Mẫu tính là tất cả cái phần sâu thẳm như một thứ thiên phú
sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tập truyện ngắn từ của tâm hồn nữ giới, là bản năng sinh ra sự sống và bản năng
truyện Bức tranh trở đi, in năm 1987. hi sinh cho sự sống bằng cả cưu mang, chăm lo, che chở và
xả thân. Nếu cái Đẹp là sự sống thì Mẫu tính là nguồn cội của
Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của tác phẩm sự sống. Hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn
như sau: con người của Nguyễn Minh Châu thì viên ngọc quý giá nhất,
● Tháng 8 năm 1983: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn sáng nhất là Mẫu tính.
Minh Châu được sáng tác, in trong tập “Bến quê”.
● 1987: Sau đó, tác phẩm vinh dự được nhà văn dùng để đặt 1. Lời nhắn gửi quan trọng nhất của một truyện ngắn thường
tên cho cả tập truyện ngắn xuất bản năm 1987. cất lên từ tình huống truyện, từ những gì hiện ra như một
khoảnh khắc của đời sống mà tại đó xuất hiện một tương
2.Ý nghĩa tư tưởng, nhan đề: quan bất thường nào đấy.
- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho Cái bất thường của tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai là một nghịch lý oái oăm, trớ trêu: Một bức tranh mực tàu của
đoạn sáng tác thứ hai. danh họa thời cổ, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích,
- Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp cho nhà văn nhận ra đời nhưng khi nhìn gần, nhìn vào bên trong thì như một câu
sống con người cả ở những sự kiện bề nổi nhưng khuất lấp chuyện cổ đầy quái đản - đó là thảm trạng bạo hành tồi tệ, dã
trong bề sâu của nó, nhận ra những quy luật tất yếu lẫn những man, nhức nhối của chính cái gia đình sống trên chiếc thuyền
ngẫu nhiên, may rủi đầy bất trắc và khó lường trước của đời đó: Chồng đánh vợ, con đánh bố; trong cảnh đói nghèo triền
sống. miên - những khi ông trời làm động biển, suốt hàng tháng, cả
- Ông luôn day dứt về việc con người phải chịu đựng, phải nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
chấp nhận những nghịch lí mà lẽ ra là không đáng có trong muối...
một cuộc sống tốt hơn.
- Nhan đề: Chiếc thuyền trên biển sớm mờ sương là hình ảnh Đối diện với nghịch cảnh ấy, nhân vật Phùng - nghệ sĩ nhiếp
đẹp của nghệ thuật nhưng khi vào gần bờ thì người đọc thấy ảnh vỡ lẽ: Hóa ra cái đẹp bề ngoài thường che lấp cái xấu ở
được đó còn là nơi sinh sống của một gia đình làng chài bên trong. Đến với cuộc sống, tìm hiểu cuộc sống mà chỉ
nghèo khổ. Cuộc sống trên thuyền là sự đau khổ về đói nghèo đứng ngoài, đứng từ xa để ngắm nhìn, anh sẽ chỉ thấy được
và nạn bạo hành. => Chiếc thuyền ngoài xa không chỉ là một cái bề ngoài, không bao giờ đến được, thấy được sự thật cuộc
hình ảnh đẹp của nghệ thuật, mà người nghệ sĩ phải nhìn đời.
ngắm nó trong một cái nhìn đa diện nhiều chiều, nhìn nó
trong mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống để phát hiện Nghệ thuật phản ánh đời sống mà chỉ chụp ảnh cái bề ngoài
ra bàn chất thật về cuộc sống và con người. dù đẹp đến mức cảnh đắt trời cho, vẻ đẹp toàn bích đi nữa
cũng chỉ là thứ nghệ thuật giả dối, cái đẹp giả dối, là cái đẹp
phi đạo đức.

Giải mã nghịch lý của tình huống truyện, ta nghe được lời đề


nghị của nhà văn Nguyễn Minh Châu về cách nhìn đời và cả
lời kêu gọi: Hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và đời
sống. Muốn vậy, người nghệ sĩ phải hiểu biết cuộc đời cặn kẽ
như chính mình làm ra nó.
2. Con người là đối tượng hàng đầu của nghệ thuật, là trung Điều bất ngờ mà thú vị là người giải mã chuỗi nghịch lý ấy
tâm chú ý của người nghệ sĩ cũng như là chủ nhân của cuộc lại chính là nhân vật người đàn bà hàng chài. Câu chuyện về
sống. Khi ta nói cách nhìn đời của ngườinghệ sĩ thì cũng bao cuộc đời đau khổ của chị là sự lý giải, cắt nghĩa đầy sức
hàm trong đó cách nhìn nhận con người. thuyết phục.

Khi hướng tới đối tượng trung tâm của mình, tác phẩm nghệ Người đàn bà ấy không phải cam chịu, nhẫn nhục vô lý khi
thuật không chỉ thể hiện đời sống và phẩm chất của con mà hoàn cảnh sống không để cho chị một sự lựa chọn khác.
người, không chỉ đặt ra và giải quyết những vấn đề nảy sinh Là người thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời cho nên
trong quan hệ giữa con người và con người, giữa con người đối với người chồng vũ phu, tàn độc, chị là người thấu hiểu
và tự nhiên mà quan trọng hơn là tìm hiểu, khám phá và phát nên độ lượng, bao dung.
hiện ra những bí ẩn nằm trong chiều sâu những chiều kích
khác nhau của con người - một thực thể kì diệu và huyền bí. Đối với đàn con, chị là người mẹ giàu đức hi sinh, thể hiện
tình mẫu tử thật xúc động. Chị nói: “Ông trời sinh ra người
Hơn bốn mươi năm trước, Nam Cao đã đặt vấn đề nhìn người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho
trong truyện ngắn Lão Hạc: Chao ôi! Đối với những người ở nên phải gánh lấy cái khổ”.
quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ Chị mặc nhiên thừa nhận: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi (...) không bao giờ ta sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Vẫn biết đó là
thấy họ là những người đáng thương. Đó là lời của nhân vật cái sự lạc hậu nhưng đó cũng là điểm bám víu, là cội nguồn
ông giáo - một hóa thân của Nam Cao, đã chỉ ra: Phải nhìn sức mạnh để người đàn bà ấy cứng cỏi chấp nhận hiện thực,
người, phải tìm hiểu con người bằng đôi mắt tình thương. và sống tiếp.
Với đôi mắt ấy mà ông giáo cũng phải trải qua bao lần ngộ
nhận rồi vỡ lẽ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, cho đến khi Người mẹ nặng gánh mưu sinh ấy luôn tìm mọi cách để bảo
nhân vật từ giã cõi đời mới hiểu được một con người. Hành vệ thể xác và tâm hồn của con trẻ, chị chỉ khóc khi con bị
trình cố mà tìm hiểu để hiểu, để yêu thương con người mới đánh, và chị cười khi được ngồi nhìn đàn con chúng nó được
gập ghềnh làm sao! ăn no. Tình mẫu tử được chị ý thức như một thiên tính đương
nhiên của người phụ nữ. Những tổn thương, đau đớn của thân
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, một tác xác và cả tâm hồn rỉ máu, chị đành cam chịu và hóa giải nó
phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. bằng tình thương con, bằng trách nhiệm chỉ sống cho con.
Con người với tư cách là đối tượng của nhà văn cố mà tìm Vậy nên, chị từ chối quyết liệt những lời đề nghị ly hôn của
hiểu trong Chiếc thuyền ngoài xa là người đàn bà hàng chài. Đẩu và Phùng, vì ly hôn chị sẽ không còn bị đòn roi nhưng
Đó là nhân vật có sự đan bện, hợp thành của nhiều nghịch lý. đổi lại là một gia đình tan nát - điều khủng khiếp nhất của
Nhân vật Phùng - nghệ sĩ nhiếp ảnh, cùng với Đẩu - vị Bao một người mẹ. Chị không có bất cứ một sự lựa chọn nào
Công của cái phố huyện vùng biển nghe người đàn bà kể về khác.
cuộc đời mình, cùng một lúc thốt lên: “Không thể hiểu
được!” Quả thật là khó cắt nghĩa nổi khi mà một người đàn Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu sáng tạo nên
bà cần cù, đảm đang, một người vợ tốt mà vẫn bị bạo hành vô trong cuộc đời sáng tác của mình thì hình tượng người phụ nữ
cùng tàn bạo: Ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn. để lại ấn tượng sâu sắc nhất, là những hình tượng để đời, đó
Trong hoàn cảnh ấy người đàn bà vẫn cam chịu, không chống là các nhân vật: Quỳ trong tác phẩm Người đàn bà trên
trả, không kêu van, không trốn chạy, không khóc lóc, tự chuyến tàu tốc hành, nhân vật Thai trong Cỏ lau và người đàn
nguyện chịu đòn roi như là một phần không thể thiếu của bà không tên trong Chiếc thuyền ngoài xa.
cuộc đời mình. Mỗi nhân vật một số phận, một vẻ đẹp riêng, những diện mạo
Ấy vậy mà khi thằng Phác - con của chị, chống lại cha - kẻ vũ sâu sắc và phong phú đều là kết tinh tính cách Việt, là khuôn
phu tàn độc, để che chở cho mẹ thì chị lại khóc lóc, van xin mặt nghệ thuật đích thực thuộc phần ám ảnh nhất của Nguyễn
con. Chị thà chịu ở tù chứ nhất định không chịu bỏ kẻ hành Minh Châu. Vẻ đẹp cốt lõi nhất, cũng thật thâm trầm, nhuần
hạ mình. Người đàn bà ấy chấp nhận cả những điều tưởng nhị chính là MẪU TÍNH.
như phi lý: Trên thuyền phải có một người đàn ông, dù hắn Như ai đó đã từng tôn vinh: Vũ trụ có nhiều kỳ quan nhưng
man rợ, tàn bạo. Và khi được hỏi: Cả đời chị có lúc nào thật kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ. Mẫu tính - đó
vui không? thì chị khẳng định: “Có chứ!” là bản năng chăm lo, bảo vệ lấy sự sống của con người do
Giải mã những nghịch lý trên đây ta nhận được những kết quả người mẹ mang nặng đẻ đau sinh ra; là tình thương bẩm sinh
bất ngờ, một sự đột biến trong nhận thức về con người như của nữ tính; là tất cả cái phần sâu thẳm như một thứ thiên phú
nhân vật Đẩu trải nghiệm: Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu của tâm hồn nữ giới.
vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển.
Mẫu tính là bản năng sinh ra sự sống và bản năng hi sinh cho Đằng sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến không thể nào hiểu
sự sống bằng cả cưu mang, chăm lo, che chở và cả xả thân được lại là một bản lĩnh kiên cường, là sự can đảm của người
nữa. Nếu cái Đẹp là sự sống thì Mẫu tính là nguồn cội của sự mẹ chắt chiu khát vọng hạnh phúc đời thường.
sống. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
là đi tìm hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người thì viên Và sau vẻ quê mùa, thất học của một người đàn bà lao động
ngọc quý giá nhất, sáng nhất là Mẫu tính. bình thường lại là sự thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
Trong sâu thẳm trong tâm hồn người đàn bà hàng chài quê Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình, dáng vẻ đến
mùa, lam lũ, nhẫn nhục, cam chịu Mẫu tính chính là những cử chỉ, lời nói, hành động... nhân vật người đàn bà hàng chài
hạt ngọc lấp lánh. Hóa ra, cái xấu ở bên ngoài, ở bề nổi cũng đã trở thành biểu tượng đầy ám ảnh giúp nhà văn Nguyễn
thường che lấp những cái Đẹp, những cái cần được chia sẻ, Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm
cảm thông ở bề sâu. cảm thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất
Không chỉ có Phùng, Đẩu - người trong cuộc mới vỡ lẽ ra mà hạnh, khốn khổ trong cuộc sống đói nghèo, tăm tối; đó là
người đọc cũng sửng sốt, bàng hoàng để rồi vỡ ra cả một thế niềm cảm thông, thấu hiểu với số phận con người trong cuộc
giới cảm xúc vừa thương cảm, đau đớn, xót xa, vừa yêu mưu sinh nhọc nhằn trong hành trình gian nan, đau khổ kiếm
thương, trân trọng và cảm phục. tìm hạnh phúc và sự bình yên, và đó còn là niềm trân trọng,
3. Trước câu chuyện của người đàn bà hàng chài, chánh án tin yêu với những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách
Đẩu đã phải rời khỏi chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những những con người nhân hậu, vị tha, sâu sắc và dũng cảm.
chồng hồ sơ, giấy má, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và Những ẩn khuất sau câu chuyện của người đàn bà hàng chài
đầy suy nghĩ. Thế rồi, một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị sẽ luôn sống trong lòng người đọc, đánh thức trách nhiệm của
Bao Công của cái phố huyện vùng biển. mỗi người với cuộc đời này.
Còn nghệ sĩ Phùng, anh đã có được tấm ảnh ưng ý cho bộ lịch
năm đó. Tấm ảnh đen trắng đã được treo ở nhiều nơi, nhất là
trong các gia đình sành nghệ thuật, nhưng mỗi lần ngắm kĩ,
người nghệ sĩ vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ anh nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và
nhìn lâu hơn, anh lại thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những
đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa
thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới
suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên
mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông...

Thì ra, giải pháp bỏ chồng mà Phùng và Đẩu đưa ra để áp


dụng cho người đàn bà là không ổn. Lòng tốt là đáng quý
nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào
đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào
những hoàn cảnh cụ thể.

Thiện chí, lý thuyết cần phải gắn với thực tế. Triết lý về cách
nhìn con người và cuộc đời, triết lý về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc sống, vai trò của người nghệ sĩ trong sáng tạo...
đó là tất cả những chiêm nghiệm sâu sắc mà Nguyễn Minh
Châu đem đến cho người đọc trong thiên truyện Chiếc thuyền
ngoài xa.
Nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa được nhà văn Nguyễn Minh Châu khắc họa
sắc nét theo lối tương phản giữa bên trong và bên ngoài, giữa
thân phận và phẩm chất. Vẻ đẹp của hình tượng là những ẩn
khuất mà mới nhìn khó có thể đoán định. Đằng sau vẻ xấu xí,
thô kệch là một tầm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức
hi sinh.
Nhận xét về tác giả và tác phẩm: III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:

1. Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ
kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức
khám phá tất cả những cái đó. (Nguyễn Minh Châu)

2. Trên con đường đi tới chủ nghĩa hiện thực, đôi khi chúng
ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài
của chính mình. (Nguyễn Minh Châu)

3. Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật 1. Nhân vật Phùng - Hai phát hiện của người nghệ sĩ:
nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và
rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm a. Khái quát:
ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá - Những trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư
những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì duy nghệ thuật, về thiên chức của người nghệ sĩ đã được thể
phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống hiện đầy tinh tế qua nhân vật Phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh
cùng cuộc đời (Lê Ngọc Chương - “Chiếc thuyền ngoài xa”, trong chuyến đi thực tế đã khám phá, chiêm nghiệm nhiều
một ẩn dụ của Nguyễn Minh Châu) điều sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
- Anh là người say mê công việc và có ý thức trách nhiệm với
4. Nhân quyền “giống như món trang sức đắt tiền trong tủ nghề nghiệp của mình.
kính mà những đôi bàn tay lam lũ không thể chạm vào”. - Anh sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để săn lùng những bức ảnh
(Trích bài viết “Chiếc thuyền ngoài xa: sự xa xỉ quyền của đẹp, những “cảnh đắc trời ban”.
con người) b. Hai phát hiện của Phùng:
 Phát hiện thứ 1 của Phùng đầy vẻ thơ mộng:
5. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc
- Để có được tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu
khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh,
cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đã tới một vùng biển
xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không
miền Trung từng là chiến trường cũ của anh.
biết đâu là bến bờ hạnh phúc. (Ngọc Huy)
- Đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ
6. Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương.
thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường - Tâm trạng của người nghệ sĩ: người nghệ sĩ trở nên “bối
rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này. rối”, cảm thấy “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”,
(Nhà văn Nguyễn Khải) trong khoảnh khắc ấy, anh phát hiện ra “cái đẹp chính là đạo
7. Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống đức”, “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá
hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý. => Đó là phút giây hạnh phúc tột đỉnh bởi người nghệ sĩ đã
(Nhà văn Tô Hoài) cảm nhận được cái chân thiện mĩ của cuộc đời.
 Phát hiện đầy nghịch lí, trớ trêu như trò đùa của cuộc
sống:
- Cảnh tượng: người đàn ông đánh đập vợ một cách thô bạo,
dã man, đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy
hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát.
- Thái độ của người nghệ sĩ trước cảnh tượng này: kinh ngạc
đến sững sờ, anh không ngờ đằng sau cái vẻ toàn bích của tạo
hóa lại có cái xấu, cái ác đến mức không thể tin được. Không
thể chịu được khi thấy cảnh tượng ấy, Phùng đã vứt chiếc
máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới.
- Bản chất người lính khiến anh không thể làm ngơ trước bạo
hành.
Đó là một khung cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ, lung linh, huyền ảo
 Ý nghĩa của hai phát hiện: trong màn sương sớm. Từ góc nhìn của người họa sĩ nhiếp ảnh,
- Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, bạn đọc nhận thức Phùng hài lòng vì những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức
được rằng: ảnh chiếc thuyền ngoài xa là sáng tạo nghệ thuật đích thực của một
đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mê sáng tạo, là
+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, không phải bao giờ
“phút linh” một đi không trở lại. Đối với người nghệ sĩ, không gì
cũng đẹp, cũng là nghệ thuật mà nó chứa đựng nhiều
hạnh phúc hơn khi được khám phá và sáng tạo, cảm nhận được cái
nghịch lí, mâu thuẫn giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và đẹp. Khi được chiêm ngưỡng bức ảnh nghệ thuật của tạo hóa, người
cái ác. nghệ sĩ trở nên “bối rối”, cảm thấy “trong trái tim như có cái gì bóp
+ Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong mối quan hệ thắt vào”. Và, trong khoảnh khắc ấy, anh phát hiện ra “cái đẹp
đa chiều, bằng nhiều góc độ khác nhau. chính là đạo đức”, “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện,
 Nhận xét: khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Ngòi bút
- Mang bóng dáng của chính nhà văn, Phùng đã thể hiện sự của Nguyễn Minh Châu thật tinh tế khi miêu tả cảm giác run rẩy
trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy nghệ của người nghệ sĩ trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên. Đó là
thuật, về thiên chức của người nghệ sĩ, về cuộc đấu tranh với phút giây hạnh phúc tột đỉnh bởi người nghệ sĩ đã cảm nhận được
cái chân thiện mĩ của cuộc đời, cảm nhận thấy tâm hồn mình như
chính mình để hoàn thiện nhân cách.
được thanh lọc, như được trở nên trong trẻo và tinh khiết.
- Anh vừa tự hào về bức ảnh, vừa trăn trở khi thấy hiện ra
Những bóng người bất động, “ngồi im phăng phắc” trên chiếc
đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là bóng dáng cuộc sống tù đọng,
thuyền ngoài xa – nhân vật nghệ thuật, trở thành sinh động, thành
nhẫn nhục của những ngư dân vùng biển. con người của cuộc đời thường bộn bề phức tạp, khi nhà văn cho
con thuyền tiến vào bờ. Tại đây, trong khoảng không gian gần hơn,
Phân tích chi tiết: ngay khi tâm hồn đang bay bổng với những cảm xúc thẩm mĩ, đang
Những trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy tận hưởng khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ đã
nghệ thuật, về thiên chức của người nghệ sĩ đã được thể hiện đầy tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã. Một lão đàn ông “hai
tinh tế qua nhân vật Phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh trong con mắt đầy vẻ độc dữ” cùng với người đàn bà “trạc ngoài bốn
chuyến đi thực tế đã khám phá, chiêm nghiệm nhiều điều sâu sắc mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với
về nghệ thuật và cuộc đời. những đường nét thô kệch”, cả hai vừa bước xuống từ chiếc thuyền
Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một tình huống mang ý nghĩa ngoài xa tuyệt đẹp ấy. Lão đàn ông thẳng tay lấy “chiếc thắt lưng
khám phá, phát hiện về đời sống và con người thông qua cái quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Lão đàn ông đánh vợ một cách
nhìn của Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh là người say mê tàn nhẫn, không nương tay “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai
công việc và có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp của mình. Ở hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa
Phùng bộc lộ một niềm đam mê cái đẹp. Anh sẵn sàng bỏ ra bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng
mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Vốn là người lính, căm ghét sự áp
hàng tuần để săn lùng những bức ảnh đẹp, những “cảnh đắc trời
bức. Mới đầu chứng kiến, anh “đứng há hốc mồm mà nhìn”. Người
ban”. Và cũng chính tại vùng biển hoang sơ này Phùng đã chụp
nghệ sĩ như “chết lặng”, anh không ngờ đằng sau cái vẻ toàn bích
được bức ảnh đích thực của một đời lao động nghệ thuật nghiêm
của tạo hóa lại có cái xấu, cái ác đến mức không thể tin được. Sau
túc, đồng thời phát hiện được nhiều sự thật cuộc đời.
đó như một phản xạ tự nhiên, anh vứt chiếc máy ảnh xuống đất,
Để có được tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu chạy nhào tới. Nhưng thằng Phác, con trai lão đã kịp đến che chở
của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đã tới một vùng biển miền cho mẹ. Không còn sương mù, không còn biển cả, chỉ còn lại những
Trung từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tình bố cục, đã nghịch lí cuộc đời. Tấn bi kịch gia đình ngư dân ấy chính là muôn
“phục kích” mấy buổi sáng để chộp được một cảnh thật ưng ý. mặt cuộc đời - “ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ
Đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp với màu đen đầy rẫy những biến động, những bất ngờ...” (Nguyễn
“trời cho” trên mặt biển mờ sương. Vẻ đẹp mà cả đời bấm máy Khải).
anh chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần. Đó là Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, bạn đọc nhận thức được rằng:
hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó đang lướt thẳng vào bờ trên Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, không phải bao giờ cũng đẹp,
mặt biển mờ sương như “một bức tranh mực tàu của một danh cũng là nghệ thuật mà nó chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn
họa thời cổ”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả thật chi giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác. Người nghệ sĩ phải tìm
tiết và sống động khung cảnh tuyệt mĩ ấy: “Mũi thuyền in một hiểu cuộc đời trong mối quan hệ đa chiều, bằng nhiều góc độ khác
nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng sữa có pha nhau.
đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, “vài bóng người Mang bóng dáng của chính nhà văn, Phùng đã thể hiện sự trăn trở
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy nghệ thuật, về thiên
khum khum đang hướng mặt vào bờ”. “Toàn bộ khung cảnh từ chức của người nghệ sĩ, về cuộc đấu tranh với chính mình để hoàn
đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp một vẻ đẹp đơn giản thiện nhân cách. Anh vừa tự hào về bức ảnh, vừa trăn trở khi thấy
hiện ra đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là bóng dáng cuộc sống tù đọng,
và toàn bích”.
nhẫn nhục của những ngư dân vùng biển. Hình ảnh ấy in đậm trong
tâm khảm người đọc khiến tác phẩm luôn vang vọng những ý nghĩa
mới mẻ sau mỗi lần đọc lại.
2. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện: Chị có thể giải thoát mình khỏi bị kịch gia đình bằng cách ly
hôn với chồng, nhưng lại có bất hạnh của mình là lẽ đương
Kiến thức khái quát: nhiên bởi trong cuộc mưu sinh không dễ dàng gì trên chiếc
- Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông
chánh án Đẩu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ ấy, khỏe mạnh, biết nghề, chỉ vì có những đứa con cần được sống
chị chịu đau đớn, đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ và lớn lên. Trong những chuỗi ngày cực nhọc, lam lũ, chị
chồng. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án cũng biết chắt gạn niềm vui: “Ở trên thuyền, cũng có lúc vợ
huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những chồng, con ai chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. “Vui nhất là
người như Phùng, Đẩu hiểu được nguyên do của những điều lúc ngồi nhìn đàn con tôi, chúng nó được ăn no”. Qua những
tưởng chừng vô lí. lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương ấy, người ta
+ Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam mới thấy nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh của chị.
chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn Đó là tình thương vô bờ dành cho những đứa con “đám đàn
khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. bà ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo
Vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp
+ Qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa...phải sống cho con
thương ấy, người ta mới thấy nguồn gốc của mọi sự chịu chứ không thể sống cho mình”.
đựng, hi sinh của chị. Đó là tình thương vô bờ dành cho Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản thì chỉ cần yêu cầu người
những đứa con “đám đàn bà ở thuyền chúng tôi cần phải đàn bà li dị chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách
có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng thấu suốt thì sẽ thấy suy nghĩ và cách ứng xử của người đàn
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên bà hàng chài là không thể khác được. Trong khổ đau triền
dưới chục đứa...phải sống cho con chứ không thể sống cho miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh
mình”. phúc nhỏ nhoi. Vậy là cái vỡ ra trong đầu Đẩu (vị chánh án
=> Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản thì chỉ cần yêu cầu miền biển) và cũng là của Phùng là: người đàn bà không phải
người đàn bà li dị chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một là không mơ đến một hạnh phúc, không nghĩ đến nỗi khổ cực,
cách thấu suốt thì sẽ thấy suy nghĩ và cách ứng xử của người tủi nhục của mình. Đằng sau cái sự lạc hậu mà người đàn bà
đàn bà hàng chài là không thể khác được. Trong khổ đau triền tự biết là cả một sự thấu hiểu lẽ đời, cả một sự hi sinh đáng
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh quý. Ở chị vẫn ngời lên chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn
phúc nhỏ nhoi. nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là
- Qua câu chuyện ở tòa án huyện, ta thấm thía rằng không thể người đàn bà vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng
dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời. Đối với Đâu
của đời sống. và Phùng, là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu
vì sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn
Phân tích chi tiết:
say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với cái ác...nhưng vẫn
Tình huống truyện phát triển đẩy mạch truyền sang một tầng
thiếu kiến thức thực tế, vẫn giải quyết mọi thứ bằng lí thuyết
hiện thức sâu hơn khi nhân vật Phùng chứng kiến câu chuyện
suông, bằng lòng tốt còn nông cạn, hời hợt. Hiện thực trớ
tại tòa án (huyện). Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện
trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức
theo lời mời của chánh án Đẩu, người có ý định khuyên bảo,
được những chân lí, những lẽ đời sâu sắc.Từ cái nhìn hiện
thậm chí đề nghị người đàn bà khốn khổ ấy từ bỏ lão chồng
thực mang tính chất khám phá, phát hiện, có chiều sâu,
vũ phu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ ấy, chị
Nguyễn Minh Châu muốn phê phán cái nhìn lãng mạn, một
chịu đau đớn, đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ chồng.
chiều với cuộc sống. Nhà văn đặt ra vấn đề trách nhiệm của
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu
người nghệ sĩ, của nghệ thuật phải đào sâu, phải khám phá,
chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những người như Phùng,
nhẫn nại với thực tế, dù thực tế ấy phũ phàng. Qua câu
Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng chừng vô lí.
chuyện ở tòa án huyện, ta thấm thía rằng không thể dễ dãi,
Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị
đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của
chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba
đời sống.
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Vậy mà vẫn
nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Người đàn bà
hàng chài van xin tòa cho chị được sống cùng người chồng vũ
phu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tội con cũng được,
nhưng đừng bắt con bỏ nó...”.
3. Các nhân vật trong truyện: phu với lí lẽ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống
cho con chứ không phải sống cho mình như trên đất
Kiến thức khái quát: được”. Đây là cách ứng xử thể hiện tình yêu thương con
a. Nhân vật người đàn bà hàng chài: vô bờ.
 Đây là người đàn bà không tên, điển hình cho những người + Hành động thương con: gọi con, ôm chầm lấy con, đau
phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng giàu tình thương yêu. đớn khi con đã chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
 Ngoại hình: - Giàu lòng nhân hậu, vị tha và luôn biết chắt chiu những
- Trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt hạnh phúc đời thường.
rỗ và tấm lưng áo bạc phếch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một + Cách nhìn của người đàn bà về người chồng của mình:
đêm kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Nếu nghệ sĩ Phùng nhìn người đàn ông dưới góc độ lí lịch,
=> Chân dung con người có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, thành phần, chánh án Đẩu nhìn người đàn ông dưới góc độ
sinh ra để gánh vác công việc, để chèo chống với phong ba. pháp luật, thằng Phác nhìn người đàn ông dưới con mắt trẻ
 Số phận: thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ - nạn nhân của bạo hành
- Xấu xí: vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người gia đình lại nhìn anh ta dưới con mắt thương cảm bởi chị
khác, bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá hiểu lí do vì sao người chồng lại trở nên độc ác như vậy.
giả, có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh nặng mưu sinh đã ghì
nên duyên với ai. Người đàn bà lại có mang với một anh con con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm tính con người.
trai nhà hàng chài hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã Trong khi mọi người nhìn người đàn ông như một ác nhân
trở thành vợ chồng. thì người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân.
- Nghèo khổ: gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp + Người phụ nữ luôn chắt chiu, trận trọng những niềm hạnh
nghèo túng quanh năm. Những ngày không đi biển được, cả phúc nhỏ nhoi, đời thường: vui nhất khi nhìn đàn con được ăn
nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối. no, khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hòa thuận.
- Bị bạo hành gia đình: - Mặc dù thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời,
+ Bạo hành về thể xác: Người chồng chị vốn hiền lành thấu tình đạt lí.
nhưng cục tính, bị cái nghèo, cái khổ và nỗi vất vả đè nặng + Qua những tâm sự ở tòa án huyện: Chị xuất hiện ở tòa án
nên biến đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu, thường xuyên huyện trong tâm thế bị động, không tự nguyện và cũng không
đánh vợ để giải tỏa những khó chịu, ấm ức “ba ngày một muốn viết đơn bỏ chồng. Khi mới bước chân đến tòa án, chị
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ khi nào lão thấy khổ tỏ ra rất lúng túng và sợ sệt, xưng hô lễ phép “con” - “quý
quá lại lôi vợ ra đánh, trút giận với những lời lẽ cay độc”. tòa” và nhìn xung quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng khi nghe
Người đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu đựng “không hề kêu một lời khuyên và hiểu thiện chí của Đẩu, của Phùng, chị thay đổi
tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. thái độ: từ chối lời đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi giá
+ Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần: khi phải chứng kiến để không phải bỏ chồng, đưa ra những lí do bằng việc kể lại
đứa con căm ghét bố đến tột cùng mà mình không có cách câu chuyện về cuộc đời mình. Qua câu chuyện ta thấy được
nào để xóa đi sự thù hằn đó, người đàn bà đã ý thức được trong sự cam chịu, nhẫn nhục đầy vô lí ấy lại chứa đựng cái lí
sự nguy hiểm của cái ác và thói côn đồ hình thành trong của sự hi sinh.
lòng đứa con. Chị đã cho con về sống với ông ngoại ở trên + Có thể thấy sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời ở người
rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, phụ nữ này không bộ lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà được cất
thằng bé lại không thể làm ngơ khi mẹ bị đánh. Với sự giữ, giấu kín ở bên trong. Đây là người phụ nữ khiêm
bồng bột của tuổi trẻ, đứa con đã ném hận thù về phía nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách sống cho riêng
người cha và sẵn sàng giấu con dao trong người để giết mình.
cha, khiến người mẹ vô cùng đau đớn. Nỗi đau này lớn => Qua câu chuyện, ta thấy rõ không thể dễ dãi đơn giản
hơn nỗi đau thể xác. trong việc nhìn nhận một sự việc, hiện tượng, con người
 Vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất: trong cuộc sống.
- Yêu thương chồng con:  Chiều sâu tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua nhân vật:
+ Chị chấp nhận, cam chịu bị đánh không kêu ca, không - Giá trị hiện thực: Đất nước vẫn chưa thoát khỏi sư chấn của
trốn chạy bởi chị hiểu trong cuộc sống mưu sinh đầy gian chiến tranh, đời sống của nhân dân và số phận cá nhân là
khổ trên con thuyền rất cần người đàn ông dù người đàn những vấn đề không thể giải quyết nhanh chóng, cách mạng
ông ấy có man rợ, tàn bạo. Vì cuộc sống của những đứa không thể giải quyết bi kịch cho mỗi cá nhân một cách đơn
con, chị thà bị đánh chứ không chịu bỏ chồng. giản, bởi vậy mỗi con người phải đối diện với bi kịch của
cuộc đời mình, chấp nhận nó và dung hòa với nó.

- Giá trị nhân đạo:


+ Chị đã từ chối lời đề nghị giải thoát ra khỏi lão chồng vũ + Thể hiện cái nhìn mang tính chất cảm thông, chia sẻ.
+ Lên án nạn bạo hành gia đình với những hành động đi cách chạy trốn”. Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần: khi phải
ngược lại quyền sống của con người, phá hủy mối quan hệ tốt chứng kiến đứa con căm ghét bố đến tột cùng mà mình không
đẹp giữa người với người. có cách nào để xóa đi sự thù hằn đó, người đàn bà đã ý thức
+ Phát hiện và ca ngợi những phẩm chất của con người. Từ được sự nguy hiểm của cái ác và thói côn đồ hình thành trong
đó đặt niềm tin vào bản tính tốt đẹp của con người. lòng đứa con. Chị đã cho con về sống với ông ngoại ở trên
● Khái quát: rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, thằng
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống đầy nghịch lí thông bé lại không thể làm ngơ khi mẹ bị đánh. Với sự bồng bột của
qua việc khắc họa ngoại hình và xây dựng lớp ngôn ngữ đối tuổi trẻ, đứa con đã ném hận thù về phía người cha và sẵn
thoại để người đàn bà hàng chài bộc lộ những phẩm chất sàng giấu con dao trong người để giết cha, khiến người mẹ vô
đáng quý. Từ đó nhà văn phản ánh chân thực cuộc sống với cùng đau đớn. Nỗi đau này lớn hơn nỗi đau thể xác. Có nỗi
những bi kịch của con người miền biển sau chiến tranh và thể đau nào đau khổ hơn khi là mẹ mà phải chứng kiến con hận
hiện những đổi mới trong quan niệm của nhà văn về con cha, gia đình tan nát, không có yêu thương chỉ có hận thù?
người, về cách nhìn nhận cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện tất cả đó qua câu
- Với cách xây dựng tình huống và nghệ thuật kể chuyện độc chuyện của người đàn bà nơi tòa án huyện. Người đọc không
đáo, chân thực, nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, đào thể nào quên những hình ảnh một người phụ nữ miền biển
sâu tâm lí để nhân vật tự đối diện và phơi trải lòng mình, mang trong mình nỗi đau khổ, sự nhẫn nhục của một cuộc đời
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã để lại lam lũ, vất vả đến cùng cực. Nhà văn đã khơi gợi trong người
trong lòng người đọc những dư vang nghệ thuật về cuộc đọc sự cảm thông sâu sắc với những số phận như người đàn
sống. bà này. Nếu không có một tấm lòng nhân đạo sâu sắc,
Nguyễn Minh Châu làm sao có thể viết nên những trang văn
Phân tích chi tiết: là những trang đời thấm đượm tình người như thế!
Chị là một người đàn bà tuy có chồng con nhưng lại vô danh: Ngòi bút khám phá con người của Nguyễn Minh Châu còn
xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được thể hiện qua sự phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của
được biết đến tên gọi của chị, khi thì gọi là “người đàn bà con người dù sống trong tăm tối khó khăn. Đó là vẻ đẹp của
hàng chài”, lúc lại gọi là “mụ”, rồi đến “chị ta”...Đây là điển tâm hồn, phẩm chất của người đàn bà hàng chài. Ẩn sau một
hình cho những người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng giàu số phận nghiệt ngã, những biểu hiện có phần nhu nhược, yếu
tình thương yêu. đuối lại là một tấm lòng sáng ngời. Người đàn bà hàng chài là
Người đàn bà đó có ngoại hình trạc ngoài 40, cao lớn với một người vợ thương chồng, một người mẹ thương con. Chị
những đường nét thô kệch, mặt rỗ và tấm lưng áo bạc phếch. chấp nhận, cam chịu bị đánh không kêu ca, không trốn chạy
Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm kéo lưới, tái ngắt và dường bởi chị hiểu trong cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ trên con
như đang buồn ngủ. Có lẽ chăng đây chính là chân dung con thuyền rất cần người đàn ông dù người đàn ông ấy có man rợ,
người có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, sinh ra để gánh vác tàn bạo. Vì cuộc sống của những đứa con, chị thà bị đánh chứ
công việc, để chèo chống với phong ba! Con người chỉ vì xấu không chịu bỏ chồng. Chị đã từ chối lời đề nghị giải thoát
xí nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người khác. Bệnh đậu khỏi lão chồng vũ phu với lí lẽ: “Đàn bà trên thuyền chúng
mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như trên
phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên với ai. đất được”. Đây là cách ứng xử thể hiện tình yêu thương con
Người đàn bà lại có mang với một anh con trai nhà hàng chài vô bờ. Tấm lòng người mẹ còn ôm ấp nghẹn ngào, gọi con,
hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã trở thành vợ ôm chầm lấy con, đau đớn khi con đã chứng kiến cảnh bạo
chồng. Hoàn cảnh gia đình ấy cũng nghèo khổ và thiếu thốn. lực gia đình. Người phụ nữ sống vì gia đình ấy là hiện thân
Một gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp nghèo cho một tấm lòng nhân hậu, vị tha. Chị có một cái nhìn rất
túng quanh năm. Những ngày không đi biển được, cả nhà thương cảm với chồng. Nếu nghệ sĩ Phùng nhìn người đàn
phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cả nguồn sống của ngần ông dưới góc độ lí lịch, thành phần, chánh án Đẩu nhìn người
ấy miệng ăn phụ thuộc hoàn toàn vào biển cả khi dịu êm, khi đàn ông dưới góc độ pháp luật, thằng Phác nhìn người đàn
phong ba bão táp. ông dưới con mắt trẻ thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ - nạn
Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn phải chịu đựng nhân của bạo hành gia đình lại nhìn anh ta dưới con mắt
những nỗi đau cả về thể xác và tinh thần của cảnh bạo lực gia thương cảm bởi chị hiểu lí do vì sao người chồng lại trở
đình. Người chồng của chị vốn hiền lành nhưng cục tính, bị nên độc ác như vậy. Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh nặng
cái nghèo, cái khổ và nỗi vất vả đè nặng nên biến đổi tâm tính mưu sinh đã ghì con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm
trở thành kẻ vũ phu, thường xuyên đánh vợ để giải tỏa những tính con người.
khó chịu, ấm ức “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận Trong khi mọi người nhìn người đàn ông như một ác nhân thì
nặng, cứ khi nào lão thấy khổ quá lại lôi vợ ra đánh, trút giận người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân. Chị luôn chắt
với những lời lẽ cay độc”. Người đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu chiu, trân trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường:
đựng “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm
vui nhất khi nhìn đàn con được ăn no, khi vợ chồng, con cái Người nghệ sĩ cần ứng xử như thế nào về mối quan hệ giữa
sống vui vẻ, hòa thuận. Người đàn bà hàng chài dường như hiện thực đời sống và văn chương nghệ thuật? Nghệ thuật
không biết nghĩ đến mình, đối xử với mọi người bằng tình tiếp cận hiện thực ra sao để không bỏ quên số phận con
thương và sự đồng cảm. người? Phải chăng tác phẩm là một lời nhắc nhở hay là một
niềm tin sâu xa của Nguyễn Minh Châu về sứ mệnh cao quý
Chị tuy thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, của người cầm bút? Lí giải cho tất cả những băn khoăn, trăn
thấu tình đạt lí. Chị xuất hiện ở tòa án huyện trong tâm thế bị trở ấy, Nguyễn Minh Châu chính là “người mở đường tinh
động, không tự nguyện và cũng không muốn viết đơn bỏ anh và tài năng nhất”, chọn cho mình tư tưởng sáng tác
chồng. Khi mới bước chân đến tòa án, chị tỏ ra rất lúng túng hướng về con người. Tâm điểm của văn học và cuộc sống
và sợ sệt, xưng hô lễ phép “con” - “quý tòa” và nhìn xung chính là con người và người vẽ nên chiếc “tâm” của những
quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng khi nghe lời khuyên và hiểu “đường tròn đồng tâm” kia sao cho trọn vẹn nhất lại phụ
thiện chí của Đẩu, của Phùng, chị thay đổi thái độ: từ chối lời thuộc vào chính cái “Tài” và cái “Tâm” của một người nghệ
đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi giá để không phải bỏ sĩ chân chính.
chồng, đưa ra những lí do bằng việc kể lại câu chuyện về
cuộc đời mình. Qua câu chuyện ta thấy được trong sự cam
chịu, nhẫn nhục đầy vô lí ấy lại chứa đựng cái lí của sự hi
sinh. Có thể thấy sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời ở
người phụ nữ này không bộ lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà
được cất giữ, giấu kín ở bên trong. Đây là người phụ nữ
khiêm nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách sống
cho riêng mình.

Đã có những sự thay đổi trong cách nhìn nhận cuộc sống để


nhà văn phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ này -
cách nhìn đa chiều, không dễ dãi, giản đơn và thấm đượm
tình người. Tất cả đó xuất phát từ tinh thần nhân đạo trong
trái tim người nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu.

Cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ
nữ; đau đớn trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những
bi kịch của con người trong cuộc sống thời bình.

Cùng với việc thể hiện thế giới quan của mình về cuộc sống,
con người, toát lên từ trang văn ấy, ta còn nhận được một
điều gì cao cả hơn như vậy, phải chăng chính là tư tưởng của
Nguyễn Minh Châu qua sự khám phá đó. Đó là một tấm lòng
cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ
nữ; đau đớn trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những
bi kịch của con người trong cuộc sống thời bình.

Bên cạnh đó tác phẩm còn thẫm đượm hồn văn của một trái
tim luôn khắc khoải, băn khoăn, trăn trở, suy tư sâu lắng về
những vấn đề của đời sống nhân sinh, của nghệ thuật. Đời
sống vốn phức tạp, đầy bí ẩn, chứa đựng vô vàn những
nghịch lý nên liệu có thể nhìn cuộc đời bằng cái nhìn giản
đơn, dễ dãi, xuôi chiều? Chiến tranh đã qua đi nhưng cuộc
đời của những con người lao động nghèo khổ sẽ như thế nào,
liệu có tươi sáng hơn? Tương lai của những đứa trẻ như thằng
Phác sẽ ra sao? Phải chăng cuộc chiến chống đói nghèo, tăm
tối còn gian nan, quyết liệt hơn cả cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm? Phải chăng đã đến lúc chúng ta phải chiến đấu
cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày b. Nhân vật nghệ sĩ Phùng:
một tốt hơn; đã đến lúc văn học phải viết về con người, trước
sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống? Kiến thức khái quát:
 Vị trí: hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài,
- Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của 1 người lính anh đã nhận ra những điều mới: “phải nhìn nhận mọi việc
và của 1 người nghệ sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế, một cách toàn diện”.
nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Đồng  Đánh giá:
thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm - Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng
với cuộc đời. đã có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu
 Đặc điểm tính cách: chuyện của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và
- Phùng là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có tình yêu để nhận ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu
cái đẹp mãnh liệt sắc.
+ Thể hiện qua tâm hồn tinh tế với những rung cảm rất - Nhân vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội
mãnh liệt, luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp hoàn mĩ. tự trong mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ
Phùng là một người say mê công việc và có ý thức trách đẹp của một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh
nhiệm với nghề nghiệp của mình. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng Châu đã khắc họa thành công nhân vật này trong một tình
tuần để săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy Phùng đã chụp huống đầy nghịch lí với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu
được bức ảnh đích thực của một đời lao động nghệ thuật chuyện được kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi,
và phát hiện được nhiều điều. chân thực và sâu sắc hơn.
+ Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm
nhận sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát Phân tích chi tiết:
hiện ra sự đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của 1 người lính và
nhất đầy vẻ thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ của một người nghệ sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế,
màng, huyền ảo của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Đồng
ảnh chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm
góc độ của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với cuộc đời. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của
với những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức ảnh trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa
ấy là sáng tạo, là công sức của một đời nghệ sĩ, là khoảnh của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật
khắc bùng phát của niềm đam mê nghệ thuật. Phát hiện thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều.
thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền tiến vào bờ. Người Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã
nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã, sự thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc
bạo hành gia đình. Mặc dù khám phá ra những đối lập cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.
song Phòng không quay lưng lại với sự thật cho dù nó phũ Trước hết, anh là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có
phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến cảnh người tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua tâm
đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực tiếp nghe hồn tinh tế với những rung cảm rất mãnh liệt, luôn khao khát
câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, từ tìm kiếm cái đẹp hoàn mĩ. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để
đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy mà sau mấy buổi sáng “phục
thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững sờ, vỡ kích”, anh đã chụp được “cảnh đắt trời cho”. Đó là cảnh ban
lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu. Đó mai vùng ven biển, với “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
của người nghệ sĩ. hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Với tâm hồn nghệ sĩ
- Phùng còn là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như “bức tranh mực
+ Là chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, anh tàu của danh họa thời cổ”. Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm
luôn tôn trọng lẽ phải và sự công bằng xã hội. Hai lần hạnh phúc “bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào”. Anh
chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, Phùng xông vào thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận
can thiệp, chân thành muốn giúp đỡ người đàn bà đáng được chân- thiện- mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn
thương. mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết.
+ Dũng cảm bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng Từ đó, anh nhận thức “bản thân cái đẹp là đạo đức”. Bằng
hồn mình để lắng nghe “những vang động của đời”. con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho
- Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là
nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái
những cái sai của mình. hoàn mĩ.
+ Ban đầu, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm nhận
thanh lọc tâm hồn con người. sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát hiện ra sự
+ Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ nhất đầy vẻ
thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng đã
của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình ảnh chiếc thuyền có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu chuyện
ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ góc độ của một người của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và để nhận
nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với những gì mình đã kịp ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc. Nhân
ghi lại trong ống kính. Bức ảnh ấy là sáng tạo, là công sức vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội tự trong
của một đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ đẹp của
mê nghệ thuật. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh Châu đã
tiến vào bờ. Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật khắc họa thành công nhân vật này trong một tình huống đầy
nghiệt ngã, sự bạo hành gia đình. Người chồng đánh đập vợ nghịch lí với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu chuyện được
một cách dã man, vừa đánh vừa chửi “mày chết đi cho ông kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi, chân thực và
nhờ”, “chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ thì cam sâu sắc hơn.
chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ,
xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực
gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Nó hoàn toàn trái
ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Mặc dù khám phá ra
những đối lập song Phòng không quay lưng lại với sự thật
cho dù nó phũ phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến
cảnh người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực
tiếp nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án
huyện, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng
về nghệ thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững
sờ, vỡ lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu.
Đó cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống
của người nghệ sĩ.

Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn
là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp. Anh là
chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, luôn tôn trọng
lẽ phải và sự công bằng xã hội. Hai lần chứng kiến cảnh
người đàn ông đánh vợ, Phùng xông vào can thiệp, chân
thành muốn giúp đỡ người đàn bà đáng thương, dũng cảm
bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng hồn mình để
lắng nghe “những vang động của đời”. Với anh - một người
đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của
chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn
ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh.
Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà
nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa, luôn đứng về
lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều
xấu, điều ác.
Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ
cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những
cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được “cảnh đắt
trời cho”, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng
thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo
hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của
người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới.

Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách
toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp c. Nhân vật bé Phác:
mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn
từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.  Phác là đứa trẻ vùng biển, hồn nhiên, hiểu biết và giàu
lòng tự trọng:
- “tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ”, “tỏa ra mùi hiện tình cảm dạt dào yêu thương, muốn lau đi tất cả những
nước mặn”. khổ đau mà mẹ gánh phải.
- “cặp mắt đầy vẻ ngây thơ” như cặp mắt của một “chú hổ => Đứa con hiểu được nỗi đau đớn mà người mẹ đã chịu
con từ miền rừng vừa lạc về” nét ngây thơ, hồn nhiên cùng đựng, quan tâm và lo lắng cho mẹ Tình cảm thiêng liêng,
nét hoang sơ của núi rừng. đáng trân trọng từ một đứa trẻ.
=> Phác là đứa trẻ sớm dãi dầu mưa nắng, không được chăm  Phác là nạn nhân của bạo hành gia đình:
sóc chu đáo. - Tuy hành động của Phác khi lao vào đánh người đàn ông
- Từ nhỏ, đã được mẹ đưa lên rừng ở nên Phác có vốn am đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương mẹ, không muốn thấy
hiểu về thiên nhiên và cuộc sống núi rừng rất phong phú: mẹ mình chịu đau đớn, nhưng đó cũng chỉ là hành động nông
+ “Giải thích cặn kẽ” cho Phùng nghe “cuộc sống của những nổi, chưa hiểu hết sự tình bên trong của Phác.
giống chim trên rừng”. - Hành động đó cũng cho thấy, Phác vừa đối nghịch cũng vừa
=> Sống gắn bó với thiên nhiên, là một đứa bé nhiệt tình, hòa thống nhất với người đàn ông:
đồng và thân thiện; + Giống người bố độc ác từ hình thức đến tính tình: đều
=> Đặc biệt có thể nhận thấy ở Phác sự thông minh, nhạy bén mạnh mẽ, liều lĩnh, mang phẩm chất của những người đàn
với cuộc sống, biết học hỏi và quan sát mọi thứ xung quanh. ông vùng biển.
Điều đó khiến Phác chịu nhiều ảnh hưởng xấu về cả tinh thần + Hành động đánh cha của Phác, ý định dùng “con dao găm”
lẫn hành động khi là nạn nhân trực tiếp của nạn bạo hành để đâm chết cái
gia đình. người làm mẹ khổ chính là hành động bạo lực, ảnh hưởng bởi
- Sau cái lần Phùng chứng kiến cảnh cha nó đánh mẹ nó, cha nó.
thằng bé có những thay đổi trong cách xử sự với Phùng: => Hành động chạy lao đến để ngăn cha đánh mẹ, “nhảy xổ
+ “Thằng bé không cho tôi lại gần” vào cái lão đàn ông”cho thấy sự căm thù của Phác đối với
+ “đâm ra thù ghét tôi, hết sức thù ghét” cha, mặt khác cũng phản ánh sự ảnh hưởng những hành động
+ “đối xử như một kẻ hoàn toàn xa lạ” bạo lực của người đàn ông đối với Phác. Những hành động
+ “nhìn tôi bằng con mắt âm thầm, giấu kín đầy sự thù ghét” phản kháng ngày càng tăng tiến về mức độ đã gióng lên hồi
=> “một đức trẻ con kì lạ nhất trần đời”, giàu lòng tự trọng, chuông cảnh tỉnh cả xã hội khi Phác thật sự trở thành nạn
mang cảm giác xấu hổ khi Phùng đã biết rõ hoàn cảnh gia nhân của nạn bạo hành gia đình, là mối quan tâm lớn khi
đình nó . thằng bé định dùng “con dao găm” để giết cha mình.
=> Phác rất trẻ con, vẫn tỏ ra hờn dỗi, hành động và suy - Chính những hành động đánh đập dã man của người đàn
nghĩ vẫn rất con nít. Phác là đứa trẻ vùng biển mang những ông đã gây tác động
tính cách của một đứa trẻ bình thường khác: hồn nhiên, hoạt xấu đến suy nghĩ và hành động của thằng Phác.
bát, trẻ con và đặc biệt có vốn am hiểu về thiên nhiên. => Trong tâm trí của thằng bé giờ đây chỉ còn sự thù hận,
 Phác là đứa con giàu lòng yêu thương mẹ: căm ghét. Điều đó đã làm mất đi sự hồn nhiên, đã tổn thương
- Tuy sống xa mẹ từ nhỏ, thiếu sự chăm sóc, quan tâm từ mẹ về tinh thần của một đứa trẻ đang trưởng thành.
nhưng Phác vẫn luôn cảm nhận được tình thương của mẹ và + Như một “chú sói con” đang dần đi vào con đường bạo lực
yêu quý, bảo vệ cho mẹ. giống cha nó.
- Khi trông thấy cảnh người cha đánh mẹ mình: + Thằng bé “thông minh và dễ thương hoàn toàn biến thành
+ Phác đã “chạy một mạch”, đầy “sự giận dữ căng thẳng” một đứa trẻ độc ác và mất dạy”.
+ “như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”, thằng => Phác đã vô tình trở thành một nạn nhân của bạo hành gia
bé lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông” đình, nghèo đói và thất học. Mai đây, Phác cũng có thể trở
+ Thằng bé như “một người câm” và “khỏe đến thế” thành người đàn ông thứ hai và tương lai của nó cũng sẽ
+ Phác “giằng chiếc thắt lưng, vươn thẳng người vung chiếc giống như cha nó.
khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ”. Sự giận dữ, => Đó chính là vấn đề bức thiết được đặt ra trong tác phẩm:
bất bình khi thấy cảnh tượng đó; thể hiện tình cảm yêu Hãy cứu lấy nhân tính của những con người, đặc biệt là
thương, lo lắng cho mẹ của thằng Phác và căm thù cha nó. Vì những đứa trẻ đáng thương và tội nghiệp!
mẹ mà Phác lao vào cha, không suy nghĩ để bênh vực cho  Đánh giá:
mẹ, như một người đàn ông mạnh mẽ bảo vệ người mình - Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật thằng Phác nhằm
thương yêu. đạt ra vấn đề cần giải quyết cho tương lai của đứa trẻ đang có
nguy cơ bị hủy hoại.
+ “chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn - Bên cạnh đó, còn thể hiện tư tưởng nhân đạo được nhà văn
ông” gửi gắm: thái độ quan tâm đến con người và niềm tin vào một
+ Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người cuộc sống đổi mới, hạnh phúc hơn cho những người nghèo
mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt” => hành động thể khổ; mong tìm ra hướng giải quyết để những đứa trẻ như
thằng Phác sẽ không rơi vào bi kịch và tự hủy hoại nhân cách
như cha nó. Đồng thời, tác giả đã lên tiếng bảo vệ khát vọng
được sống trong yêu thương, trong bình yên của trẻ em.
 Tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy:
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều
thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, nhìn
lâu hơn nữa bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang
bước ra khỏi tấm ảnh...”
+ “Cái màu hồng hồng” của ánh sương mai chính là chất thơ
của cuộc sống, là cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu
tượng của nghệ thuật.
+ “Người đàn bà bước ra từ tấm ảnh” là hiện thân cho những
lam lũ, khốn khó đời thường, là sự thật cuộc đời đằng sau bức
ảnh.
=> Quan niệm của nhà văn về nghệ thuật: Nghệ thuật chân
chính không bao giờ rời xa cuộc đời và phải là cuộc đời, luôn
luôn vì cuộc đời.
● Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa
phát hiện về đời sống. Tác giả đã tạo ra nhiều tình huống như
thế vừa nối tiếp nhau trong mạch truyện, lại vừa đột ngột, bất
ngờ giúp người đọc nhận ra bản chất của sự việc một cách thú
vị, thấm thía để hiểu sâu sắc chủ đề của tác phẩm. Các tình
huống truyện cứ thế nối tiếp nhau và được NMC đẩy lên cao
trào, ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện, khám phá tính
cách con người và sự thật cuộc đời.
- Nghệ thuật kể chuyện sinh động: người kể chuyện là Phùng.
Quan đó tác giả đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống
truyện, lời kể trở nên khách quan, chân thực, giàu tính thuyết
phục.
- Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ
phần tâm hồn bên trong nhân vật:
+ Lời của người đàn ông: thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ
đầy vẻ tục tằn, thô bạo.
+ Lời người đàn bà: dịu dàng, xót xa khi nói với con, thật
đau đớn và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận mình.
+ Lời của Đẩu ở tòa án huyện thể hiện một con người tốt
bụng và nhiệt thảnh.

IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:

1. Mở bài:

MB1:
Ai đó đã từng viết: “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ
niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật
phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Có lẽ nhận định đó chính đời sống và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu,
là nơi khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà văn Việt Nam tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện
trong đó không thể không kể đến Kim Lân với nhân vật thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện
người vợ nhặt và Nguyễn Minh Châu với nhân vật người đàn ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là
bà hàng chài. Cả hai nhân vật đều mang một hoàn cảnh sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể
đặc biệt và mới lạ trong làng văn xuôi hiện đại và nó cũng đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà
làm sáng lên giá trị nhân đạo của cả hai tác phẩm. cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi, phát hiện
để hiểu đúng bản chất của nó.
MB2:
Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm trong sự nghiệp cầm bút KB2:
của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng Những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng và Đẩu
tâm và tâm điểm chính là con người”. Quả thực là như vậy. là bước ngoặt quan trọng giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nếu như trước đó, bước vào văn nghiệp trong tâm thế của truyền tải thông điệp của mình. Thêm vào đó, đây cũng chính
một cây bút lãng mạn, thì sau này, trong quá trình viết, tìm là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy
hiểu khai thác về cuộc đời, Nguyễn Minh Châu nhìn nhận ra mới mẻ của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn
được sứ mệnh của người cầm bút. Tác phẩm “Chiếc thuyền đồng tâm và tâm điểm chính là con người”.
ngoài xa” là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ nét tư
duy “nghệ thuật vị nhân sinh” – văn học sinh ra là vì con KB3:
người, vì cuộc đời của ông. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã trở thành một viên ngọc quý của văn học Việt
MB3: Nam trong những năm 80 - Giai đoạn chứng kiến những đổi
Trong tôi vẫn luôn còn đó những ám ảnh bởi bức ảnh “Chiếc mới trong xã hội và cả trong lĩnh vực văn học. Nguyễn Minh
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Biết bao nhiêu Châu đi sâu vào khai thác những vấn đề tưởng chừng nhỏ
những nghiệt ngã sau vẻ đẹp tưởng chừng hoàn mỹ đến vậy nhặt nhưng lại đem tới bài học thấm thía, giúp người đọc
để cho bạn đọc thấy được những khía cạnh khác của xã hội nhận ra được những góc khuất khác nhau về con người.
những năm 80 đầy “giông bão”. Có một nhân vật đã để lại rất Nhìn mọi vấn đề, sự việc, chúng ta cần trang bị cho mình một
nhiều ấn tượng với đọc giả - là người đàn bà hàng chài – hình cái nhìn đa chiều. Không dừng lại ở đa chiều, hãy nhìn nhận
ảnh của một người phụ nữ với vẻ ngoài không được đẹp đẽ dưới góc độ cảm thông để cảm thấy cuộc đời này vẫn còn
nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, một sức thấm đẫm tình người đến vậy!
sống mãnh liệt. Để rồi, hình ảnh của người đàn bà hàng chài
đã sống như thế, in đậm trong trái tim của bạn đọc nhiều thế KB4:
hệ. Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh”
với chính nhân vật người nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh
MB4: đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng độc giả. Một
Có một nhà văn đã từng nói: “Cái đẹp chính là liều thuốc chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót
giúp trái tim của người nghệ sĩ thăng hoa hơn. Cái đẹp thanh thương, một chút đồng cảm,...tôi vẫn nghĩ rằng những cảm
lọc tâm hồn con người, cái đẹp khiến cho người ta trở nên xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện này còn
thánh thiện và cao thượng hơn”. Tôi vẫn còn nhớ nhân vật nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài
Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) vẫn vẫn, đẹp đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là
đã từng xúc động, bối rối như thế nào khi khám phá ra một vẻ biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ hàng chài
đẹp toàn bích lúc ngắm nhìn bức tranh chiếc thuyền mờ ảo khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ
trong sương khói. Nhân vật Phùng cũng từ bức tranh toàn một chút đã thấy sáng lấp lánh, long lanh.
bích này khám phá ra muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống đời
thường. Và nhân vật này, cũng đã giúp cho nhà văn Nguyễn
Minh Châu thể hiện được tư tưởng, triết lý nhân văn sâu sắc
về vẻ đẹp con người, vẻ đẹp nghệ thuật, vẻ đẹp cuộc đời.
2. Kết bài:

KB1:
Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu
đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá
Văn bản: RỪNG XÀ NU Nhận xét về tác giả và tác phẩm:
-Nguyễn Trung Thành-
1. Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây
“ Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút,
văn hóa của Tây Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông,
“Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc cuốn hút người ta, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng
không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm
nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây lừng. Nệm lá dưới mặt đất ngả lưng êm ru...
thơ, đầy những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả (Nguyên Ngọc, “Về truyện ngắn Rừng xà nu”, Nhà văn nói về tác phẩm,
tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang – Mèo Vạc.” Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
(Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
2. Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm.
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Đó là cái đêm dài như cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng
chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ và hạnh phúc
trường tồn ở đây, bởi "nhà ra xa, đến hút tầm mắt cũng không
thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân
trời...”.
(Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm,
Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)

3. Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên trường tồn
mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự
sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho
đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và
Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về
tự giác hơn của các thế hệ sau.
mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội,
(Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm,
nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Ông đã viết
Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
về con người ở mảnh đất này với tấm lòng trân trọng, cảm
phục: trong cuộc kháng chiến chống Pháp là “Đất nước đứng 4. Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có
lên”, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là “Rừng xà nu”, cả
thể nói, Nguyên Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh
hai tác phẩm đều được xem là đỉnh cao của văn học hiện đại
trong hai thời kỳ lịch sử đó. Truyện của Nguyễn Trung Thành hùng, những sự tích anh hùng. (Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
có lối viết trong sáng, chặt chẽ, ngôn ngữ đẹp, giàu chất hiện
thực nhưng lại có tầm khái quát cao, đậm chất sử thi và cảm 5. Gần nửa thế kỉ qua, truyện ngắn “Rừng xà nu” như một nỗi
hứng lãng mạn, tất cả tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn với ám ảnh đẹp từ cảnh sắc đến con người giữa chốn ngàn xanh
người đọc. (Trích bài viết “Về lại “Rừng xà nu”, Báo Kon Tum Online, Tạ Văn Sỹ)

II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: 6. Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có ma lực. Giản dị,
chắt lọc và trong veo. (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)

7. Văn Nguyên Ngọc là thứ văn văn trong, sáng như mật ong, lại
đượm ướp một làn hương rất đặc biệt. Đọc cứ bàng hoàng, váng
vất mãi. Nguyên Ngọc hơn người ở tài văn. Không có thực tài,
không thể viết được thế. (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)

8. Dưới góc nhìn văn hóa, ta thấy “Rừng xà nu” có nội dung rất
quan trọng: văn hóa làng và những tình cảm thâm trầm, cao đẹp.
Và đó là cơ sở của nội dung thứ hai: Tinh thần bất khuất của
người dân Tây Nguyên. Tinh thần ấy lớn mạnh được là nhờ nó
bám rễ sâu chặt vào “đất làng”. (Đặng Văn Vũ)

9. Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà
văn hóa của Tây Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền
“Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc cuốn hút người ta,
không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của
nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây thơ,
đầy những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn
rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang - Mèo Vạc.
(Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: Tnú bị bắt, giặc đã đốt tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu.
- Cây xà nu trở thành biểu tượng cho số phận và phẩm chất
của con người Tây Nguyên, được đặc tả ở phần mở đầu và
phần cuối của tác phẩm.
+ Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn phá
bởi đại bác của kẻ thù: “hàng vạn cây, không có cây nào
không bị thương... chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề...rồi
dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”
=> Những thương tích ấy thượng trung cho những mất mát,
1. Hình tượng rừng xà nu, cây xà nu: đau thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào
Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc kháng
a. Giới thiệu khái quát về cây xà nu: chiến: anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả, mẹ con
- Cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây Nguyên, Mai bị sát hại, đôi bàn tay Tnú bị tra tấn...
đây là loại cây có sức sống mãnh liệt, nó có thể sinh sôi, nảy + Hình ảnh những cây xà nu non, mới mọc, thay thế những
nở ngay cả trên những vùng đất khô cằn hay khí hậu khắc cây đã ngã “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng
nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và lên bầu trời” gợi nhắc đến thế hệ trẻ của dân làng Xô Man
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ, ham mê lí tưởng, tiếp
thanh nhã, vừa rắn rỏi, vừa mênh mông, tưởng như đã sống nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đó
từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng triệu là Tnú, Mai mưu trí dũng cảm. Đó là Dít gan góc, mạnh
cây vô tận...” Chính loài cây có sức sống man dại và trong mẽ. Đó là bé Heng thông minh nhanh nhẹn.
sạch này đã trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Trung + Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó phóng lên rất
Thành khi viết về Tây Nguyên. nhanh để tiếp lấy ánh nắng...” tượng trưng cho niềm khát
- Ý nghĩa và vị trí: khát khao tự do, hướng tới ánh sáng của Đảng, lí tưởng
+ Mở đầu tác phẩm nhà văn đã tập trung miêu tả cây xà nu cách mạng của nhân dân Tây Nguyên: Tnú và Mai từ nhỏ
bằng một đoạn văn dài. Kết thúc tác phẩm vẫn là hình ảnh đã tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú vượt ngục đi giải
những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến tận chân trời. phóng quê hương, Dít thay Mai làm cách mạng.
Đây là kết cấu theo kiểu đầu cuối tương ứng, không chỉ có + Sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động
ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết cấu tác phẩm mà còn hủy diệt của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng,
nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng của cây xà nu. những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân
+ Rừng xà nu còn có mặt trong suốt tác phẩm với những thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế
biến thể khác nhau như củi xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, những cây đã ngã...”
lá xà nu. lửa xà nu... => Tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bất khuất kiên cường
=> Xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, chứa mà sự vươn lên mạnh mẽ của người dân Tây Nguyên trong
đựng ý nghĩa tư tưởng sâu xa của tác phẩm. cuộc chiến mất còn với kẻ thù: Tnú bị tra tấn dã man, bị đốt
b. Phân tích cụ thể: mười ngón tay nhưng vẫn kiên cường tiếp tục cầm súng chiến
 Ý nghĩa thực: đấu.
- Xà nu là loại cây đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp hoang sơ, + Hình ảnh cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở
hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên. cho làng:
- Hình ảnh xà nu trong tác phẩm còn tạo nên một không gian  Mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi dưỡng
nghệ thuật mang đậm hương vị sử thi của câu chuyện. ngọn lửa khát vọng, tự do, là chỗ dựa tinh thần cho các thế hệ
 Ý nghĩa biểu tượng: con cháu. Cụ Mết được hình dung như một cây xà nu lớn
- Xà nu được miêu tả trong sự ứng chiếu với con người. vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao
- Xà nu trở thành một nhân vật gắn bó mật thiết với thế hệ dân làng Xô Man.
cuộc sống chiến đấu của con người Tây Nguyên.  Mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang chiến đấu để
+ Có mặt trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người bảo vệ quê hương đất nước trong những năm chống Mĩ.
dân làng Xô Man, lửa xà nu cháy giần giật trong bếp, khói + Những ngọn đồi xà nu, những cánh rừng xà nu nối tiếp
xà nu dùng để xông bảng cho Tnú và Mai học chữ. nhau chạy hút tầm mắt đến tận chân trời cho thấy rừng xà
+ Tham dự vào những sự kiện trọng đại, chứng kiến bao nu không chỉ tượng trưng cho một làng Xô Man bé nhỏ
thăng trầm biến cố và cũng như bước đường trưởng thành hay một vùng núi rừng Tây Nguyên. Đó còn là biểu tượng
của dân làng Xô Man, Tnú đọc thư anh Quyết gửi trước cho cả miền Nam, cả dân tộc Việt Nam trong những năm
khi hi sinh dưới ánh lửa xà nu, cụ Mết kể lại với dân làng kháng chiến chống Mĩ.
trang sử bi hùng của làng Xô Man gắn với một quãng đời c. Đánh giá:
của Tnú trong nhà ưng, bên bếp lửa xà nu cháy sáng; khi
- Nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ giàu hình từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi. Nguyễn
ảnh, giàu sức biểu cảm. Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường
- Có thể nói hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường
đáo của Nguyễn Trung Thành, nó được dùng như một ẩn dụ của mình, là khu rừng bát ngát phía Tây Thừa Thiên giáp
chỉ những con người Tây Nguyên: yêu tự do, giàu sức sống, Lào. Đó là một khu rừng xà nu xa típ tắp tận chân trời. Tôi
bất khuất, kiên trung, thủy chung với cách mạng. Như vậy yêu say mê rừng xà nu từ ngày đó [ ... ], Nguyễn Thi và tôi đã
hình tượng xà nu đã được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa mới sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong
mẻ, giàu tính thẩm mĩ và ý nghĩa nhân sinh. khu rừng tuyệt vời ấy [...] Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy,
ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra
Phân tích cụ thể: dưới ngòi bút của tôi!...Rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi
biết tôi đã tạo được không khí, đã có không gian ba chiều. Và
Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn này
cũng lập tức đã +nhập được vào không khí và không gian
là hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung
ấy”.
cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang một ý
nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là Chính vì xà nu mang ý nghĩa biểu tượng nên sự miêu tả về
hình ảnh cánh rừng xà nu: “đến hết tầm mắt cũng không thấy loài cây ở đây luôn luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con
gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” ( câu người gợi ra những liên tưởng về đời sống - số phận cùng
này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ phẩm cách của con người - dân làng Xô man. Xà nu trở
thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm thành một nhân vật gắn bó mật thiết với cuộc sống chiến
đọng lại trong tâm trí độc giả sau khi câu chuyện đã khép lại). đấu của con người Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu có mặt
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân làng Xô
Trước hết, cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây
Man, lửa xà nu cháy giần giật trong bếp, khói xà nu dùng để
Nguyên, đây là loại cây có sức sống mãnh liệt, nó có thể sinh
xông bảng cho Tnú và Mai học chữ. Xà nu còn tham dự vào
sôi, nảy nở ngay cả trên những vùng đất khô cằn hay khí hậu
những sự kiện trọng đại, chứng kiến bao thăng trầm biến cố
khắc nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và
và cũng như bước đường trưởng thành của dân làng Xô Man,
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa
Tnú đọc thư anh Quyết gửi trước khi hi sinh dưới ánh lửa xà
thanh nhã, vừa rắn rỏi, vừa mênh mông, tưởng như đã sống
nu, cụ Mết kể lại với dân làng trang sử bi hùng của làng Xô
từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng triệu
Man gắn với một quãng đời của Tnú trong nhà ưng, bên bếp
cây vô tận...” Chính loài cây có sức sống man dại và trong
nửa xà nu cháy sáng; khi Tnú bị bắt, giặc đã đốt tay anh bằng
sạch này đã trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Trung
giẻ tẩm nhựa xà nu. Có thể nói xà nu luôn là người bạn,
Thành khi viết về Tây Nguyên. Mở đầu tác phẩm nhà văn đã
chặng đường sinh sống song hành chứng kiến cùng với chặng
tập trung miêu tả cây xà nu bằng một đoạn văn dài. Kết thúc
đường biến động của cuộc sống con người nơi đây.
tác phẩm vẫn là hình ảnh những rừng xà nu nối tiếp nhau
Là người bạn đồng hành gắn bó, cây xà nu còn trở thành
chạy đến tận chân trời. Đây là kết cấu theo kiểu đầu cuối
biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Tây
tương ứng, không chỉ có ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết
Nguyên, được đặc tả ở phần mở đầu và phần cuối của tác
cấu tác phẩm mà còn nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng của cây
phẩm. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn
xà nu. Rừng xà nu còn có mặt trong suốt tác phẩm với những
phá bởi đại bác của kẻ thù: “hàng vạn cây, không có cây nào
biến thể khác nhau như củi xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, lá
không bị thương... chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề... rồi
xà nu. lửa xà nu...
dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn” .
Và quả là rừng xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc Những thương tích ấy thượng trung cho những mất mát, đau
đáo, chứa đựng ý nghĩa tư tưởng sâu xa của tác phẩm. Chúng thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây
ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là “Rừng xà nu”. Tác Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc kháng chiến:
giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả, mẹ con Mai bị
chức các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của sát hại, đôi bàn tay Tnú bị tra tấn... Hình ảnh những cây xà nu
tác phẩm. Xà nu là loại cây đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp non, mới mọc, thay thế những cây đã ngã “ngọn xanh rờn
hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh xà nu hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” gợi nhắc đến thế hệ
trong tác phẩm còn tạo nên một không gian nghệ thuật mang trẻ của dân làng Xô Man với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ,
đậm hương vị sử thi của câu chuyện. Có lẽ chăng chính cánh ham mê lí tưởng, tiếp nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng
rừng xà nu là cảm hứng để nhà văn sáng tác tác phẩm? chiến chống Mĩ. Đó là Tnú, Mai mưu trí dũng cảm. Đó là Dít
Nguyên Ngọc kể lại: “ Bắt đầu như thế nào? Không, quả thực gan góc, mạnh mẽ. Đó là bé Heng thông minh nhanh nhẹn.
bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu Bên cạnh đó, với đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó
đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng...” tượng trưng cho
rừng xà nu, những cây xà nu. Hồi tháng 5 - 1962, hành quân niềm khát khát khao tự do, hướng tới ánh sáng của Đảng, lí
tưởng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên: Tnú và Mai từ - Nhà văn là người gắn bó mật thiết và có duyên với đất và
nhỏ đã tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú vượt ngục đi giải người Tây Nguyên, ngòi bút của Nguyễn Trung Thành luôn
phóng quê hương, Dít thay Mai làm cách mạng. Kiên gan bền bám sát với những vấn đề cấp thiết và trọng đại của dân tộc.
bỉ, sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động Trang văn của ông mang đậm tính sử thi và ngợi ca chủ nghĩa
hủy anh hùng cách mạng.
diệt của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những - “Rừng xà nu” là một trong những sáng tác tiêu biểu của
vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể Nguyễn Trung Thành. Truyện ngợi ca lòng yêu nước, sức
cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây sống quật cường của con người Tây Nguyên bên những rừng
đã ngã...” . Những hành động đó tượng trưng cho sức sống xà nu bạt ngàn, từ đó khẳng định một chân lí khách quan
mãnh liệt, bất khuất kiên cường mà sự vươn lên mạnh mẽ của “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, chỉ có đấu
người dân Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù: tranh bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách
Tnú bị tra tấn dã man, bị đốt mười ngón tay nhưng vẫn kiên mạng mới mang đến chiến thắng trước bè lũ Mỹ - Ngụy.
cường tiếp tục cầm súng chiến đấu. - Qua nhân vật Tnú, tác giả không chỉ muốn khắc họa một
Thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người cũng tượng đài anh hùng mà còn thể hiện niềm tự hào đối với thế
còn được thể hiện ngay khi miêu tả nước, tác giả thường dùng cha anh trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một b. Vị trí nhân vật:
cây xà nu lớn”; vết thương trên lưng Tnu do dao giặc chém - Là nhân vật trung tâm tác phẩm.
thì “ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện - Là cây xà nu trưởng thành từ trong bão tố chiến tranh.
lại, tím thẫm như nhựa xà nu”. Gan góc, mạnh mẽ, hình ảnh - Đại diện tiêu biểu cho tập thể anh hùng.
cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng - Vừa là thế hệ kế tiếp của cụ Mết, vừa là thế hệ chuyển giao
như mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi dưỡng nhiệm vụ cho thế hệ sau.
ngọn lửa khát vọng, tự do, là chỗ dựa tinh thần cho các thế hệ => Được xây dựng theo kiểu nhân vật sử thi, nhân vật anh
con cháu. Cụ Mết được hình dung như một cây xà nu lớn hùng kết tinh những vẻ đẹp cộng đồng.
vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao c. Phân tích nhân vật:
thế hệ dân làng Xô Man. Ở đây, xà nu còn mang ý nghĩa ẩn  Từ nguyên mẫu ngoài đời đến ý đồ nghệ thuật
dụ về những con người đang chiến đấu để bảo vệ quê hương - Nguyên mẫu của nhân vật là anh Đề, người Xê Đăng. Để
đất nước trong những năm chống Mĩ. Những ngọn đồi xà nu, làm nổi bật không khí Tây Nguyên, nhà văn đã thay anh Đề
những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy hút tầm mắt đến bằng Tnú, thay Xê Đăng bằng Strá, làng Xô Man.
tận chân trời cho thấy rừng xà nu không chỉ tượng trưng cho  Khi Tnú còn nhỏ
một làng Xô Man bé nhỏ hay một vùng núi rừng Tây - Xuất thân: là một đứa trẻ mồ côi lớn lên bằng sự đùm bọc
Nguyên. Đó còn là biểu tượng cho cả miền Nam, cả dân tộc và che chở của người dân làng Xô Man, Tnú là người anh
Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ.Thủ pháp hùng được hun đúc từ tinh thần Xô Man, từ dòng máu thuần
nghệ thuật “ứng chiếu” trong miêu tả tạo nên một sự chuyển khiết của con người Tây Nguyên bất khuất được truyền từ đời
hóa, hòa nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một Đăm Săn, Xinh Nhã.
bản hợp ca đầy chất thơ hào hùng, tráng lệ về sức sống bất - Phẩm chất: Ngay từ nhỏ, Tnú đã gan góc, dũng cảm.
diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự do. d. Đánh giá chung:
- Nhìn chung Tnú mang vẻ đẹp kết tinh tâm hồn, phẩm chất
Như vậy, với nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ cũng như số phận người Xô Man, Tây Nguyên dũng cảm,
giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm, có thể nói hình tượng xà nu kiên cường, bất khuất, giàu tình yêu thương với gia đình, quê
là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. hương, cách mạng, mang sức sống bất diệt của núi rừng Tây
Rừng xà nu được dùng như một ẩn dụ chỉ những con người Nguyên.
Tây Nguyên: yêu tự do, giàu sức sống, bất khuất, kiên trung, - Với một cốt truyện hấp dẫn, lời văn trau chuốt, giàu hình
thủy chung với cách mạng. Như vậy hình tượng xà nu đã ảnh, thấm đẫm màu sắc núi rừng, nghệ thuật thấm đượm tính
được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa mới mẻ, giàu tính thẩm sử thi độc đáo, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công
mĩ và ý nghĩa nhân sinh. vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh của vẻ đẹp, sức
mạnh con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt
Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.

2. Hình tượng nhân vật Tnú:

a. Giới thiệu khái quát về Tnú:


Phân tích cụ thể: Có lần anh Quyết hỏi “Các em không sợ giặc bắt à? Chúng
nó giết như anh Xút, bà Nhan đấy!” , Tnú trả lời dứt khoát
Nhà văn là người gắn bó mật thiết với đất và người Tây “Cụ Mết nói cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn!” .
Nguyên, ngòi bút của Nguyễn Trung Thành luôn bám sát với Đó là con đường anh đã chọn, con đường của cá nhân và
những vấn đề cấp thiết và trọng đại của dân tộc. Trang văn cũng là của cả dân tộc. Tnú còn là cậu bé giàu cá tính và tinh
của ông mang đậm tính sử thi và ngợi ca chủ nghĩa anh thần Cách mạng, thể hiện qua các chi tiết: Học chữ chậm hiểu
hùng cách mạng. Các nhân vật đều được hút vào một vấn đề hơn Mai, tự giận mình, lấy hòn đá đập vào đầu chảy cả máu;
lớn: vận mệnh của dân tộc. Mỗi con người đã hòa nhập cái cá học chữ hay quên nhưng lại là cậu bé làm liên lạc thông
nhân vào vận mệnh chung của đất nước, vận mệnh đã chi minh, lanh lợi, quả cảm: chọn chỗ nước xiết để qua, không
phối tính cách của nhân vật, nâng họ lên tầm vóc anh hùng. qua chỗ nước êm giặc hay phục kích. Biết giặc phục kích thì
Trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn, ông muốn tô đậm hình trèo lên cây cao tìm hướng cắt rừng mà đi. Khi bị bắt nuốt vội
tượng tính cách anh hùng – nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, đó là lá thư vào bụng. Giặc tra tấn dã man và hỏi: “Cộng sản ở
“truyện của một đời được kể trong một đêm”. Người đọc sẽ đâu?”, Tnu đặt bàn tay ấm lên bụng mà nói “Cộng sản ở đây
không khó khăn để nhận ra người “được kể trong một đêm” này”. Lập tức lưng anh lại bầm những vết chém ngang dọc
đó chính là Tnu – nhân vật trung tâm, nhân vật tư tưởng - của kẻ thù nhưng chúng không thể khuất phục được anh –
người anh hùng dũng sĩ của làng Xô Man, người Stra và của con người “uy vũ bất năng khuất”.
cả dân tộc Tây Nguyên. Khi trưởng thành, Tnú vượt ngục để trở về với dân làng, lãnh
đạo dân làng tiếp tục chiến đấu. Trở về làng, Tnú đã trưởng
Tnu là người con vinh quang của làng Xô Man, của người
thành, là một chàng trai cao lớn, rắn chắc, đẹp như cây xà nu
Stra được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc
cường tráng nhất của núi rừng Tây Nguyên. Anh Quyết hy
đáo đậm nét sử thi. Tnu – đại diện tiêu biểu của người dân
sinh, Tnú thay anh Quyết chỉ huy đội du kích làng Xô man
Tây Nguyên được xây dựng với hai đặc điểm: nhân vật tư
khiến bọn thằng Dục phải gầm lên: “Con cọp đó mà không
tưởng và nhân vật trữ tình. Nhân vật có chức năng gánh vác
giết sớm nó làm loạn cả núi rừng này rồi”. Bọn thằng Dục
tư tưởng của tác phẩm( tư tưởng yêu nước, lý tưởng cách
đưa quân về bao vây làng hòng vây bắt anh nhằm khuất phục
mạng); nhân vật có đời tư nhưng đời tư lại được miêu tả xuất
ý chí Cách mạng của anh. Điểm then chốt của truyện là câu
phát từ vấn đề cộng đồng. Lý lịch của Tnú là bản lý lịch
chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng
chung cho cả dân làng Xôman, người Stra, của cả dân tộc đau
Xô man. Tnú trở về gặp Mai, người bạn liên lạc lớn lên bên
thương trong chiến tranh và chiến đấu. Có thể nói nhân vật
nhau, giờ họ đã là vợ chồng. Câu chuyện tình được nhà văn
Tnú là một bước tiến mới trong nhận thức và biểu hiện những
vừa kể vừa đẹp, lãng mạn, vừa thấm đượm màu sắc bi tráng.
phẩm chất của một người anh hùng lý tưởng trong thời đại
Hạnh phúc đến với gia đình Tnu vẻn vẹn một năm trời, khi
cách mạng.
đứa con đầu lòng cất tiếng khóc chào đời chưa tròn một tháng
Ở Tnú không còn là vấn đề “tìm đường”, “nhận đường” như tuổi thì gia đình của anh bị kẻ thù tàn bạo giày xéo tan nát
anh hùng Núp trong bài “Đất nước đứng lên” hay A Phủ đến bi thương. Âm mưu của kẻ thù “Bắt con cọp con, tất sẽ
trong “Vợ chồng A Phủ”. Tnu đã được nuôi dưỡng và lớn lên dụ được con cọp đực trở về”. Chúng bắt Mai và đứa con bé
trong làng Cách mạng, đặc biệt lại được ở gần anh Quyết, cán bỏng của anh, tra tấn bằng gậy sắt vô cùng dã man. Vợ con
bộ của Đảng, Tnú đã học chữ, sớm được giác ngộ và đi theo anh đã chết gục dưới đòn thù. Tnu nấp gần đó, anh chứng
Cách mạng. Câu chuyện của Tnú được mở ra từ chỗ những kiến tất cả. Anh không cứu nổi vợ con, tay anh bứt đứt hàng
câu chuyện của anh hùng Núp và A Phủ dần khép chục quả vả mà không hề hay biết. Lòng hận thù và đau đớn
lại. khiến tim anh quặn thắt, máu trào lên biến hai con mắt thành
hai cục lửa lớn. Anh thét lên dữ dội và nhảy bổ ra cứu vợ con,
Tnú là một người anh hùng yêu tự do, gắn bó với Cách mạng nhưng làm sao cứu được khi anh chỉ có hai bàn tay không.
và trung thành tuyệt đối với Đảng. Trước hết, Tnú là một đứa Tác giả để cho cụ Mết nhắc đi nhắc lại bốn lần: “Ừ! Tnú
trẻ mồ côi được lớn lên trong sự yêu thương đùm bọc của dân không cứu sống được mẹ con Mai” như một điệp khúc đau
làng Xô man. Tham gia tiếp tế, làm liên lạc cho cán bộ ở thương của gia đình anh cũng như của làng Xô man trong câu
trong rừng, mặc dù giặc khủng bố dân làng rất tàn bạo: treo chuyện kể. Tnú cũng không cứu nổi chính mình, anh bị giặc
cổ anh Xút trên cây vả đầu làng; chặt đầu bà Nhan đầu cột bắt, chúng quấn giẻ vào mười đầu ngón tay anh, tẩm nhựa xà
súng, những Tnú và Mai quyết không sợ. Bởi liên lạc là con nu rồi đốt. Anh bị cháy ở đầu ngón tay mà nghe như đang
đường máu của Cách mạng, của đồng bào các dân tộc Tây cháy ở cả trong lồng ngực., trong bụng, đau đớn tới mức răng
Nguyên. Nếu con đường máu bị cắt đứt thì có nghĩa là cuộc anh cắn nát môi anh, máu chảy mặn chát ở đầu lưỡi. Với bản
kháng chiến của chúng ta cũng không bao giờ đi tới thắng lợi. lĩnh kiên cường của người cộng sản, anh cắn răng chịu đựng,
Vì thế dù có phải hi sinh nhiều hơn nữa con đường ấy vẫn lòng căm thù dồn lên đôi mắt, anh ngã xuống ngất đi, thét lên
phải sống. tiếng thét căm hờn làm vang vọng cả rừng núi :“Giết!”.
Điều đó đồng thời phản ánh quy luật cuộc sống có áp bức có
đấu tranh, không còn chần chừ gì nữa, cụ Mết dẫn thanh niên Như vậy, hình tượng Tnú điển hình cho tinh thần đấu tranh
về làng lãnh đạo nhân dân nổi dậy, giết chết mười tên ác ôn, đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, đồng thời làm
cứu được Tnú nhưng đôi bàn tay của anh thì mãi tật nguyền. sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ:“Chúng nó đã cầm súng
mình phải cầm giáo”. Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là
Qua bi kịch của gia đình Tnú cũng như bi kịch của dân làng bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ lý tưởng. Tnú là
Xô man, nhà văn muốn lý giải bi kịch của cả dân tộc Việt người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng với bàn tay không có
Nam thông qua lời cụ Mết: “Tnú không cứu được mẹ con Mai vũ khí trước kẻ thù hung bạo, anh đã không thể bảo vệ được
vì trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng”, “Tau không nhảy vợ con và bản thân. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man
ra cứu mày, tau cũng có hai bàn tay không”. Và cuộc đời Tnú cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng
sẽ kết thúc ra sao nếu như cụ Mết và dân làng không nổi dậy minh cho chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt
giết chết mười mấy tên ác ôn? Tiếng cụ Mết ồ ồ, vang bạo lực phản cách mạng. Con đường đấu tranh của Tnú từ tự
như lời sấm truyền của dân tộc “Chém! Chém hết!”, Thế là phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách
bắt đầu rồi. “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người mạng của làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên
đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, nói chung.
một cái mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót
chông. Đốt lửa lên!”. Đó là một tất yếu của lịch sử: “Chúng Tnú là kiểu nhân vật tư tưởng hòa quyện với nhân vật trữ tình
nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Bạo lực phải được chống tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Câu chuyện bi tráng về
trả bằng bạo lực và đó cũng là con đường duy nhất để giải cuộc đời và gia đình anh cũng là câu chuyện bi tráng của làng
phóng quê hương . Đó cũng là chân lý của thời đại, của dân Xô man, của cả dân tộc Tây Nguyên. Vẻ đẹp của Tnú là vẻ
tộc mà cụ Mết muốn ghi tạc vào lòng các thế hệ con cháu. đẹp của cộng đồng, sáng ngời tinh thần yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng Cách mạng. Tnú là nhân vật trong tác phẩm
Chi tiết đôi bàn tay Tnú là một chi tiết nghệ thuật độc đáo, nghệ thuật hiện đại nhưng vẫn mang nét đẹp của nhân vật anh
không phải trong câu chuyện cụ Mết vô tình dừng lại để hỏi hùng trong sử thi cổ đại: Đăm Săn, Xinh Nhã của núi rừng
Tnu: “Mười đầu ngón tay mày vẫn cụt thế à?”, câu hỏi gợi về Tây Nguyên. Qua bi kịch cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của
đôi bàn tay Tnu. Lúc còn nguyên vẹn, đôi bàn tay biết cầm dân làng Xô man, tác giả gửi bức thông điệp tới độc giả
phấn viết chữ, biết lao động, biết liên lạc, biết xách vài lon “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là con đường
gạo đi nuôi cán bộ; đôi bàn tay trung nghĩa khi đặt tay lên duy nhất để giải phóng quê hương, đất nước, xây dựng cuộc
bụng “Cộng sản ở đây này”; đôi bàn tay tình nghĩa khi gặp sống hòa bình, độc lập, ấm lo, hạnh phúc.
lại Mai: tay trong tay nước mắt giàn giụa, là đôi bàn tay dang
rộng lần cuối che chở cho mẹ con Mai... Đôi bàn tay khi bị Với một cốt truyện hấp dẫn, lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh,
hủy hoại, Tnu bị bắt, thằng Dục quấn giẻ tẩm dầu xà nu lên thấm đẫm màu sắc núi rừng, nghệ thuật thấm đượm tính sử
mười đầu ngón tay của anh rồi châm lửa đốt từng ngón. thi độc đáo, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công vẻ
Thằng Dục thích thú nhấm nháp sự man rợ, tàn bạo của nó. đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh của vẻ đẹp, sức mạnh
Nhưng nó lại không ngờ “mười ngón tay đã thành mười ngọn con người Tây Nguyên nói riêng và con người VN nói chung
đuốc”. Mười ngọn đuốc đốt cháy lên lòng căm hờn trong Tnu trong thời đại đấu tranh cách mạng.
cùng tiếng thét như một phát súng lệnh cho cả dân làng đồng
khởi: “Giết!”. Cụ Mết và cả dân làng Xô man bừng bừng khí
thế nổi dậy, giết chết mười tên ác ôn. Ngọn lửa trên mười
ngón tay của Tnú đã tắt, nhưng đôi bàn tay đã trở thành tật
nguyền, trở thành chứng tích tội ác dã man của giặc. Chúng
muốn hủy hoại đôi bàn tay của anh hùng hủy diệt đôi bàn tay
cầm súng chiến đấu, nhưng chúng đã không thể hiểu được
sức mạnh và sự trừng phạt của đôi bàn tay đó đối với chúng
sau này. Đôi bàn tay – một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức hàm
chứa tư tưởng lớn: một khám phá nhận thức về kẻ thù và sức
mạnh của con người, của dân tộc.
Tnú được về thăm dân làng một đêm, được cùng cụ Mết và
mọi người ôn lại kỷ niệm xưa, dù đau thương nhưng thật anh
hùng. Anh tìm lại được bóng hình mình qua bé Heng, tìm lại
được bóng hình người bạn liên lạc, người vợ thân yêu qua
Dít... Tnu thực sư là đứa con chung của làng Xô man, người
Stra. Thật xứng đáng với Mai trước kia và Dít sau này.
3. Hình tượng nhân vật cụ Mết: đấu tranh vũ trang chiến tranh nhân dân, “chúng nó đã cầm
súng thì mình phải cầm giáo”.
a. Giới thiệu khái quát về nhân vật cụ Mết:
- Hình tượng cụ Mết mang bóng dáng của người anh hùng Khái quát:
Núp - người con ưu tú của cuộc kháng chiến chống Pháp
được nhà văn khắc họa trong “Đất nước đứng lên”. Nguyễn Hình ảnh cụ Mết giúp người đọc nhận thức được nhiều điều:
Trung Thành đã từng viết trong một bài hồi ức về nhân vật cụ biết sống hướng về cội nguồn, tự hào về các thế hệ cha anh,
Mết: “Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của một thời “Đất trân trọng những hi sinh mất mát của họ để thấy giá trị của tự
nước đứng lên” còn trường tồn đến hôm nay”. do, độc lập trong cuộc sống hiện tại, biết sống có lí tưởng để
- Cụ Mết cũng như Tnú là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp.
của dân làng Xô Man, được Nguyễn Trung Thành khắc họa
bằng bút pháp sử thi. Ông xuất hiện trong tác phẩm với tư
cách là người kể chuyện cho con cháu nghe về cuộc đời Tnú. \
b. Ngoại hình:
- Cụ Mết là người đại diện cho thế hệ đầu tiên của làng Xô
Man những năm chống Mỹ, biểu tượng cho sức mạnh truyền
thống, tinh thần kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây
Nguyên. Cụ được miêu tả trong dáng dấp của một người anh
hùng, thân hình “quắc thước”, “mắt sáng và xếch ngược”,
“vết sẹo ở má phải bóng loáng”, “râu dài đến ngực và đen
bóng”, ngực căng như một cây xà nu lớn, bàn tay chắc nịch,
nặng như kìm sắt và sần sùi như vỏ cây xà nu.
=> Đây là hình ảnh một già làng kiên nghị, vững chắc, tiềm
tàng sức mạnh thể chất và uy lực tinh thần.
c. Vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất:
- Là một già làng trầm tính, kín đáo và uy nghi: là người đứng
đầu, là linh hồn của Xô Man, cụ Mết được người dân Xô Man
kính trọng và yêu mến.
+ Tiếng nói của cụ dội vang lồng ngực như âm âm vọng của
núi rừng, như lời phán truyền của lịch sử, quá khứ.
+ Cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát,
thể hiện sự quyết đoán của người đứng đầu.
+ Không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” khi vừa ý nhất chỉ nói
“Được!”. Đó là tính cách của một con người luôn yêu cầu
người khác cũng như bản thân phải hoàn thành nhiệm vụ,
sống có trách nhiệm và phải biết vươn lên.
- Là người giàu tình yêu thương dân làng và quê hương.
+ Là già làng, cụ yêu thương trân trọng tất cả mọi người
bằng tấm lòng nhường nhịn và chia sẻ.
+ Luôn tự hào về vẻ đẹp và truyền thống của dân làng Xô
Man. Theo cụ, “Gạo của người Strá mình ngon nhất”,
“núi rừng không có cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta”.
+ Cụ ca ngợi tính cách trung thực của Tnú: “Đời nó khổ
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
=> Cụ trở thành nhịp cầu nối kết giữa quá khứ và hiện tại,
mang trong mình sức mạnh truyền thống cộng đồng.
- Là người có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Cách
mạng.
Dưới thời Mĩ - Diệm, cụ Mết tổ chức dân làng nuôi giấu cán
bộ. Cụ dạy người dân Xô Man từ già đến trẻ phải biết gắn bó
với Cách mạng bằng niềm tin tuyệt đối.
Lãnh đạo nhân dân nổi dậy, cụ đã chọn cho Xô Man con Phân tích cụ thể:
đường đấu tranh mang chân lí thời đại chống Mĩ, con đường
Cụ Mết được hình dung như một cây xà nu lớn vững chãi, người dân Xô Man từ già đến trẻ phải biết gắn bó với Cách
hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao thế hệ dân mạng bằng niềm tin tuyệt đối. Lãnh đạo nhân dân nổi dậy, cụ
làng Xô Man được nhà văn nhắc đến tuy không nhiều nhưng đã chọn cho Xô Man con đường đấu tranh mang chân lí thời
có vai trò vô cùng quan trọng với mạch truyện. Hình tượng cụ đại chống Mĩ, con đường đấu tranh vũ trang chiến tranh nhân
Mết mang bóng dáng của người anh hùng Núp - người con ưu dân, “chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”.
tú của cuộc kháng chiến chống Pháp được nhà văn khắc họa
trong “Đất nước đứng lên”. Nguyễn Trung Thành đã từng Lật giở từng trang văn, bạn đọc như đang đắm mình với câu
viết trong một bài hồi ức về nhân vật cụ Mết: “Ông là cội chuyện kể lại của cụ. Hình ảnh cụ Mết giúp người đọc nhận
nguồn, là Tây Nguyên của một thời “Đất nước đứng lên” còn thức được nhiều điều: biết sống hướng về cội nguồn, tự hào
trường tồn đến hôm nay”. Cụ Mết cũng như Tnú là biểu về các thế hệ cha anh, trân trọng những hi sinh mất mát của
tượng cho vẻ đẹp anh hùng của dân làng Xô Man, được họ để thấy giá trị của tự do, độc lập trong cuộc sống hiện tại,
Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng bút pháp sử thi. Ông biết sống có lí tưởng để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp.
xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là người kể chuyện cho
con cháu nghe về cuộc đời Tnú. 4. Các nhân vật khác:

Cụ Mết là ai? Có ý nghĩa gì với mạch truyện đến vậy ? Cụ a) Dít:


Mết là gạch nối giữa lịch sử và hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ + Tiêu biểu cho lực lượng chiến đấu hôm nay, là sự tiếp nối
thời chống thực dân Pháp. Đó cũng là người đại diện cho thế tự nhiên truyền thống anh hùng, bất khuất của cụ Mết, Tnú và
hệ đầu tiên của làng Xô Man những năm chống Mỹ, biểu Mai.
tượng cho sức mạnh truyền thống, tinh thần kiên cường, bất + Cô bé Dít trưởng thành một cách nhanh chóng từ đau
khuất của nhân dân Tây Nguyên. Cụ được miêu tả trong dáng thương. Ở cô bộc lộ sự gan góc sức chịu đựng hiếm có. Khi
dấp của một người anh hùng, thân hình “quắc thước”, “mắt Tnú lên đường đi bộ đội, Dít đã thay Tnú lãnh đạo cuộc chiến
sáng và xếch ngược”, “vết sẹo ở má phải bóng loáng”, “râu đấu của cả dân làng.
dài đến ngực và đen bóng”, ngực căng như một cây xà nu b) Bé Heng:
lớn, bàn tay chắc nịch, nặng như kìm sắt và sần sùi như vỏ + Cậu bé có những nét hồn nhiên, sống động, tiêu biểu cho
cây xà nu. Đây là hình ảnh một già làng kiên nghị, vững chắc, thế hệ măng non của làng Xô Man, Heng sẽ nối tiếp xứng
tiềm tàng sức mạnh thể chất và uy lực tinh thần. đáng con đường đã chọn của Tnú, Mai và cụ Mết.
Với nét vẽ đậm chất sử thi, cụ Mết hiện lên mang đậm nét vẽ + Heng là hình ảnh của một cây xà nu non còn mang trong
về một người anh hùng chinh chiến lâu năm, một già làng mình bao sinh lực tràn trề hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu
trầm tính, kín đáo và uy nghi. Cụ là người đứng đầu, là linh mạnh mẽ và bất tử. Đó là đại diện của thế hệ tương lai nối
hồn của Xô Man, cụ Mết được người dân Xô Man kính trọng tiếp truyền thống và hứa hẹn sẽ đi xa hơn thế hệ cha anh.
và yêu mến. Tiếng nói của cụ dội vang lồng ngực như âm âm
vọng của núi rừng, như lời phán truyền của lịch sử, quá khứ.
Cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát, thể hiện
sự quyết đoán của người đứng đầu. Không bao giờ khen “Tốt!
Giỏi!” khi vừa ý nhất chỉ nói “Được!”. Đó là tính cách của
một con người luôn yêu cầu người khác cũng như bản thân
phải hoàn thành nhiệm vụ, sống có trách nhiệm và phải biết
vươn lên.
Một cái đầu lạnh và một trái tim ấm, già làng là người giàu
tình yêu thương dân làng và quê hương. Cụ luôn yêu thương
trân trọng tất cả mọi người bằng tấm lòng nhường nhịn và
chia sẻ. Hơn thế cụ Mết luôn tự hào về vẻ đẹp và truyền
thống của dân làng Xô Man. Theo cụ, “Gạo của người Strá
mình ngon nhất”, “núi rừng không có cây nào mạnh bằng cây
xà nu đất ta”. Cụ ca ngợi tính cách trung thực của Tnú: “Đời
nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Có thể
nói cụ Mết đã trở thành nhịp cầu nối kết giữa quá khứ và hiện
tại, mang trong mình sức mạnh truyền thống cộng đồng.
Là một già làng, đồng thời cụ còn mang trong mình một tấm
lòng sục sôi, nung nấu chiến đấu giành tự do cho dân tộc. Cụ
có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng. Dưới thời Mĩ -
Diệm, cụ Mết tổ chức dân làng nuôi giấu cán bộ. Cụ dạy
5. Đặc sắc nội dung + nghệ thuật: MB2:
“Yêu biết mấy những con người đi tới
a, Nội dung: Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, biểu dương tinh Ngực dám đó những phong ba dữ dội
thần bất khuất, ý chí chiến đấu của người Tây Nguyên và con Chân đạp bùn không sợ các loại sên!”
đường giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Hình ảnh những con người Việt Nam ấy đã đi vào thơ ca như
b, Nghệ thuật: một niềm thơ lớn và trở thành phần hồn của mỗi người con
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa khuynh hướng sử thi và cảm đất Việt. Yêu biết mấy hình ảnh người dân quê tôi: cần cù
hứng lãng mạn. trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ
 Khuynh hướng sử thi: kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ máu lửa, đi
Khuynh hướng sử thi thể hiện đậm nét ở các phương diện: sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người. Tôi nhớ
- Đề tài: truyện bàn đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không mãi mãi một Tnú, cụ Mết trong “Rừng xà nu” của Nguyễn
chỉ của cả cộng đồng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam. Trung Thành. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt
- Chủ đề: trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ Nam, của sức sống dân tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã
có con đường duy nhất là cầm vũ khí, vùng lên chiến đấu, bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn sáng
giải phóng quê hương. ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau
- Nhân vật: hệ thống nhân vật trong tác phẩm là những con thương, lại rất đỗi anh hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để
người kết tinh cao độ nhiều phẩm chất tiêu biểu của cả cộng rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì người dân
đồng: gắn bó với dân làng, trung thành với Cách mạng, căm mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại
thù giặc sâu sắc, kiên cường, bất khuất. dũng cảm. Lý tưởng những ngày còn chiến tranh bom đạn ấy.
các nhân vật luôn gắn bó với vận mệnh của cả dân tộc. Các
nhân vật được xây dựng thể hiện sự nối tiếp của các thế hệ MB3:
cách mạng làng Xô Man. “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung
- Nghệ thuật trần thuật: câu chuyện mới diễn ra nhưng được Thành (tức Nguyễn Ngọc) cũng là một trong những tác phẩm
kể như một câu chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ, giọng điệu của tiêu biểu của nền văn học Việt Nam chống Mỹ, cứu nước.
sử thi trong không khí trang trọng và thái độ trang nghiêm Bên cạnh những anh hùng và tập thể anh hùng, ở Rừng xà nu,
của người kể và người nghe. Giọng kể trầm hùng khiến cho Nguyễn Trung Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ
câu chuyện mang màu sắc thiêng liêng như một trang sử cộng thuật mang tính biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc và nhân
đồng. dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình tượng
- Giọng văn trang trọng, hùng tráng. cây xà nu.
 Cảm hứng lãng mạn:
Cảm hứng lãng mạn cách mạng thể hiện qua các phương MB4:
diện: Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với
- Đề cao vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong sự đối lập mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào
với sự tàn bạo của kẻ thù. sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho
- Lời văn giàu sức tạo hình, giọng văn giàu cảm xúc tha thiết. Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về
mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội,
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO: nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong
kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh
1. Mở bài: Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong
những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm
MB1:
1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang
Có lẽ bởi giới văn nhân nhạy cảm quá, họ dễ nặng lòng bởi
diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt
nhịp thở của những mảnh đất, con người ở bất kì đâu mà đất
người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là
ấy, người ấy cứ trở đi trở lại trong những tác phẩm của họ.
một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây
Nếu Kim Lân nặng nghĩa nặng tình với dân tình làng cảnh
Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong
Việt Nam chốn đồng bằng Bắc Bộ, nếu Nguyễn Tuân tả vùng
tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Tây Bắc bằng ngòi bút tha thiết tình yêu thì Nguyễn Trung
Thành lại như mắc duyên mắc nợ với Tây Nguyên hùng vĩ.
Thiên nhiên và con người Tây Nguyên đã kết tinh vẻ đẹp lại
nơi tác phẩm “Rừng xà nu” của chính ông và lôi cuốn tâm
hồn bạn đọc vào những ý văn nhẹ nhàng mà sâu lắng.
2. Kết bài:

KB1:
Trong tác phẩm “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Không khí ấy, tâm thế ấy có lẽ đã được diễn tả sâu sắc nhất
trong truyện ngắn “Rừng xà nu”. Những trang văn của
Nguyễn Trung Thành khép lại nhưng đã mở ra trước mắt
ta tượng đài những người anh hùng bất khuất, không bao giờ
chịu khuất phục trước dã tâm của kẻ thù. m hưởng sử thi của
thiên truyện vẫn còn âm vang trong lòng bạn đọc như tiếng
gọi của đại ngàn Tây Nguyên, như lời khẳng định chắc chắn
một sự thật lịch sử, rằng: để cho sự sống của đất nước và
nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải
cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành sẽ mãi sáng ngời
những vẻ đẹp tráng lệ và hào hùng ấy.

KB2:
Bấy nhiêu hi sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là
biết bao những kiên trì, quyết tâm cho một ngày mai “rũ bùn
đứng dậy sáng lòa”. Những người con của núi rừng Tây
Nguyên như cụ Mết, Tnú, Mai... là kết tinh của bao gian lao
và cả tinh thần anh dũng, kiên cường của tình yêu nước nồng
nàn luôn rực cháy trong tim. Xây dựng thành công hình
tượng người anh hùng, tập thể anh hùng mang âm hưởng sử
thi,
với lời văn chau chuốt, sinh động, Nguyễn Trung Thành cùng
thiên truyện “Rừng xà nu” đã để lại ấn tượng mạnh mẽ nơi
người đọc, khiến ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi và tự hào
mãi về những năm tháng gian lao mà huy hoàng của dân tộc:
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”
Văn bản: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Câu chuyện thú vị về Hồ Chí Minh:
- Hồ Chí Minh –
Những giờ phút hạnh phúc nhất trong đời Hồ Chủ tịch
“Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã
đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh Trong cuốn Những năm tháng không thể nào quên của Võ
dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong Nguyên Giáp (NXB Quân Đội Nhân Dân) cũng kể câu
những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản chuyện, hồi ức về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Tuyên
Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng ngôn Độc lập.
sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”. “Anh chị chủ nhà ở phố Hàng Ngang đã dành cho chúng tôi
(Trần Dân Tiên)
tầng gác hai. Bác được mời lên tầng ba làm việc cho tĩnh.
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Hồ Chí Minh Nhưng Bác không thích ở một mình, cùng ở với chúng tôi”.
Tầng gác này vốn là phòng ăn và buồng tiếp khách nên không
 Nhà lãnh tụ tài ba. có bàn viết. Bác ngồi viết ở bàn ăn rộng thênh thang. Chiếc
Từ  Anh hùng giải phóng dân tộc. máy chữ của Bác đặt trên cái bàn vuông nhỏ, mặt bọc nỉ xanh
khó  Phong cách sáng tác đa dạng. kê ở góc buồng. Hết giờ làm việc, mỗi người kiếm một chỗ
a  Nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc.
nghỉ luôn tại đó.
 Đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
Ngày 28 (28/8/1945), danh sách Chính phủ lâm thời được
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1890 – 1969) sinh ra trong công bố trên các báo chí Hà Nội.
một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở làng Kim Liên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định ngày ra mắt
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người là nhà lãnh tụ tài của Chính phủ lâm thời cũng là ngày nước Việt Nam chính
ba, anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là nhà thơ, thức công bố giành quyền độc lập và thiết lập chính thể dân
nhà văn, nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam. Tuy không chủ cộng hòa.
hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương Ngoài đường lối, chính sách của Chính phủ, phải chuẩn bị cả
(Ngâm thơ ta vốn không ham) nhưng Người đã nhận ra rằng những lời thề để đưa ra trước nhân dân. Bác và Thường vụ
văn chương là một loại vũ khí sắc bén đầy lợi hại để đấu trao đổi về một việc hệ trọng cần bắt tay vào làm ngay: thảo
tranh cách mạng và cũng là phương tiện rất hiệu nghiệm để bản Tuyên ngôn Độc lập.
động viên chiến sĩ, đồng bào: Văn hoá nghệ thuật cũng là một Trong căn buồng nhỏ của ngôi nhà nằm giữa một trong 36
mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy; Nay ở trong phố phường cổ kính, Bác ngồi làm việc, khi thì viết, khi thì
thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Chính vì đánh máy.
vậy, tất cả sáng tác văn học của Bác đều trở thành một bộ Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những người giúp việc
phận trong sự nghiệp đấu tranh cho từng giai đoạn cách mạng trong gia đình không biết ông cụ có cặp mắt sáng, chiếc áo
ở nước ta. Do đó, phong cách sáng tác của Người rất đa dạng nâu bạc thường để hở khuy ngực, hay hút thuốc lá, ngồi cặm
và sự nghiệp văn học của Người cũng rất lớn lao về tầm vóc. cụi ở đó làm gì. Mỗi lần họ tới hỏi cụ có cần gì, cụ quay lại
mỉm cười, chuyện trò đôi câu. Lần nào cụ cũng nói không có
gì cần phải giúp đỡ.
Trong sách Những năm tháng không thể nào quên, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp viết: “Một buổi sáng, Bác và anh Nhân gọi
anh em chúng tôi tới. Bản Tuyên ngôn lịch sử đã thảo xong,
Bác mang đọc để thông qua tập thể. Như lời Bác nói lại sau
này, đó là những giờ phút sảng khoái nhất của Người. Hai
mươi sáu năm trước, Bác đã tới Hội nghị hòa bình Versailles,
nêu lên những yêu cầu cấp thiết về dân sinh, dân chủ cho
những người dân thuộc địa. Cả những yêu cầu tối thiểu đó
cũng không được bọn đế quốc mảy may chấp nhận. Người đã
thấy rõ sự thật là không thể trông chờ ở lòng bác ái của các
nhà tư bản. Người biết chỉ còn trông cậy vào cuộc đấu tranh,
vào lực lượng của bản thân dân tộc mình. Giờ phút này,
Người đang thay mặt cho cả dân tộc hái quả của 80 năm đấu
tranh. Bữa đó, chúng tôi thấy rõ niềm vui rạng rỡ trên khuôn
mặt còn võ vàng của Người”.
Thu Hiền
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: – Là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của Việt
Nam với thế giới.
1. Hoàn cảnh sáng tác: – Tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở Việt
Nam, khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng cho dân
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát xít Nhật, kẻ đang
tộc Việt Nam trên trường quốc tế; là mốc son lịch sử chói lọi
chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ, đã đầu hàng Đồng minh.
mở ra kỉ nguyên độc lập tự do trên đất nước ta: kỉ nguyên độc
Trên toàn quốc, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền.
lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân làm chủ đất nước.
Ngày 19 – 8 – 1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân
 Giá trị nghệ thuật:
dân. Ngày 26 – 8 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu
– Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chương yêu nước lớn của
Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang,
thời đại cách mạng. Tác phẩm đã khẳng định mạnh mẽ quyền
Người đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
độc lập của dân tộc Việt Nam, gắn độc lập dân tộc với quyền
– Ngày 2 – 9 – 1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội,
sống của con người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền
trước hàng vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời
thống nhân đạo của người Việt Nam, đó cũng là những cảm
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc
hứng bao trùm trong lịch sử văn học Việt Nam.
lập khai sinh ra nước Việt Nam mới.
– Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực. Dung
– Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong một tình thế vô cùng cấp
lượng tác phẩm ngắn gọn hàm súc; kết cấu tác phẩm chặt chẽ,
bách: nền độc lập vừa mới giành được bị đe dọa bởi các thế
mạch lạc; lập luận đanh thép giàu sức thuyết phục; chứng cứ
lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại
cụ thể xác thực; ngôn ngữ chính xác gợi cảm, tác động mạnh
nước ta. Tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân Đảng
mẽ vào cả nhận thức và tình cảm của người đọc, người nghe.
Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là
quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của bài như
dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của Pháp bị sau:
Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương đương 19/8/1945 Hà Nội - 26/8/1945 Việt Bắc - 2/9/1945 Tuyên
nhiên phải trở lại với người Pháp. ngôn Độc lập
2. Đối tượng và mục đích hướng đến của bản Tuyên ngôn:

– Bản Tuyên ngôn ra đời trước hết là hướng đến đồng bào cả
nước; tiếp sau là các nước trên thế giới; bọn đế quốc, thực
dân đang lăm le xâm lược nước ta đặc biệt là Anh, Pháp, Mĩ.
– Bản Tuyên ngôn chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước
thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam; ngăn
chặn âm mưu chuẩn bị chiếm lại nước ta của bọn đế quốc,
thực dân.

3. Nguồn cảm hứng:

Khi viết Tuyên ngôn Độc lập, Bác viết dưới hai nguồn cảm
hứng chính do là cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân văn.
Cảm hứng yêu nước là tiếng nói của một nhà ái quốc vĩ đại
đã hi sinh cả cuộc đời mình để đi tìm hình hài của Tổ quốc.
Cảm hứng ấy như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt ba phần của bản
tuyên ngôn.

4. Giá trị của bản Tuyên ngôn:


 Giá trị lịch sử:
– Là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa
bỏ chế độ thực dân, phong kiến.
– Đúc kết nguyện vọng sâu sắc của dân tộc Việt Nam về
quyền độc lập, tự do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu
tranh gần 100 năm của dân tộc ta để có thể có được quyền
thiêng liêng và chính đáng ấy.
Để hiểu rõ hơn về tác giả Hồ Chí Minh và bản Tuyên ngôn caravat, nhưng Hồ Chí Minh cố ý chọn mặc bộ đồ kaki phai màu
Độc lập, các em có thể tham khảo bài viết dưới đây: với cổ cao và mang đôi dép cao su trắng.
Sau lễ chào cờ và hát quốc ca, Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội
Diễn biến ngày 2 tháng 9 vụ, bước tới micrô giới thiệu Hồ Chí Minh, người được chào
Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà, báo Cứu quốc của Việt mừng bằng những tiếng hô vang dội được sắp xếp trước, “Độc
Minh, ông Nguyễn Hữu Đang đọc chương trình buổi lễ và giới lập! Độc lập!” Hồ Chí Minh vẫy tay trước khán thính giả trong
thiệu Chính phủ lâm thời, chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn vài phút, đoạn nâng hai bàn tay lên để kêu mọi người im lặng.
độc lập, các thành viên Chính phủ tuyên thệ, ông Võ Nguyên Bằng giọng Nghệ Tĩnh đặc trưng, Hồ Chí Minh bắt đầu đọc
Giáp, bộ trưởng Bộ Nội vụ giãi bày tình hình trong nước và Tuyên ngôn Độc lập. Đọc đến giữa chừng, Hồ Chí Minh hỏi:
nhiệm vụ của Chính phủ, ông Trần Huy Liệu tường trình vào “Tôi nói, Đồng bào có nghe rõ không?” và đám đông đồng
Huế nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại, ông Nguyễn Lương Bằng thanh hô vang “Rõ!”.
đại biểu của Tổng bộ Việt Minh thuật qua lại cuộc tranh đấu của Trong buổi lễ này, thông qua bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Việt Minh để mưu giải phóng cho dân tộc. Minh cũng đã kêu gọi các nước Đồng minh ủng hộ nền độc lập
Sân khấu được làm vội vã từ gỗ và được trang hoàng bằng lớp chân chính do nhân dân Việt Nam vừa tự tay giành được thông
vải trang trí trắng và đỏ, do đó cho phép hầu hết khán thính giả qua Cách mạng tháng Tám. Ông tuyên bố rằng Chính phủ lâm
có thể thấy được những vị lãnh đạo mới của mình, dù chỉ như thời đã huỷ bỏ hết mọi hiệp ước Trong buổi lễ này, thông qua
những chấm li ti. Hồ Chí Minh và các đồng sự của mình đã cố bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh cũng đã kêu gọi các nước
gắng truyền trực tiếp bản Tuyên ngôn độc lập đến mọi miền Tổ Đồng minh ủng hộ nền độc lập chân chính do nhân dân Việt
quốc nhưng các vấn đề kỹ thuật lúc đó đã không cho phép điều Nam vừa tự tay giành được thông qua Cách mạng tháng Tám.
này diễn ra. Mặc dù đã ở nước ngoài trong suốt hơn 30 năm Ông tuyên bố rằng Chính phủ lâm thời đã huỷ bỏ hết mọi hiệp
nhưng phong cách nói tiếng Việt của Hồ Chí Minh vẫn đầy tự ước do Pháp kí trong quan hệ với Việt Nam và bãi bỏ hết mọi
tin và mạnh mẽ. Bản Tuyên ngôn độc lập có độ dài vừa đủ do đặc quyền của người Pháp, và cảnh báo rằng người Việt “kiên
những người Việt tham gia buổi lễ hôm đó phần lớn còn chưa quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”. Kết thúc bài
tiếp xúc với hoạt động mít-tinh kiểu châu Âu như thế này bao phát biểu của mình, Hồ Chí Minh giới thiệu từng bộ trưởng
giờ. Ngày mùng 2 tháng 9 năm đó, nhiều gia đình đã dọn dẹp trong Chính phủ lâm thời với quần chúng nhân dân và tất cả đều
nhà cửa và chuẩn bị đốt pháo để ăn mừng buổi lễ. làm lễ tuyên thệ nhậm chức.
Từ Phủ Toàn quyền, Jean Sainteny, viên chức cao cấp của nước Võ Nguyên Giáp khi đó bước tới và đọc một diễn văn dài đầy vẻ
Pháp Tự do (Free French) – nước Pháp sau khi được giải phóng nghiêm trang để tô điểm thêm cho bản Tuyên ngôn. Sau đó,
khỏi Phát-xít Đức đã có mặt ở Hà Nội, đã quan sát hàng chục Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ thông tin và tuyên truyền, báo cáo
ngàn người Việt Nam đi thành từng hàng băng qua đại lộ Brière- trước khán thính giả về buổi lễ thoái vị của Bảo Đại ở Huế ba
de-l’Isle để tiến vào quảng trường. Jean Sainteny ngạc nhiên ngày trước đó, và rồi trao thanh kiếm hoàng gia và ấn cho Hồ
trước sự tham gia công khai của giới Công giáo và sửng sốt Chí Minh. Là một người có khả năng ăn nói thiên bẩm, Trần
trước sự trật tự của đám đông, không có bất kì hành vi gây rối Huy Liệu dường như đã làm cho đám đông cười ồ lên và vỗ tay
nào. Không ai có cử chỉ thù địch đối với Jean Sainteny hay đối khi mô tả sự cáo chung của chế độ quân chủ. Hòa vào bối cảnh
với tòa nhà phủ Toàn quyền. đó, Hồ Chí Minh tuyên bố rằng thanh kiếm, trước đây được
Vấn đề an ninh cũng được suy xét đáng kể, với đội quân danh dự dùng để đàn áp dân chúng, giờ đây sẽ được dùng để “chặt đầu
của Quân Giải phóng đảm bảo không ai trong số khán thính giả kẻ phản bội”. Đại diện cho Tổng bộ Việt Minh là Nguyễn Lương
có thể tới gần khán đài trong phạm vi 20 mét, những công nhân Bằng sau đó nói ngắn gọn về nhu cầu cần thống nhất và đấu
và sinh viên có vũ trang cũng được xếp đặt tại mọi góc của mấy tranh, phát biểu thẳng thừng rằng đánh Pháp là chuyện cần thiết.
khu vườn, và một đơn vị tự vệ cảnh giác trước bất kì sự quấy rối Vào một thời điểm nào đó giữa buổi lễ lúc chiều, hai chiếc máy
nào từ hướng Thành Hà Nội nơi quân Pháp vẫn còn bị Nhật bay Tia chớp P-38 của Mỹ sà xuống thấp ngay trên đám đông,
giam giữ. Trước cuộc mít-tinh, lính Nhật ở khu đất thuộc Phủ một sự kiện được tuyên bố ngay tức thì và ai cũng tin là đại diện
Toàn quyền đã thiết lập mấy khẩu súng máy chĩa về quảng cho lời chào mừng của Mỹ dành cho chính quyền non trẻ của
trường, làm những nhà tổ chức phải dựng lên một bức màn Việt Nam. Cuối cùng, trước khi kết thúc buổi lễ, Chủ tịch Hồ
người gồm những dân quân tự vệ với chỉ thị thà chết còn hơn rút Chí Minh tuyên bố: “Chúng ta sẽ phải trải qua nhiều khốn khó
lui. và đau khổ hơn nhiều. Đồng bào phải ủng hộ chính quyền, để
Mặc dù chương trình được mong đợi bắt đầu vào đúng 2 giờ sau này có thêm nhiều buổi ăn mừng và thắng lợi!” Buổi lễ kết
chiều, nhưng xe hơi chở các thành viên trong nội các Việt Nam thúc bằng việc đoàn người có tổ chức ở quảng trường sau đó
Dân chủ Cộng hoà đã đến trễ hai mươi lăm phút khi phải đi diễu hành ra phố, giải tán ở hồ Hoàn Kiếm, và gia nhập vào bầu
xuyên qua các đám đông. Hồ Chí Minh dẫn đầu những người không khí vui chung cho đến giờ giới nghiêm.
còn lại bước nhanh lên khán đài, điều làm ngạc nhiên nhiều
người đứng xem vì họ mong chờ những người cầm quyền sẽ di
chuyển với phong thái từ tốn và trang nghiêm. Trong khi hầu hết
các đồng sự của ông trên khán đài đều mặc đồ vest Tây và thắt
Nhận xét về tác giả và tác phẩm: III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:

1. “Là người đã viết Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925,
Hồ Chí Minh cảm thấy “sảng khoái nhất” khi cầm bút viết
những lời kết thúc cho chế độ thực dân Pháp và khai sinh ra
chế độ Dân chủ Cộng hòa tại Việt Nam” (Trần Đình Sử)

2. Một chính khách danh tiếng của châu Á đã phát biểu:


“Người là ánh sáng hi vọng trong thế kỉ bạo tàn, ánh sáng hi 1. Nguyên lý chung (cơ sở pháp lý và chính nghĩa) của bản
vọng đó phải chăng là tư tưởng không gì quý hơn độc lập tự tuyên ngôn:
do của Người”.
- Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập
3. Bác có nói: “Tôi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự
được bài viết hữu ích như lần này”. do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những
quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải
4. Đồng chí Trường Chinh nhận xét: “Về văn phong, cách nói
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
và cách viết của Hồ Chủ Tịch có những nét rất độc đáo: Nội
- Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên
dung khảng khái, thấm thía đi sâu vào tình cảm của con
ngôn của Mỹ và Pháp:
người, chinh phục cả trái tim và khối óc con người ta: Hình
+ Trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là
thức sinh động, giản dị, giàu tính dân tộc và tính nhân dân”.
tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại.
5. “Bác Hồ là cây đại thụ Việt Nam mà rễ ăn sâu xuống lòng + Sau nữa là “suy rộng ra...” nhằm nêu cao một lý tưởng về
đất đời đời xanh tươi. Bóng mát che rợp cả đất nước ba phần quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tư thế kỷ XX”. (Đoàn Minh Tuấn) tự do của các dân tộc trên thế giới.
=> Đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân loại và
6. “Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo.
đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai - Ý nghĩa của việc trích dẫn:
chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, + Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối
tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn phương.
gọn, trong sáng, khúc triết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu + Khẳng định tư thế đầy tự hào của dân tộc (đặt 3 cuộc Cách
tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân mạng, 3 nền độc lập, 3 bản Tuyên Ngôn ngang hàng nhau)
loại.” (Nguyễn Đăng Mạnh) cách vận dụng khéo léo và đầy sáng tạo.
- Cách mở bài rất đặc sắc: từ công nhận Nhân quyền và Dân
quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do,
Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc.
Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự
khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự
do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần
được tôn trọng và bảo vệ.
=> Đây là đóng góp riêng của tác giả và của dân tộc ta vào
một trong những trào lưu tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc
quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo cao cả.
- Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không
chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế
giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa
kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong
phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông
Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu
chiến, đầy tham vọng.
* Tóm lại: Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Người đã xác lập cơ
sở pháp lý của bản Tuyên Ngôn, nêu cao chính nghĩa của ta.
Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc.
Phân tích chi tiết: cách mạng của ta thì nghĩa là chúng cũng sẽ phủ nhận thành
quả cách mạng của chính mình, đi ngược lại bánh xe của lịch
Trước hết, Hồ Chủ tịch khẳng định nước Việt Nam có quyền sử và sa vào chủ nghĩa xét lại mà cả thế giới đang lên án. Và
hưởng tự do, độc lập bằng chính lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, với ý nghĩa đó, dân tộc Việt Nam cũng đã sánh ngang với hai
người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm cường quốc Pháp và Mỹ, chứ không còn là một quốc gia
vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hóa của dân tộc ấy. nhược tiểu trên bản đồ thế giới với cái tên: Thuộc địa thuộc
Bác dẫn lời trong tuyên ngôn của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi Pháp nữa.
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền Ở đây nếu để ý, người yêu văn sẽ dễ dàng nhận thấy nếu
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh trong cả hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều có đề cập
phúc.” Người còn dẫn bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân đến quyền con người thì Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Ở đó có đoạn: “Người Minh lại nói về quyền dân tộc. Đây cũng là một dụng ý nghệ
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn thuật của Hồ Chí Minh bởi lẽ đối với một dân tộc thuộc địa
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Đó là những lẽ phải, như ở Việt Nam, khi quyền dân tộc chưa có được thì quyền
những chân lí mà thế giới đã thừa nhận. Chính từ hai chân lý con người ngàn năm không bao giờ có. Nhân dân Việt Nam
đó, Người đã chỉ ra được một chân lí thứ ba, buộc mọi người đấu tranh để bảo vệ quyền dân tộc là họ đang đấu tranh để
phải thừa nhận: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả bảo vệ quyền con người. Vì vậy, Tuyên Ngôn Độc Lập của
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào Hồ Chí Minh là bản tuyên ngôn nhân quyền mang sắc thái
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Hồ quốc tế.
Chí Minh đã mượn hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn
mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ, và hai bản tuyên ngôn Lúc đó, bọn thực dân Pháp đang đe dọa nền độc lập của dân
này cũng được nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới công nhận tộc, bản tuyên ngôn là một lời cảnh bảo cho Pháp và những
để làm cơ sở pháp lí cho bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước nước đang nhăm nhe xâm lược nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy
Việt Nam thì không có lí nào mà nhân dân thế giới không phải là cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng
công nhận bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta. cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ nhân
loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lí của cuộc
Viết bản tuyên ngôn, Bác đã sử dụng một ngôn ngữ lập luận kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận
vừa khôn khéo lại vừa kiên quyết. Nói là khôn khéo bởi điểm xảo trá của bọn thực dân muốn “hợp pháp hóa” cuộc
Người đã lấy lời lẽ trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân xâm lược của chúng ta trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên
quyền của Pháp để so sánh với việc làm đồi bại của chúng ở ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập
Việt Nam ngót một thế kỷ qua, để phanh phui bộ mặt thật của luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
bọn thực dân, xé toang chiêu bài của chúng trên trường quốc
tế. Trong tranh luận không gì thú vị bằng việc lấy lời lẽ của Như vậy, ngay từ mươi dòng đầu, bằng cách lập luận vô cùng
đối phương để “khóa miệng” của đối phương. Đó chính là chặt chẽ, lập luận sắc sảo, đanh thép, Hồ Chí Minh xứng đáng
nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” trong tranh luận. Những là nhà văn của nhân loại như lời nhận định củaMuydenstande.
kẻ chuyên mang quân đi xâm lược nhưng ngoài miệng luôn Qua phần mở đầu Tuyên Ngôn Độc Lập, ta còn thấy văn
nói về quyền tự do, bác ái ấy đã bị Người sử dụng chính cây phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm
gậy độc lập dân tộc đập lại vào lưng. thía, rung động lòng người. Tuyên Ngôn Độc Lập là “lời Non
Ngoài ra, những lí lẽ Người sử dụng còn thể hiện một sự kiên Nước” cao cả và thiêng liêng.
quyết. Thông qua phần một của bản tuyên ngôn, người đã
ngầm cảnh cáo nước Pháp rằng nếu chúng thực sự đem quân
đi xâm lược nước ta thì lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha
ông họ đã giương cao từ thế kỉ trước sẽ bị vấy bẩn, sẽ chà đạp
lên truyền thống tốt đẹp mà cha ông họ đã dày công vun đắp.
Hơn thế nữa, qua việc trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Pháp, Bác đã đặt ngang hàng bản tuyên ngôn
độc lập của Việt Nam với bản tuyên ngôn của nước Pháp.
Vẫn biết rằng tuyên ngôn là hệ quả tất yếu của Cách mạng,
vậy nên ta có thể thấy Người đã đặt Cách mạng tháng Tám
của ta ngang hàng với cuộc cách mạng tư sản Pháp trong khi
Pháp đang tìm cách phủ nhận thành quả Cách mạng tháng
Tám của ta. Như vậy giờ đây, nếu Pháp phủ nhận thành quả
2. Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn: Phân tích chi tiết:
 Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp:
- Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh, Người
cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức còn thể hiện tài năng lập luận bằng nghệ thuật liên kết chặt
đồng bào ta”. chẽ giữa các phần. Kết thúc phần một, Bác chuyển sang
- Năm tội ác về chính trị: tước đoạt tự do dân chủ, luật pháp phần hai bằng hai chữ “thế mà” như để báo trước cho người
dã man, chia để trị, chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, yêu văn rằng tất cả những hành động đồi bại của thực dân
ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, đầu độc Pháp ở Việt Nam ngót một thế kỉ qua trái hoàn toàn với
bằng rượu cồn, thuốc phiện. những lời lẽ trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
- Năm tội ác lớn về kinh tế: bóc lột tước đoạt, độc quyền in Bác đã dẫn ra ở phần một.
giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, sưu thuế nặng nề, vô lý đã Đến phần hai của bản tuyên ngôn, Bác đã khẳng định quyền
bần cùng nhân dân ta, đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc độc lập dân tộc trên cơ sở tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
lột tàn nhẫn công nhân ta, gây ra thảm họa làm cho hơn 2 Đây được xem như một bản cáo trạng đanh thép để kết tội tội
triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945. ác của thực dân Pháp với hai tội trạng: Một là: xâm lược Việt
=> Sử dụng phương pháp liệt kê; câu văn ngắn dài, động từ Nam, gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam. Hai là: tội
mạnh, điệp từ, điệp cú pháp, ngôn ngữ sắc sảo; hình ảnh gợi bán nước ta cho Phát xít Nhật. Bằng lời lẽ sắc sảo của mình,
cảm, giọng văn hùng hồn. bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với
- Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị
và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”. nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kỳ, Tám
- Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính
chạy, chúng còn nhẫn Tám giết nốt số đông tù chính trị ở Yên sách ngu dân, đầu độc thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột vơ vét
Bái và Cao Bằng”. đến tận xương tủy, cuối cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng
=> Lời kết án đầy phẫn nộ, sôi sục căm thù: Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào bị chết đói”.
+ Vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp (quỳ gối , đầu hàng, Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? Bản
bỏ chạy..) Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì
+ Đanh thép tố cáo tội ác tày trời (từ đó,...từ đó..) “trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”.
Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của thực Đầu tiên đó là tội xâm lược Việt Nam. Bác dùng nghệ thuật
dân Pháp đối với nước ta ngót gần một thế kỉ. lập luận chủ yếu là nêu dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề, những
 Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta: dẫn chứng hùng hồn từ thực tế lịch sử để chứng minh. Như ta
- Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật đã biết, Pháp bắt đầu đặt chân xâm lược Việt Nam từ năm
chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi 1858 với sự kiện nổ súng ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Sau
dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh. khi bình định được nước ta, chúng tiến hành khai thác thuộc
- Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ địa để vơ vét tài nguyên thiên nhiên vật liệu của ta về làm
quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, giàu cho mẫu quốc. Tố cáo tội ác này, Hồ Chí Minh đã tố cáo
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. trên nhiều phương diện, lĩnh vực.
- Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt Về chính trị, Pháp đã không cho nhân dân ta một chút quyền
và xoá bỏ:(thoát ly hẳn, xóa bỏ hết.....) mọi đặc quyền, đặc lợi tự do dân chủ nào. Chúng ràng buộc dư luận. Chúng thực
của chóng đối với đất nước ta. hiện luật pháp dã man. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
- Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước trong biển máu. Chúng dùng chính sách “chia để trị”, chia
Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập nước ta ra làm ba kì với ba hình thức cai trị khác nhau để dân
của dân Việt Nam”:“Một dân tộc đã gan góc ...được tự do. ta không có khối đại đoàn kết dân tộc. Đó thực tế là chế độ
Dân tộc đó phải được độc lập”. chính trị nô dịch của thực dân chứ đâu phải chính trị bảo hộ
=> Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối mẫu quốc mà Pháp rêu rao trên trường quốc tế.
cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn Về kinh tế, chúng dùng chính sách cướp không ruộng đất của
độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với nhân dân ta để lập đồn điền và các hầm mỏ. Chúng đặt ra
những lí lẽ đanh thép, hùng hồn: Đó là lối biện luận chặt chẽ, nhiều sưu cao thuế nặng đánh vào nhiều giai tầng của ta
logic, từ ngữ sắc sảo, cấu trúc đặc biệt, nhịp điệu dồn dập, lời khiến họ không ngóc đầu lên được, nhất là dân cày và dân
văn biền ngẫu, cách hành văn theo hệ thống móc xich... buôn. Chúng đánh những thứ thuế vô lí như thuế thân, thuế
muối, thuế đò, thậm chí đánh ngay cả vào người đã chết như
nhà văn Ngô Tất Tố đã viết trong tiểu thuyết Tắt đèn của
mình.
Chúng thiết lập hàng rào thuế quan vô cùng nghiêm ngặt để
độc chiếm thị trường Việt Nam, không cho hàng thế vào Việt
Nam hay hàng Việt Nam ra nước ngoài tức là chúng giữ độc nước ta mà còn 2 lần nhục nhã quỳ gối mở cửa nước ta rước
quyền xuất cảng và nhập cảng. Bộ mặt xâm lược, bóc lột, vơ Nhật, bán ta cho Nhật. Sử dụng những ngôn từ thật đắt giá:
vét tài nguyên của thực dân Pháp đã hoàn toàn lật tẩy. Quỳ gối, rước Nhật vào đã cho thấy thái độ quá hèn hạ của
Về văn hóa xã hội, chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. bọn thực dân. Vậy mà chúng còn đòi kể công “bảo hộ” Việt
Nếu có trường lớp thì chúng cũng đào tạo văn hóa Pháp để ta Nam. Không chỉ có vậy, đã rất nhiều lần Việt Minh kêu gọi
bị phụ thuộc, chúng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề để thực dân Pháp đứng về phía Việt Minh để chống Nhật. Nếu
phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa. Chúng dùng như trước khi Nhật chưa vào Đông Dương thì ta và Pháp ở
chính sách nhồi sọ để dân ta ngu dân, chúng dễ bề cai trị hai chiến tuyến, không đội trời chung. Nhưng trước thảm họa
Đồng thời chúng còn đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phát xít, toàn nhân loại đã liên minh, đoàn kết, đều là phe
phiện để dân ta bị suy kiệt về nòi giống...Các trường học thì Đồng Minh chống Phát xít. Ấy vậy mà, bọn chúng chẳng
vô cùng ít ỏi nhưng những cơ sở hàng quán tư nhân để buôn những không nghe mà còn chém giết những người yêu nước
bán rượu cồn và thuốc phiện được chúng cho mở rất nhiều thương nòi của ta, dìm Tám các cuộc khởi nghĩa của ta trong
vừa là để thu lợi nhuận, vừa là để đầu độc dân ta, làm cho nòi biển máu. Với nghệ thuật ẩn dụ, bằng một câu văn đầy hình
giống ta không chỉ suy yếu về thể trạng mà còn suy nhược về ảnh mà tội ác của thực dân Pháp bị vạch trần. Ngoài ra, tính
tinh thần để quên đi nhiệm vụ cứu nước, đánh đuổi ngoại biểu tượng còn được thể hiện khi Người tố cáo tội ác xâm
xâm. Với tất cả những chính sách kể trên của thực dân Pháp lược của thực dân Pháp với những câu văn như: “Chúng
kết hợp với chính sách của Phát xít Nhật sau này trong vòng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu”. Với cách
năm năm trời bắt dân ta nhổ lúa trồng đay trồng thầu dầu mà viết này, bộ mặt quỷ dữ khát máu của kẻ thù đã bị Hồ Chí
cuối năm 1944 đầu năm 1945, từ Quảng Trị ra Bắc Kì, hơn Minh phóng lên đến cực điểm. Khi tố cáo tội ác bán Việt
hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Với cách tố cáo này, Hồ Chí Nam cho Nhật, Bác viết “Trong vòng năm năm trời, thực dân
Minh đã khẳng định thực dân Pháp không phải là kẻ công Pháp đã hai lần nhục nhã quỳ gối, mở cửa nước ta rước
“khai hóa” ta như luận điệu chúng đã nói mà là kẻ xâm lược Nhật”. Với động từ “quỳ”, động từ “rước”, Người đã tái hiện
nước ta gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam như lên bộ mặt hèn nhát của kẻ thù chứ không phải là hành động
Phan Bội Châu đã từng viết: của một người hùng đi “bảo hộ”.
“Hỡi anh chị em Nam Việt Như vậy thực dân Pháp không phải là đứng về quân đồng
Nông nỗi này ai biết cho chăng minh chống Nhật mà là kẻ nhục nhã đầu hàng Nhật. Với cách
Đã non Tám chục năm trời tố cáo này, Bác đã xé toang chiêu bài thứ hai của thực dân
Làm thân trâu ngựa cho loài chó dê... Pháp trên trường quốc tế là “bảo hộ” Việt Nam.
...Văn minh chi? khai hóa chi chi?” Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng
Như vậy ở đây, chiêu bài đầu tiên của Pháp đã bị Hồ Chí và có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dương có
Minh xé toang trên trường quốc tế. còn là thuộc địa của chúng nữa đâu? Bản Tuyên ngôn vạch
Khi Người tố cáo tội ác của thực dân Pháp, lời văn của tuyên rõ: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc
ngôn giần giật lửa căm hờn. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi
định rằng ở mười bốn câu văn, Bác đã sử dụng tới mười ba Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi
chữ “quyền”, câu nào cũng được mở đầu bằng chữ chúng, dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
nặng như búa tạ. Đằng sau chữ chúng là hàng loạt tội ác kẻ hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ Nhật chứ
thù dồn đổ xuống đầu chữ “ta”. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, đứng về ý nghĩa
xưng hô và nghệ thuật liệt kê dày đặc, Hồ Chí Minh đã cho pháp lí cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo
thấy tội ác chồng chất, cao như núi, dài như sông của bọn của bản Tuyên ngôn: “Bởi thế cho nên, chúng tôi lâm thời
thực dân mà như khi xưa Nguyễn Trãi đã từng dùng hình ảnh: chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội; Nước Đông hải không rửa Nam tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ
sạch mùi”. Đó là bản cáo trạng đanh thép luận tội bọn thực hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam. Xóa bỏ
dân và vạch rõ bộ mặt thật của chúng trên trường quốc tế. mọi, đặc quyền của Pháp trên nước Việt Nam”. Sức mạnh
Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút chính luận sắc sảo của Hồ chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật.
Chí Minh đã vạch trần tội ác thứ hai của bọn thực dân là bán Và không có lí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn lí lẽ của sự
Việt Nam cho phát xít Nhật. Bằng thực tế lịch sử chứng thật. Vì thế người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai
minh: Mùa thu năm 1940, Phát xít Nhật tràn qua biên giới chữ “sự thật”: “Sự thật là...”, “sự thật là...”. Và cuối cùng là
Việt - Trung vào Việt Nam để mở rộng căn cứ đánh Đồng “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự
minh. Bất thình lình, Pháp mở cửa nước ta để rước Nhật. Từ đã thành một nước tự do độc lập...”.
đó dân ta phải sống cảnh một cổ hai tròng. Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng
Trong vòng 5 năm trời, từ mùa thu năm 1940 đến mùa thu hùng biện của bản Tuyên ngôn. Đây là hệ thống lí lẽ bác bỏ
năm 1945, thực dân Pháp không những đã không bảo hộ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt
Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua
không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà
Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ không phải để bác bỏ mà để giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”. Một dân
khẳng định. tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã
anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe
Bản tuyên ngôn đã chỉ cho thực dân Pháp biết rằng, nếu thực Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác
dân Pháp có phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương ái như thế “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng độc lập”...Hay đó cũng chính là “đạo” của dân tộc Việt Nam
lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay mà từ xưa Nguyễn Trãi đã khẳng định: Đem đại nghĩa để
phát xít Nhật. thắng hung tàn; Lấy chí nhân để thay cường bạo. Đó là cái
gốc, là cội nguồn của mọi sức mạnh, mọi chiến công.
Bản tuyên ngôn có mục đích là tuyên bố, phát ngôn trước
đồng bào ta và công luận quốc tế để khẳng định nước Việt Bên cạnh đó, trong phần hai Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Nam hoàn toàn được độc lập. Để chứng minh ta được độc Minh đã khẳng định, vẽ lên tư thế ngời sáng, chính nghĩa của
lập, lời văn tuyên ngôn phải chỉ ra ta là chính nghĩa còn kẻ nhân dân Việt Nam. Chỉ có nhân dân Việt Nam mới đứng về
thù là phi nghĩa. Điều này được thể hiện khi Người tố cáo hai quân đồng minh Liên Xô để chống Nhật ở chiến trường Châu
tội ác của thực dân. Đồng thời, để chứng minh ta độc lập, Á – Thái Bình Dương. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp
tuyên ngôn phải phủ nhận mọi sự dính líu của ta với thực dân trên toàn cõi Đông Dương, nhân dân Việt Nam đã chuẩn bị
Pháp và Phát xít Nhật. Ta không còn là thuộc địa của Pháp mọi lực lượng để kháng Nhật cứu quốc: xây dựng lực lượng
bởi Pháp đã bán ta hai lần cho Nhật. Nhân dân Việt Nam có chính trị, xây dựng lực lượng võ trang, xây dựng căn cứ địa
thể xóa bỏ mọi hiệp ước Pháp đã kí về Việt Nam. Chỉ một từ cách mạng. Khi Nhật đầu hàng quân Liên Xô vô điều kiện,
thôi những lời nói của Người hàm ý thật sâu sắc. Pháp đơn Đảng ta chớp cơ hội ngàn năm có một làm cuộc tổng khởi
phương kí những hiệp ước về Việt Nam để khẳng định những nghĩa tháng Tám thắng lợi, cướp chính quyền từ tay Phát xít.
đặc quyền của chúng trên đất nước ta nhưng chính phủ ta, Trong tuyên ngôn, để chứng minh ta đã giành chính quyền từ
nhân dân ta không hề biết nên những điều đó không thể được tay Nhật, Bác đã phủ nhận mọi sự dính líu của ta với thực dân
công nhận. Hơn nữa, ta không còn là thuộc địa của Nhật bởi Pháp và phát xít Nhật. Ta không còn là thuộc địa của Pháp
ta đã cướp chính quyền từ tay Nhật. Và giờ đây, ta đã có bởi Pháp đã bán ta bán lần cho Nhật. Nhân dân Việt Nam có
chính phủ lâm thời, đủ sức lãnh đạo đất nước Việt Nam cho thể xóa bỏ mọi hiệp ước Pháp đã kí về Việt Nam. Ta không
đến ngày tổng tuyển cử trong cả nước 6/1/1946. Như vậy, còn là thuộc địa của Nhật bởi ta đã cướp chính quyền từ tay
Việt Nam đã thực sự được độc lập và đủ khả năng giữ vững Nhật. Hơn nữa, ta đã có chính phủ lâm thời, đủ sức lãnh đạo
nền độc lập ấy. đất nước Việt Nam cho đến ngày tổng tuyển cử trong cả nước
6/1/1946. Như vậy, Việt Nam đã thực sự được độc lập.
Phần thứ hai của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Hồ Chí Minh
còn thể hiện nghệ thuật văn chính luận với những câu văn
giàu tính hình tượng. Chỉ bằng chín chữ: “Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Hồ Chí Minh đã dựng lên trước
mắt của người đọc cả một chặng đường lịch sử dài dặc và
xuyên suốt của nhân dân ta, đất nước ta: Pháp bỏ chạy trong
đêm Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương ngày
9/3/1945. Nhật đầu hàng quân Đồng Minh Liên Xô vô điều
kiện ngày 13/8/1945. Vua Bảo Đại nhượng lại ấn kiếm cho
Việt Minh ngày 26/8/1945. Với 9 chữ này, Hồ Chí Minh đã
còn tái hiện lại những thất bại thê thảm của kẻ thù và ngược
lại là những chiến thắng thần tốc như triều dâng, nước lũ của
cuộc Cách mạng tháng Tám. Khi kẻ thù càng thất bại, thì
cuộc cách mạng của ta càng thắng lợi.
Bằng nghệ thuật so sánh tương phản, đối lập: một bên là thực
dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của
chúng ở hành động “Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm
chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù
chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng” trước khi tháo chạy thì một
bên là nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo
ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên
Hồ Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: “Tuyên
bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp
ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền
của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Độc lập tự do là khát vọng, là ý
chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động
lòng người: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
Phân tích chi tiết: và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy”. Cụm từ “Toàn thể dân tộc Việt Nam” nói lên sức mạnh đại
Để chuyển ý từ phần hai sang phần ba, Người dùng cụm từ “bởi thế đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam kết thành một khối mà
cho nên” như để cho thấy hai phần trên là nguyên nhân sâu xa và không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được! “Tự do
dẫn đến phần khẳng định, kết luận đầy thuyết phục, chính đáng ở hay là chết!”, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
lời tuyên bố. giành lại nền độc lập!”. Quyết Tám ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố
Trong phần ba của bản tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định đanh thép hùng hồn. Triệu triệu con người Việt Nam “quyết đem tất
quyền độc lập dân tộc trên trường quốc tế. Ở phần này, Hồ Chí cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
Minh khẳng định nếu công luận quốc tế thừa nhận nguyên tắc độc tự do, độc lập ấy”.
lập dân tộc của Mỹ, của Pháp và các nước thành viên khác tại hai Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với
hội nghị Tê-hê-răng và hội nghị Cựu-kim-sơn, lẽ tất nhiên phải thừa thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng
nhận nguyên tắc độc lập dân tộc của Việt Nam. Cũng trong phần ba thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh
này, Bác đã để tuyên ngôn kết thúc bằng lời thề “quyết tử cho tổ cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống
quốc quyết sinh”: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về độc lập
độc lập ấy”. tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên
Kết thúc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh bố: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
trọng tuyên bố: nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. (Lời kêu gọi Toàn quốc
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã kháng chiến - 19.12.1946).
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững “Tuyên ngôn Độc lập”: Những chặng đường lịch sử vẻ vang của
quyền tự do, độc lập ấy”. Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám -
đã kết tinh một cách sáng ngời những nội dung cơ bản của “Tuyên Chiến thắng Điện Biên oai hùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn
ngôn Độc lập”. thắng - Non sông liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà.
Trước hết, Hồ Chủ tịch khẳng định “Nước Việt Nam có quyền “Tuyên ngôn Độc lập” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”.
hưởng tự do và độc lập” vì đó là điều phù hợp với đạo lý và pháp lí. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của “Nam quốc sơn hà”, của
Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi “Bình Ngô đại cáo”. Đó là lời Non Nước cao cả và thiêng liêng, thể
dân tộc và mọi người “đều sinh ra có quyền bình đẳng (...), có hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”,
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” biểu lộ ý chí và sức mạnh Việt Nam.
(“Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ). “Nước Việt Nam Đọc đoạn văn cuối bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng ta càng thấm
có quyền hưởng tự do và độc lập” bởi lẽ “người ta sinh ra tự do và thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng
bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.
về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Nếu cảm hứng yêu nước là tiếng nói của một nhà ái quốc vĩ đại, hi
mạng Pháp năm 1791). sinh cả cuộc đời để tìm hình hài của Tổ quốc thì cảm hứng nhân
Từ nhân quyền, Hồ Chủ Tịch đã “suy rộng ra”, nói đến quyền tự văn lại là tiếng nói của một nhà nhân đạo cộng sản đã hi sinh cả
quyết của mọi dân tộc:“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra cuộc đời để đấu tranh vì quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần nhân văn nhân đạo của dân tộc
quyền tự do”. Lẽ phải ấy không ai chối cãi được và vô cùng thiêng Việt Nam. Nói đến giá trị nhân văn là phải nói đến tình yêu thương
liêng. Sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố con người. Khi tố cáo tội ác của kẻ thù, Hồ Chí Minh không chỉ
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” biểu lộ niềm tự đứng trên tinh thần dân tộc mà còn đứng trên tinh thần của quyền
hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và con người con người. Do vậy, tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là bản
Việt Nam. tuyên ngôn nhân quyền mang sắc thái quốc tế.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng Trong bản tuyên ngôn, Người đã sử dụng một ngôn ngữ vô cùng
hòa ra đời, “và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Đó là chính xác đối với từng đối tượng và mục đích của bản tuyên ngôn.
một thực tế lịch sử không ai chối cãi được. Độc lập và tự do là Về đối tượng của bản tuyên ngôn, đó không chỉ là đồng bào ta mà
thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân còn cả công luận quốc tế. Khi bản tuyên ngôn được đọc trước đồng
tộc ta: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 bào ta, nhắc đến đồng bào ta, lời tuyên ngôn xiết bao xúc động:
năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống “Hỡi đồng bào cả nước...”. Còn khi nói trước công luận quốc tế, lời
phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải văn của tuyên ngôn hào hùng, sảng khoái, vô cùng đanh thé
được độc lập!”.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI: của Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá
trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích,
1. Mở bài: lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết
phục”. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời
Mở bài 1:
đại, là kết quả cao của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với
tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang,
từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách: 2. Kết bài:
phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh; nền văn học
chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác khẳng định đanh Kết bài 1:
thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Nếu như “Nam quốc sơn Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc có tác phẩm “Bản án chế độ
hà” của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn thực dân Pháp” – đây là bản luận tội tội ác của kẻ thù. Vì vậy
đanh thép :“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”,“Đại cáo bình lời văn của “Bản án chế độ thực dân Pháp” giần giật lửa
Ngô” của Nguyễn Trãi với lời khẳng định một chân lí lịch căm hờn. Hai mươi năm sau, Hồ Chí Minh viết “Tuyên ngôn
sử: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo độc lập”. Đây là một bản cáo chung nhằm kết thúc chế độ
trừ bạo”, thì “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh kế thừa thực dân trên đất nước Việt Nam. Vì vậy, lời văn của bản
tinh thần yêu nước và cảm hứng nhân văn của hai bản tuyên Tuyên ngôn hào hùng, sảng khoái và vô cùng đanh thép. Với
ngôn trên. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới là kỉ nguyên cảm hứng yêu nước, với cảm hứng nhân văn và tài năng nghệ
độc lập dân tộc của một dân tộc thuộc địa như Việt Nam lần thuật viên mãn, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh xứng
đầu tiên vùng dậy chặt đứt mọi xiềng xích của thực dân giành đáng là đỉnh cao của văn chương chính luận nước nhà và Hồ
quyền giải phóng cho mình. Nói như Nguyễn Đình Thi trong Chí Minh ngàn lần xứng đáng là “nhà văn của nhân loại”.
bài thơ “Đất nước”:
Kết bài 2:
“Nước Việt Nam từ máu lửa Tuyên ngôn Độc lập” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng
Rũ bùn đứng dậy sáng loà” văn”. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của “Nam quốc
Tuy nhiên, đứng từ góc độ văn chương nghệ thuật để thẩm sơn hà” và “Bình Ngô đại cáo“. Nó là lời nước non cao cả và
thấu thì “Tuyên ngôn độc lập” là đỉnh cao của văn chương thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: “Không có gì
chính luận nước nhà đạt đến trình độ mẫu mực cả về nội dung quý hơn độc lập, tự do”. Đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập“,
và nghệ thuật. chúng ta càng thấm thía, tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc
ta đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao
Mở bài 2: anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho chúng ta được tự do như
Dòng máu lạc hồng qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ ngày hôm nay. Như Tố Hữu đã từng viết:
nước vẫn tuôn trào trong huyết quản của mỗi người dân Việt Tự do đã nở hoa hồng
Nam. Một dân tộc mang trong mình dòng máu anh hùng Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam
quyết chiến sinh tử với bè lũ cướp nước, quyết diệt tận vong
lũ bè bán nước. Hỡi ôi! Một dân tộc lừng lẫy chiến công vang Kết bài 3:
dội mang tên Việt Nam. Mỗi một người dân đều là máu thịt Tuyên ngôn Độc lập còn thể hiện một tầm tư tưởng, tầm văn
của đất nước,họ xứng đáng được hưởng quyền tự do,bình hóa lớn của Hồ Chí Minh, đã tổng kết được trong một văn
đẳng và mưu cầu hạnh phúc. Bản “Tuyên ngôn độc lập “ của bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, kinh nghiệm của nhiều
Hồ Chí Minh không chỉ là bản cáo trạng về tội ác của kẻ thù thời kỳ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền và dân
xâm lược mà còn chính là một lời khẳng định chắc chắn về quyền của dân tộc và nhân loại. Chính Bác Hồ cũng tự đánh
quyền tự do,tự chủ của dân tộc. giá đây là thành công thứ ba khiến Người cảm thấy sung
sướng trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, cầm bút viết
Mở bài 3: văn làm báo đầy kinh nghiệm của mình. Cũng vì thế mà vào
Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc ngày Bác mất, một chính khách danh tiếng của châu Á đã
thường xuất hiện những áng văn bất hủ, đánh dấu cho một phát biểu: Người là ánh sáng hy vọng trong thế kỷ bạo tàn,
thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến ánh sáng hy vọng đó phải chăng là tư tưởng không gì quý hơn
những tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc lập độc lập tự do của Người.
của người Mĩ năm 1776, tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc ta
cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là “Bình ngô đại
cáo” của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và “Tuyên ngôn độc
lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2-9-
1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Tuyên ngôn Độc lập
Văn bản: HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT như một điềm báo về tương lai của họ. Hay như trong một bài
- Lưu Quang Vũ – thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ viết tặng người vợ thương yêu
của mình cũng có những câu khiến người đọc phải suy nghĩ:
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một câu truyện dân gian “Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay
Việt Nam kể về chuyện một người chơi cờ tướng rất giỏi tên
Ta đã có những ngày vui sướng nhất
là Trương Ba phải chết sớm. Thương tình ông có tài, Đế
Thích là một tiên cờ và cũng là người thường xuyên đánh cờ Đã uống cả men nồng và rượu chát
với Trương Ba đã cho ông sống lại trong thân xác của một Đã đi qua cùng tận của con đường
người hàng thịt. Sự tích này là nguồn cảm hứng để Lưu Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên
Quang Vũ dựng nên vở kịch nổi tiếng cùng tên. Tuy nhiên Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt.”
ông đã viết thêm cái kết cho vở kịch của mình, một bi kịch. Tai nạn giao thông năm 1988 đã cướp đi mạng sống của đôi
Vở kịch của ông mang đến một thông điệp: nghệ sĩ tài hoa đang khi đang ở đỉnh cao cống hiến cho văn
“Mọi thứ nên tuân theo quy luật của tự nhiên, mọi sự
học nghệ thuật, để lại cho đời và nền văn học Việt Nam vô
kháng cự với quy luật đều trở nên kệch cỡm”.
vàn tiếc thương và một câu chuyện tình đầy lãng mạn, đậm
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Lưu Quang Vũ chất ngôn tình hiện thực.
Bằng những đóng góp không ngừng nghỉ cho nền văn học
Từ - Đa tài Việt Nam, trong sự nghiệp của hai vợ chồng nữ thi sĩ Xuân
khó - Nhà soạn kịch tài ba Quỳnh, Lưu Quang Vũ cũng gặt hái những giải thưởng nhất
a - Những vở kịch định. Đặc biệt mới đây, google doodle còn trang trọng vinh
+ Vấn đề mới mẻ
danh kỷ niệm tuổi 77 của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh như một cách
+ Ý nghĩa tư tưởng, triết lí
để tri ân những cống hiến của bà cho thơ ca nhân loại. Bà
Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài, sáng tác ở nhiều thể cũng cũng trở thành niềm tự hào của dân tộc khi là người phụ
loại: làm thơ, viết truyện ngắn, vẽ tranh, viết kịch, viết báo... nữ Việt Nam được google vinh danh.
Ở lĩnh vực nào cũng có được những thành tựu đáng kể.
Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 - 29 tháng 8 năm 1988)
Những năm 80 của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ chuyển sang
là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.
sáng tác kịch và trở thành tác giả lớn nhất của nền sân khấu
Trong các vở kịch, truyện ngắn của mình, Lưu Quang Vũ
Việt Nam thế kỉ XX. Ông trở thành hiện tượng của sân khấu
luôn thể hiện được tính hiện thực và nhân văn, còn về thơ ông
kịch trường, được đánh giá là nhà soạn kịch tài năng nhất
lại dồn cảm xúc vào những câu từ bay bổng và khát khao như
của nền văn học hiện đại. Những vở kịch của ông đã thổi vào
để phác hoạ lại từng giai đoạn trong cuộc sống của chính bản
tích xưa một luồng gió mới, đặt ra vấn đề mới mẻ về lẽ sống
thân.
con người và mang đến các giá trị triết lí nhân sinh, ý nghĩa
Chính bởi cuộc sống luôn ảnh hưởng tới giọng văn hay cách
tư tưởng cao đẹp.
biểu đạt câu chữ của mình, nên nhắc tới việc bày tỏ tình cảm
Câu chuyện thú vị về Lưu Quang Vũ: với vợ là nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, ông luôn dành những câu nói
Trong làng văn học Việt Nam, chuyện tình của nhà thơ, nhà đầy mộc mạc, không hoa hòe nhưng cũng không kém phần
viết kịch Lưu Quang Vũ và nữ thi sĩ Xuân Quỳnh từ lâu đã lãng mạn vào trong từng bức thư. Thậm chí sau này khi đọc
trở thành một biểu tượng cho tình yêu đầy ngọt ngào và thơ lại những bức thư tay của LưuQuang Vũ hay Xuân Quỳnh
mộng. gửi cho nhau, nhiều người vẫn khẳng định rằng đây chính
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam là những tư liệu quý giá để họ viết nên những tác phẩm để
có thể cho ra những tác phẩm văn thơ để đời và đi vào lòng đời.
người. Để có được xúc cảm sáng tạo nên cái hồn trong từng
Xuân Quỳnh (6 tháng 10 năm 1942- 29 tháng 8 năm 1988), là
câu từ không quên ấy, hẳn mỗi người đều cần phải có những
một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng
thi cảm, thi hứng từ thực tế cuộc sống.
với loạt thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và
Tương tự đối với sự nghiệp vợ chồng nhà văn, nhà thơ Lưu
Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa.
Quang Vũ và Xuân Quỳnh cũng vậy. Không chỉ trong văn
Thơ Xuân của nữ thi sĩ giàu cảm xúc với những cung bậc
học mà ngoài cuộc sống, chuyện tình của cả hai đã trở thành
khác nhau như chính tính cách luôn hết mình với cuộc sống
một biểu tượng cho tình yêu đầy lãng mạn, thơ mộng và sống
của bà. Những bài thơ khi thì hạnh phúc đắm say, lúc đau
mãi trong lòng bao người. Với họ chất tình trong cuộc sống
khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm
chính là cội nguồn cho sự sáng tác.
thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ.
Có một hiện thực đã xảy ra, chính những lời thơ của bà có
Cũng bởi sự sáng tạo gần gũi và ý nghĩa với cuộc sống, nên
viết:
nhiều tác phẩm của hai vợ chồng bà đã được đưa vào sách
“Chỉ còn em và anh
giáo khoa phổ thông Việt Nam để truyền giảng cho bao thế
Cùng tình yêu ở lại.”
hệ.
Nói về chuyện tình đáng người ngưỡng mộ của Lưu Quang II. THÔNG TIN TÁC PHẨM:
Vũ và Xuân Quỳnh, rất ít người biết rằng họ đến với nhau khi * Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”
cả hai đã từng có một cuộc hôn nhân rạn nứt trước đó. 1.Hoàn cảnh sáng tác:
Chuyện tình cảm của họ thậm chí đã gặp không ít dị nghị, - Khơi nguồn cảm hứng:
cách trở thế nhưng họ vượt qua mọi rào cản về bên nhau, chia + Tình hình xã hội VN những năm 80 của thế kỉ XX và
sẻ với nhau những khó khăn của cuộc sống. công cuộc đổi mới toàn diện bắt đầu diễn ra trên đất nước ta.
Thời ấy, cả hai sống trong căn hộ rộng 6m2 ở 96A phố Huế. + Cảm hứng phê phán những tiêu cực trong xã hội, cuộc
Đó là một gia đình có đầy đủ “con anh, con tôi, con chúng sống, con người của nhiều tác giả.
ta”, nhưng ngôi nhà nhỏ đầy sách vở ấy luôn đầy ắp tiếng + Mượn và viết tiếp truyện dân gian “Hồn Trương Ba da
cười, tràn ngập tình yêu thương. Năm 1976 khi Xuân Quỳnh hàng thịt” với nhiều sáng tạo mới mẻ, hiện đại, sâu sắc.
đi công tác miền Nam, Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh - Thời gian ra đời:
thường xuyên gửi thư cho nhau. Những bức thư tay đầy chất + Vở kịch được viết từ 1981 nhưng mãi đến năm 1984 trong
tình, đầy lãng mạn ấy như là động lực để họ san sẻ tình yêu không khí đổi mới của xã hội và văn học nghệ thuật nó mới
mỗi khi xa cách. được công diễn.
Đọc những dòng thư ấy, dù là kẻ mộng mơ hay thậm chí + Vở kịch nhanh chóng tạo được nhiều thiện cảm cho người
những người luôn khăng khăng nhận định mình sống lí trí đều xem, được công diễn nhiều lần trên các sân khấu trong và
sẽ phải ngưng lại vài đoạn chìm vào trong tình ngoài nước.
yêu nồng nhiệt và mãnh liệt của cả hai. Trong một bức thư
tình, Lưu Quang Vũ có viết: “Em đi đã được một tuần. Nhớ 2. Đoạn trích được học:
em và buồn lắm. Mấy bố con ở nhà vẫn bình thường. Mẹ đi - Vị trí: Nằm ở cảnh 7 + đoạn kết của vở kịch
vắng. Mí cứ quấn bố, tối không chịu xuống bà. Hôm nào cũng - Quá trình vận động của 1 vở kịch: thắt nút => phát triển =>
bảo: bố với em đi đón mẹ đi. Mí ăn được, ngủ được, vẽ thêm cao trào => mở nút.
nhiều tranh mới. Tuấn Anh xuống bác, bà Tuấn Anh vẫn ở Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của vở kịch
đây, ngày nào Tuấn Anh cũng về đi bơi, xong ăn cơm chiều như sau:
với bà hoặc với anh rồi lại xuống bác. Kít thì vẫn về luôn”.  Tình hình xã hội Việt Nam những năm 80 của thế kỉ XX và
Cứ thế suốt 14 năm, tình cảm đối với vợ của Lưu Quang Vũ công cuộc đổi mới toàn diện bắt đầu diễn ra trên đất nước ta.
vẫn như thuở ban đầu, mọi việc nhà mỗi khi vợ đi công tác  Mượn và viết tiếp truyện dân gian “Hồn Trương Ba da hàng
ông đều san sẻ. Còn với Xuân Quỳnh lúc nào bà cũng thổn thịt” với nhiều sáng tạo mới mẻ, hiện đại, sâu sắc.
thức với chồng qua từng câu chữ, trong một bức thư khác bà  1981: Vở kịch bắt đầu được viết.
có nhắn: “Cuộc sống ngắn ngủi, con người chỉ đi qua cuộc  1984: Trong không khí đổi mới của xã hội và văn học nghệ
đời như một vệt sáng rồi biến mất vĩnh viễn”. Sống cùng nhau thuật, vở kịch mới được công diễn và nhanh chóng tạo được
ngần ấy năm nhưng có lẽ với bà chưa bao giờ là đủ. Việc họ nhiều thiện cảm cho người xem, được công diễn nhiều lần
tìm thấy nhau trong một đoạn đường khó khăn, từng có một trên các sân khấu trong và ngoài nước.
đời vợ, một đời chồng có lẽ là điều khiến họ trở nên trân quý
từng khoảnh khắc bên nhau hơn.
NGUYÊN HẰNG, THEO TRÍ THỨC TRẺ
Để hiểu rõ hơn về tác giả Lưu Quang Vũ và vở kịch “Hồn Hoàn cảnh cuộc đời anh với những năm tháng trăn trở, nhiều
Trương Ba da hàng thịt”, các em có thể tham khảo bài báo ưu tư, sống không dễ dàng, cộng với thời điểm lịch sử đặc
dưới đây được ghi bởi PGS. TSKH Bùi Mạnh Nhị: biệt vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX, mở đầu thời kì
đổi mới của đất nước, đã tạo cho Lưu Quang Vũ những
KỊCH LƯU QUANG VŨ: SỨC HẤP DẪN CÒN MÃI cường độ cảm xúc đặc biệt, để thấy “trong ta có những dây
đàn không ai ngờ là có và bao lâu nay im tiếng bây giờ được
1. Lưu Quang Vũ là tài năng thực sự của văn nghệ Việt Nam,
chạm đến ... Vào những lúc ấy ta không còn là những thực
sân khấu Việt Nam. Hồn Trương Ba da hàng thịt của anh
thể cá nhân nữa, chúng ta – là loài giống, giọng nói của toàn
được xem là “quả bom” tại Liên hoan sân khấu thế giới tại
nhân loại thức dậy trong ta” [2]. Và những truyền thống
Matxcơva năm 1986, khiến bạn bè quốc tế sửng sốt trước sân
folklore, những cổ mẫu đã giúp tác phẩm của anh “nói bằng
khấu đương đại Việt Nam. Vở kịch này cũng đã được trình
hàng nghìn giọng”, “khơi dậy trong ta một giọng nói to hơn
diễn tại 30 bang của Mỹ, ở đâu cũng được khen ngợi, hưởng
giọng nói của chính ta”, “nâng cái mô tả từ chỗ ngắn ngủi
ứng. Bên cạnh Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lưu Quang Vũ
một lần và tạm thời lên chỗ tồn tại muôn đời” [3].
còn có những vở diễn nổi tiếng khác. Hiện tượng trong nhiều
Cần nhấn mạnh rằng, truyền thống văn hóa của dân tộc và
năm qua các vở kịch của Lưu Quang Vũ được nhiều đoàn
nhân loại trong kịch Lưu Quang Vũ không còn nguyên dạng
nghệ thuật dàn dựng, nhiều vở, nhiều đạo diễn, diễn viên
như đã từng tồn tại, mà đã biến đổi nhiều.Truyền thống văn
được Huy chương Vàng trong cùng một Hội diễn, khán giả
hóa của dân tộc và nhân loại chỉ là điểm xuất phát. Nhà viết
nô nức tới các nhà hát xem kịch Lưu Quang Vũ, cho đến nay,
kịch đã làm sống lại, làm mới, đem hơi thở thời đại cho các
vẫn là độc nhất vô nhị của sân khấu Việt Nam. Nhiều nhà
truyền thống văn hóa. Các truyện cổ tích hay huyền thoại, dù
nghiên cứu, phê bình đánh giá cao tâm huyết, tài năng của
bớt đi hay gia tăng thêm yếu tố hoang đường, huyền thoại
Lưu Quang Vũ trong văn hóa, nghệ thuật, đánh giá cao tính
cũng đều khoác thêm những lớp mã xã hội, tinh tế và sâu sắc
hiện đại, tính thời sự, tính phản biện và tính dự báo những
truyền vào khối óc, trái tim con người những thông điệp, kí
vấn đề xã hôi nóng bỏng trong kịch của anh, xem anh như
thác về con người và xã hội, về cái tốt, cái đẹp, tình yêu và
một trong những người tiên phong tích cực đóng góp vào sự
lòng chung thủy ...
đổi mới của văn học nghệ thuật nước nhà. Lưu Quang Vũ đã
“Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một ví dụ điển hình. Chủ đề
đưa sân khấu đương đại Việt Nam tới đỉnh cao. Kịch Lưu
truyện cổ tích thể hiện chủ yếu qua hành động nhân vật, chứ
Quang Vũ đã, đang và sẽ tiếp tục đi cùng đất nước, nhân dân,
không phải qua miêu tả, phân tích tâm lí. Nếu truyện dân gian
tiếp tục có sức sống lâu bền, lay động, thức tỉnh những điều
chủ yếu đề cao, tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn đối với thễ
tốt đẹp cho con người và xã hội.
xác, tách rời thể xác và linh hồn, coi thể xác chỉ như vật đỡ để
Thiên tài Isaac Newton từng nói: “Nếu tôi nhìn thấy được xa
mang linh hồn, thì kịch Lưu Quang Vũ đào sâu, mở rộng vấn
hơn bởi vì tôi đứng trên vai những người khổng lồ”. Tôi
đề hơn rất nhiều qua các mảng kịch, tình huống ... Vở kịch đa
muốn mượn tâm sự ấy của I. Newton để lí giải sức hấp dẫn
tầng đa nghĩa. Người ta đã nói nhiều về các cặp phạm trù, các
của của kịch Lưu Quang Vũ. “Những người khổng lồ” mà
đối lập xung quanh mối quan hệ này: thật-giả, nội dung-hình
Lưu Quang Vũ đã dựa vào là ai để có thêm nghị lực, sức
thức, bên trong - bên ngoài, phàm tục - thanh cao, bản năng -
mạnh, nhiệt huyết, tầm cao và sự độc đáo, bứt phá trên con
lí trí. Bi kịch giữa linh hồn và thể xác không thể giải quyết
đường sáng tạo?
bằng chính cách đã tạo ra bi kịch. Con người phải luôn đấu
2. “Người khổng lồ” đầu tiên tôi muốn nói đến là truyền tranh với bản thân mình, cuộc giằng co giữa hai phần trong
thống văn hóa của dân tộc và nhân loại. Truyền thống ấy thể một con người - một cuộc đấu tranh gian khó nhất. Con người
hiện không chỉ ở những kịch bản mượn từ tích truyện dân phải làm chủ những ham muốn, để không bị tha hóa, băng
gian, những bài ca dao, những câu hát đồng dao, mà còn ở hoại, để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác,
hàng loạt cổ mẫu, biểu tượng, ẩn dụ, ngôn từ. Truyền thống vươn tới một nhân cách toàn vẹn. Nhà nghiên cứu Lưu Khánh
ấy cũng thể hiện rất đậm đặc, sâu sắc và tinh tế đến lạ lùng Thơ đã nhận xét đúng: “Vở kịch không chỉ nói đến sự hòa
trong hình thức, nội dung của những bài hát, những dàn đồng hợp và ý thức đạo lí về phần hồn và phần xác mà còn đề
ca vốn đã có từ các thể loại kịch và các vở kịch kinh điển, vĩ cao cuộc đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách người (...),
đại của nhân loại. Sinh ra, lớn lên từ con nhà nòi có truyền không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến
thống văn học, kết bạn thân và làm việc nhiều với các đạo chuyện muôn đời. Đó là triết lí nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm
diễn, nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ “gạo cội” của văn nghệ nước người (...). Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hòa
nhà, lại chịu đọc, chịu đi, lăn lộn với cuộc đời ..., Lưu Quang giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch (...). Cuộc sống chỉ có giá
Vũ có điều kiện để tiếp cận với những truyền thống văn hóa trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong
ấy. Nói cách khác, vốn văn hóa dân tộc và nhân loại của Lưu một thể thống nhất. Vở kịch (...) không chỉ đề cập đến đời
Quang Vũ, như nhiều người nhận xét, khá rộng và sâu. Anh sống của một cá nhân mà còn đặt ra những vấn đề xã hội.
lại là một tài năng văn học.
Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào, Bắc Đẩu đã thơ với văn xuôi. Đều là hai thể loại lớn và khó của văn học.
tước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao Thơ và kịch đều là sự sống và thế giới bên trong của con
chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề người ở dạng tinh chất, cô đọng và mãnh liệt nhất. Đối với
bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia của ông Trương Ba. tôi, kịch cũng là một thứ thơ được trình bày trong không gian
Mọi sự sửa sai không đúng chỗ đều chứa đựng trong nó và thời gian kỳ diệu của sân khấu, thông qua diễn xuất của
nhiều bi kịch hơn là niềm vui” [4]. Và “Cái kết cục đổ vỡ này diễn viên” [6].
không phải chỉ là câu chuyện ngụ ngôn của quá khứ xa xưa, Lưu Quang Vũ là tài năng thơ. Đã có không ít ý kiến: thơ
mà như đang nhắc nhở, nhắn nhủ nguy cơ một cuộc hôn phối Lưu Quang Vũ còn hay hơn và mãnh liệt hơn kịch của anh.
lớn hơn giữa hồn và xác đang tồn tại”[5] Những ý nghĩa đa Tiếng Việt là bài thơ rất hay của anh, đã được đưa vào
tầng ấy đã đưa tác phẩm tới giá trị nhân văn, triết lí mang tầm chương trình, sách giáo khoa phổ thông, thành lời ca khúc.
nhân loại. Anh còn rất nhiều bài thơ hay, đoạn thơ và câu thơ hay khác:
Ông vua hóa hổ cũng là vở kịch xuất sắc của Lưu Quang Vũ.
“ Trên đời này chẳng ai lo cho ta bằng mẹ
Mượn tích truyện “Từ Đạo Hạnh hay là sự tích Thánh Láng”
Cũng chẳng ai ta làm khổ nhiều như mẹ của ta
vốn đậm yếu tố đạo giáo, Lưu Quang Vũ đã đưa câu chuyện,
....
đưa các nhân vật bước vào cuộc sống lịch sử, xã hội, trở lại Dẫu cuộc đời là con đường dài thế
vấn đề của bài học lịch sử, nhân sinh: cái giá phải trả, bi kịch Ta sẽ đi qua mọi đèo dốc chông gai
đau đớn của sự say mê quyền lực, dù đã được cảnh báo, răn Bằng đôi chân của mẹ!
đe. Đây vẫn còn là bài học của muôn đời. Từ Đạo Hạnh muốn - Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới
là vua trị vì thiên hạ, say mê sức mạnh, dám làm bất cứ điều Tôi bỏ ra đi họ ngồi ở lại
gì, bỏ quên gốc rễ của chính cuộc đời ông, dùng lửa ác để thu - Những chữ đẹp xưa giờ tôi đuổi đi rồi
phục lòng người. Ông vua ấy đã phải, đã bị hóa hổ, thành cọp Bao chữ mới đang ầm ầm đạp cửa
dữ, sống trong thân xác cọp, không còn nói được tiếng người. Thơ rộng dài cánh lớn hãy bay đi.
Đến lúc ấy, ông ta mới tỉnh ngộ ra nỗi đau của con người phải -Anh hãy đập vào ngực mình giục giã
Hãy nổi gió cho cánh người rộng mở
mang hình hài thú dữ và ngôi báu sắp bị chính những hạ thần
Và mai sau, sẽ có những nhà thơ
cũng đam mê quyền lực của mình hạ bệ. Hành trình trở lại
Đứng trên tầng cao ta ao ước bây giờ
làm người của ông ta đã phải trả bằng máu, máu của người Họ sẽ vẫn không ngừng đập cửa
thân yêu nhất đã giúp cho cuộc trở lại làm người của ông. Không ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ
“Không dung tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ Bởi vô biên là khát vọng của con người.”
cuộc đời, Càng có sức mạnh, càng ở ngôi cao, lòng nhân ái
càng phải lớn”. Cái tinh chất, bùng nổ, thăng hoa cảm xúc, tư tưởng của thơ
Có thể dẫn ra rất nhiều truyền thống văn hóa của dân tộc và đã giúp nhà viết kịch đồng thời là nhà thơ Lưu Quang Vũ
nhân loại qua những vở kịch khác của Lưu Quang Vũ, những chắt lọc, xây dựng những nhân vật, cuộc đời, tình huống kịch,
vở kịch luôn để khán giả độc thoại, đối thoại, để cười, để những khai từ, mở cảnh, chuyển cảnh và kết cảnh khiến
khóc, suy ngẫm, chiêm nghiệm lại hoặc hình dung tương lai người xem hồi hộp, mê đắm, bàng hoàng. Kịch của anh luôn
mới của con người và xã hội: Lời nói dối cuối cùng, Linh hồn đẩy nhân vật vào những tình huống phải lựa chọn khắc
của đá, Ngọc Hân công chúa, Nàng Sita, Hoa cúc xanh trên nghiệt: sự lựa chọn của đạo lý, sự lựa chọn của trách nhiệm,
đầm lầy, ... Tiếp cận kịch Lưu Quang Vũ từ lý thuyết liên văn bổn phận, trái tim, sự lựa chọn giữa cái sống và cái chết. Anh
bản, mỹ học tiếp nhận hay phân tâm học, cổ mẫu, diễn ngôn... cũng viết nhiều lời ca đẹp, hay như những bài thơ cho nhân
chắc chắn sẽ đem lại nhiều phát hiện thú vị, giàu ý nghĩa xã vật hoặc dàn đồng ca hát, tạo nên hiệu ứng sân khấu đầy hấp
hội, nhân văn. dẫn. Chẳng hạn:
“- Bài hát của các cô gái hái cỏ (Ông vua hóa hổ):
3. “Người khổng lồ” thứ hai mà Lưu Quang Vũ dựa vào: sự Em hóa thành lá cỏ
liên kết. Liên kết các thể loại. Liên kết các yếu tố tạo nên vở Cho người yêu em được trở lại làm người
diễn. Liên kết tạo nên sức mạnh và khác biệt. Nghệ thuật, Em là cỏ không lời
trong bản chất của nó, luôn đòi hỏi sự sáng tạo, khác biệt, độc Cho chàng là Tiếng nói
Cho trí nhớ của con người còn mãi
đáo. Bản thân sân khấu đã là một loại hình nghệ thuật tổng
Không chịu chết dưới thẳm sâu đất tối
hợp. Tính liên kết, tổng hợp trong kịch Lưu Quang Vũ độc
Em hóa thành sắc cỏ để yêu thương,
đáo ở chỗ nào?
- Tiếng đàn, ngâm thơ của Ngọc Hân (Ngọc Hân công
chúa)
Cúc vàng của mùa thu đang hát
Không phải đâu, đấy là nắng của mùa hè
Chính anh đã nói về điều này: “Trong quan niệm của tôi, thơ Không đành ra đi
và kịch rất gần nhau. Có lẽ thơ với kịch còn gần nhau hơn là Trước phút biệt ly
Hóa thành sắc lửa không được là mình? Đâu là hạnh phúc đích thực? Hệ giá trị
Gửi lại lòng anh nỗi nhớ đích thực? Con người có lúc có khi đang làm hỏng cuộc sống
Anh có nghe, anh có nghe và cuộc sống có lúc có khi đang làm hỏng con người, điều
Trăng đang nghiêng xuống vườn khuya quan trọng nhất, “đặt tính cách nhân vặt trong quá trình vận
Hồn của trăng đêm đã hóa thành hương lý
động liên tục theo một quỹ đạo không lường trước được” [7],
Người xa khuất giữa cát trời gió bể
kịch Lưu Quang Vũ luôn rọi sáng con người, nâng cao con
Có nhớ chăng tiếng hát của khu vườn?”
người. Không phải vở kịch nào của Lưu Quang Vũ cũng gây
Lời thoại các nhân vật của Lưu Quang Vũ có nhiều chỗ như
tiếng vang nhưng nhiều vở kịch của anh là những đồng vọng
những lời thơ. Ngôn ngữ kịch của anh, nói như cách của nhà
đã và sẽ còn âm vang dài lâu. Rằng “Không phải mượn thân
văn Nguyễn Tuân: “Văn là nghệ thuật dùng những chữ sinh
ai cả ... Tôi muốn được là tôi toàn vẹn...” (Hồn Trương Ba da
sự để cho sự sinh”, vừa lột tả hết bản chất của vấn đề, nhân
hàng thịt). Rằng, “Mạnh hơn cả quỷ dữ, cao hơn mọi quyền
vật, vừa bắt người ta phải suy nghĩ, đối thoại.Tôi cho rằng,
lực, chỉ có tình yêu và lòng tin vào con người là cứu được
nếu không có tài năng thơ, chưa hẳn các vở kịch của Lưu
con người” (Nàng Sita). Rằng, “Những bông cúc xanh vẫn
Quang Vũ đã có sức hấp dẫn như vậy. Thơ đã góp phần cho
còn kia ... đừng chịu lút trong đầm lầy ... Trong mỗi các bạn
kịch Lưu Quang Vũ chở tư tưởng, linh hồn về thực tại và của
đều có một con người kỳ diệu, đừng để chúng đi, hãy để chính
thực tại nhiều hơn, bay cao, bay xa hơn. Ngược lại, kịch giúp
ta được sống ở trong ta” (Hoa cúc xanh trên đầm lầy). Rằng,
thơ Lưu Quang Vũ trăn trở, day dứt hơn, độc thoại và đối
phải chống lại bệnh quan liêu, tệ tham nhũng, thói vô ơn,
thoại với chính mình, với con người nhiều hơn, có “chữ mới
bệnh hư danh, sĩ diện (Tôi và chúng ta, Nếu anh không đốt
đang ầm ầm đạp cửa” đam mê và mãnh liệt nhiều hơn.
lửa, Bệnh sĩ). Rằng, “Lẽ phải, nhân cách và lòng trung thực
Sự đồng sáng tạo của Lưu Quang Vũ với các đạo diễn, diễn
phải là những giá trị tuyệt đối” (Mùa hạ cuối cùng) ... Bằng
viên, đã được nhiều người nhắc tới. Không những thế, anh
chính tác phẩm của mình, nhất là kịch, Lưu Quang Vũ thuộc
còn đồng sáng tạo với khán giả, biết quan sát, lắng nghe khán
những người tiên phong thúc đẩy sự ra đời của công cuộc Đổi
giả để chỉnh sửa, hoàn thiện, gia tăng ý nghĩa và sức hấp dẫn
mới đất nước. Kinh tế - xã hội chi phối tư tưởng, văn hóa, văn
cho các kịch bản của mình. Như có người đã nói, viết được
học nghệ thuật nhưng tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật
một vở kịch đã khó, đưa vở kịch đến sân khấu còn khó hơn;
cũng góp phần quan trọng thúc đẩy, dẫn dắt sự đổi mới. Kịch
và để sân khấu của vở kịch luôn sang đèn lại còn khó hơn gấp
Lưu Quang Vũ đã không ngần ngại phê phán có trách nhiệm
bội. Chính những liên kết mà tôi đã nói trên đã góp phần
những cơ chế xơ cứng lỗi thời, bệnh quan liêu, say mê quyền
quan trọng làm nhiều vở kịch của Lưu Quang Vũ hơn ba
lực, tệ tham nhũng kìm hãm sự sáng tạo của con người, làm
mươi năm qua vẫn đi cùng năm tháng.
tha hóa đạo đức xã hội, dự báo vượt thời đại những bi kịch,
4. “Người khổng lồ” thứ ba làm bệ đỡ vững chắc cho tài năng cả bi kịch sống ảo trong thế giới hiện đại khi con người phụ
Lưu Quang Vũ chính là quan niệm nghệ thuật, tâm hồn, trái thuộc quá nhiều vào kỹ thuật, công nghệ, quên đời sống thực
tim nghệ sĩ trong chính con người anh. Lưu Quang Vũ là tại, đời sống tâm hồn.
người có khát vọng, có hoài bão lớn về sự sáng tạo. Dù đã có 5. Những “Người khổng lồ” tôi vừa nói, vừa hữu hình vừa vô
những tác phẩm tạo tiếng vang lớn trong nghệ thuật, anh vẫn hình. Và hình như, ai cũng có bên cạnh. Tầm vóc có thể khác
khát khao: nhau. Vấn đề là biết đi tìm, đánh thức và nuôi dưỡng.Tất
“Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất nhiên, không phải ai cũng làm được như thế! Không phải ai
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất cũng biết đứng và đứng được trên vai “người khổng lồ”.
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em” Đứng trên vai “người khổng lồ” để sáng tạo, vươn cao. Để
Kịch Lưu Quang Vũ tham gia tích cực và có trách nhiệm vào vẫn là mình. Phải có khát vọng lớn, tài năng, trái tim nhân
cuộc sống xã hội. Anh luôn đánh thức bản lĩnh, trí tuệ và tâm hậu, bản lĩnh, mới làm được như thế để cống hiến cho đất
hồn người. Không chỉ nêu những vần đề nhức nhối của xã nước, nhân dân, nhân loại. Lưu Quang Vũ trong cuộc đời có
hội, anh dám ủng hộ những cái mới, tiến bộ. Dù có đi vào nhiều vất vả, thiệt thòi nhưng anh đã có hạnh phúc ấy. Sức
những đề tài, vấn đề nóng bỏng của thời sự đất nước, anh vẫn hấp dẫn của kịch Lưu Quang Vũ còn dài lâu!
rất chú ý những vấn đề muôn thuở của con người, xã hội. Và
đây cũng là điểm khác biệt của anh. Phải có khát vọng sáng Hà Nội, tháng 7 năm 2018
tạo mạnh mẽ, “phông” văn hóa, tài năng và trái tim nhân hậu, B. M. N.
luôn trăn trở về cuộc sống, con người, về thế thái nhân tình,
trách nhiệm xã hội cao, mới sáng tạo được những tác phẩm
như vậy.
Vang lên trong các vở kịch của anh (Hoa cúc xanh trên đầm
lầy, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Mùa hạ cuối cùng, Linh hồn của
đá, Điều không thể mất, vv...) những câu hỏi: Con người sao
Nhận xét về tác giả và tác phẩm:  Diễn biến cuộc đối thoại:
- Trương Ba “ôm đầu”, bứt tóc, u uất.
1. Không ai bằng Vũ trong biệt tài làm nên cái muôn thuở - Độc thoại, kết hợp cùng lúc 3 từ phủ định liên tiếp:
trong cái đời thường, biến cổ tích, huyền thoại thành truyện “không... không...không” bằng một giọng điệu dứt khoát.
thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ => Hồn Trương ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối,
để khẳng định cái cao quý. (Giáo sư Phan Ngọc) đau khổ. Lời thoại của Hồn là các câu cảm thán ngắn, lời văn
dồn dập, hối thúc.
2. Kịch bản Lưu Quang Vũ nồng đượm hơi thở của đời sống
- Xác hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật với giọng điệu
với những vấn đề thời sự được phát hiện tươi rói.
châm chọc, mỉa mai, đầy thách thức khiến Hồn càng thấy xấu
(Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái)
hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác trên đà thắng thế nên rất hả hê
3. Cảm hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng tuôn ra những lời thoại dài, khi thì cười nhạo, khi thì lên mặt
về con người, về cái đẹp, cái thiện ... khát vọng chính của anh dạy đời, chỉ trích.
là khát vọng hoàn thiện cuộc sống, hoàn thiện con người. Cho  Nhận xét:
nên vượt qua những đề tài có tính chất thời sự, kịch của anh - Trong cuộc đối thoại, xác thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn
hướng tới những giá trị nhân đạo bền vững lâu dài. đuổi hồn Trương Ba:
(Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng) + Chủ động tuyên chiến khi hồn khao khát được tồn tại
riêng mình, độc lập.
4. Hạt giống gieo vào mảnh đất tốt gặp thời tiết thuận hòa, lại + Thách thức, giễu cợt, mỉa mai hồn “có đấy, xác thịt có
có một nội lực khỏe đã nhanh chóng phát triển. Và bóng rợp tiếng nói đấy”, “có thật thế không?”
của tài năng Lưu Quang Vũ trùm lên che mát cả một cùng sân + Cao giọng, khoái trí đòi hồn phải trả lời thành thật.
khấu rộng lớn và trải dài đất nước trong một thập niên. + Xác lợi khẩu khi đưa ra lí lẽ mềm dẻo trong thuyết phục,
(Ngô Thảo) tranh luận.
=> Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự
5. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào
chi phối khủng khiếp của nó .
cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hòa
- Hồn Trương Ba dần trở thành người đuối lí trong cuộc đối
giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống
thoại:
chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được
+ Từ chỗ cao giọng phủ nhận: vô lí mày không thể biết nói,
sống trong một thể thống nhất. (PGS.TS Lưu Khánh Thơ -
mày không có tiếng nói đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói.
em gái nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nhận xét về triết lí sâu
+ Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra
sắc về sự vay mượn thân xác của hồn Trương Ba)
những bằng chứng về sức mạnh sai khiến của nó đến chỗ
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: không dám trả lời, lúng túng trong những câu nói đứt quãng.
+ Từ chỗ hăng hái đấu lí đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra
đến chôc bịt tai lại “ta không muốn nghe mày nữa”.
+ Từ cách xưng hô “mày - ta” vào đầu cuộc đối thoại.
+ Từ mạnh mẽ đầy khí thế đấu tranh đến tiếng kêu “trời”
tuyệt vọng và dáng dấp bần thần.
=> Cuộc đối thoại này cũng cho thấy sự ngộ nhận của hồn về
chính mình sau bấy
nhiêu chuyện đã xảy ra đối với gia đình và bản thân.
 Ý nghĩa của màn đối thoại:
- Linh hồn và thể xác có mỗi quan hệ hữu cơ.
1. Màn đối thoại giữa hồn TB và xác HT: - Cái xấu sẽ dễ lấn át khi sống trong dung tục.
- Linh hồn phải luôn luôn đấu tranh với ham muốn của thể
- TB đã chết một cách vô lí do sự vô tâm và tắc trách của xác để hoàn thiện bản thân.
Nam Tào nhưng sự “sửa sai” của Nam Tào và Bắc Đẩu theo
lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương
Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn: linh
hồn phải trú nhờ trong một thể xác khác.
=> Tại đây, ý thức được điều này, linh hồn Trương Ba đã dằn
vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi
xác thịt để tồn tại độc lập.
Phân tích chi tiết: Xác lợi khẩu khi đưa ra lý lẽ mềm dẻo trong thuyết phục,
tranh luận: khi thì sử dụng lý lẽ, lúc đưa ra bằng chứng, khi
TB đã chết một cách vô lý do sự vô tâm và tắc trách của Nam thò cao giọng, thách thức, lúc buồn rầu thanh minh, khi thì
Tào nhưng sự “sửa sai” của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời đắc ý tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu, an ủi, vừa dụ dỗ, mua
khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba chuộc, vừa trắng trọn, phỉ bám. Thật vậy, xác đã chứng tỏ
lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn: linh hồn được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự chi phối khủng
phải trú nhờ trong một thể xác khác. Do phải sống nhờ thể khiếp của nó bằng kết cục màn đối thoại là “cái hồn ương
xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một bướng” lại tìm về chỗ trú thân là xác anh hàng thịt.
số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong
sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia nay vì phải Hồn Trương Ba dần trở thành người đuối lí trong cuộc đối
sống mượn, gá, lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những thoại. Từ chỗ cao giọng phủ nhận: vô lí mày không thể biết
không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt nói, mày không có tiếng nói đến chỗ chấp nhận xác có tiếng
mà trái lại còn bị xác hàng thịt sai khiến. Đáng sợ hơn, linh nói nhưng đó là tiếng nói của bản năng thấp kém, tầm
hồn TB dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường xác thịt anh thường. Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra
đồ tể. Ý thức được điều đó linh hồn TB dằn vặt đau khổ và những bằng chứng về sức mạnh sai khiến của nó đến chỗ
quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại không dám trả lời, lúng túng trong những câu nói đứt quãng:
độc lập. “ta...ta đã bảo mày im đi”, “nhưng... nhưng”. Từ chỗ hăng
hái đấu lý đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra đến chôc bịt tai
Hồn TB cho rằng: “ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, lại “ta không muốn nghe mày nữa”. Từ cách xưng hô “mày
trong sạch, thẳng thắn”, xác “không có tiếng nói”, “không có - ta” vào đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra khi cuộc
tư tưởng”, “không có cảm xúc”, “chỉ là xác thịt âm u đui đối thoại ở vào hồi kết:“…ấy đấy ông bắt đầu gọi tôi là anh
mù”, nếu có tiếng nói thì đó chỉ là tiếng nói của con thú, tiếng rồi đấy”. Từ mạnh mẽ đầy khí thế đấu tranh đến tiếng kêu
nói của bản năng. Xác hàng thịt khẳng định: “ông không tách “trời” tuyệt vọng và dáng dấp bần thần, tội nghiệp nhập lại
khỏi tôi được đâu dù tôi chỉ là thân xác”. Lí lẽ mà xác đưa ra thân xác anh hàng thịt cho người đọc cảm giác dường như
là “hai ta đã hòa với nhau làm một rồi” “ông phải tồn tại nhờ hồn đã bị dồn vào con đường cụt, không lối thoát, đành phải
tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Hồn chấp nhận sự an bài, hòa thuận “hồn TB da hàng thịt”. Cuộc
chẳng có cách nào chối bỏ được xác vì xác là hoàn cảnh mà đối thoại này cũng cho thấy sự ngộ nhận của hồn về chính
hồn buộc phải quy phục, là “cái bình để chứa đựng linh hồn”. mình sau bấy nhiêu chuyện đã xảy ra đối với gia đình và bản
Xác chứng minh ảnh hưởng ghê gớm của mình, đôi khi át cả thân. Hồn vẫn cho rằng mình nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
cái linh hồn cao khiết bằng những dẫn chứng cụ thể: “khi ông thắn, mọi tội lỗi đều do thân xác gây ra.
ở bên nhà tôi, khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi
thở nóng nực, cổ nghẹn lại”, “món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác rõ ràng hiện lên với
và đủ thứ thú vị khác”, “cơn giận của ông lại có thêm sức ưu thế của kẻ nắm giữ sự thắng thế, chứng tỏ được uy quyền
mạnh của tôi đã làm cho ông tát thằng con trai tóe máu mồm chi phối khủng khiếp của nó với linh hồn, nó cũng cho thấy
máu mũi”. Hồn phủ nhận những dẫn chứng xác nêu ra không sự ngộ nhận về chính mình khi hồn cho rằng “Ta vẫn có một
phải là hành động xuất phát từ ý thức của mình: “Đấy là mày đời sống riêng trong sạch, nguyên vặn, thẳng thắn...”. Tuy
chứ, chân tay mày, hơi thở mày”. nhiên, cả hai đều bộc lộ sự cực đoan bởi con người có hai
Trước những đánh giá, công kích mình thấp kém, xác tìm phần hồn và xác – đó phải là một thể thống nhất, bất cứ sự
kiếm giải pháp cho sự tồn tại hòa bình mang tên “hồn Trương chênh lệch nào cũng sẽ nảy nòi bi kịch. Linh hồn và thể xác
Ba da hàng thịt” bằng “trò chơi tâm hồn”. Luật chơi là: hồn vốn không tách rời được nhau, cuộc tranh đấu giữ hồn và xác
cứ nghĩ là mình cao khiết thánh thiện, làm điều gì xấu cứ đổ là cuộc đấu tranh giữ cao cả và dục vọng, thấp hèn giữa phần
tội cho xác để được thanh thản, bù lại hồn sẽ làm đủ mọi việc con và phần người. Đó chính là lời cảnh cáo sâu xa của Lưu
để thỏa mãn những khát thèm của xác. Hồn cho rằng đó là Quang Vũ. Khi con người sống quá lâu trong môi trường
những lí lẽ ti tiện, không thể chấp nhận được. dung tục ắt bị cái dung tục chi phối, không thể có một tâm
Trong cuộc đối thoại, xác thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi. Khi con
hồn Trương Ba. Xác chủ động tuyên chiến khi hồn khao khát người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì đừng đổ tội
được tồn tại riêng mình, độc lập, thách thức, giễu cợt, mỉa cho thân xác. Không thể tự an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình
mai hồn “có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy”, “có thật thế của tâm hồn, do đó phải bảo vệ, hoàn thiện nhân cách con
không?” Sau đó cao giọng, khoái trí đòi hồn phải trả lời thành người đó là một vấn đề lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã
thật, xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình. Đồng thời cũng tỏ hội.
ra thấu hiểu từ điệu bộ lúng túng bên ngoài đến những biện
luận bên trong tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của hồn.
2. Màn đối thoại giữa TB và những người thân: Sự kiện Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt được
những người thân của ông tiếp nhận theo nhiều cách khác
 Sự kiện TB sống lại trong thân xác anh hàng thịt được nhau Người vợ yêu thương chồng, có thể quên dần với cái
những người thân của ông tiếp nhận theo nhiều cách khác hình hài xa lạ kia nhưng không thể chấp nhận sự đổi thay của
nhau linh hồn Trương Ba. Bà đã âm thầm đau khổ và quyết định sẽ
- Người vợ: không thể chấp nhận sự đổi thay của linh hồn “đi biệt” bởi “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba
Trương Ba. làm vườn ngày xưa”. Cái Gái - đứa cháu nội mà ông vô cùng
- Cái Gái: phản ứng quyết liệt và dữ dội: “tôi không phải yêu quý, với tâm hồn trẻ thơ, trong sáng thì phản ứng quyết
cháu của ông”, “ông nội tôi chết rồi”. liệt và dữ dội: “tôi không phải cháu của ông”, “ông nội tôi
- Người con dâu: hiểu chuyện nhưng cũng đau khổ, bất lực và chết rồi”, “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non,
tuyệt vọng. chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý
=> Rõ ràng trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba đã không mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy!” Tâm
còn là mình, tất cả những người thân đã nhận thấy và đau hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường,
đớn, lo lắng, bàng hoàng, bế tắc khi nói ra điều đó. dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác người
 Tâm trạng, cảm xúc của Trương Ba: hàng thịt thô lỗ. Chính những lời nói thành thực, ngây thơ của
- Hồn Trương Ba đau đớn tột cùng: con trẻ đã giúp hồn Trương Ba nhận thức rõ ràng hơn bao giờ
+ Vì ông mà những người thân phải khóc: hết sự thay đổi của chính mình. Thậm chí, người con dâu
+ Vì ông mà nhà cửa tan hoang, con trai định bán khu vườn luôn quý trọng Trương Ba cũng đau khổ, bất lực: “con cảm
để mở cửa hàng thịt, vợ định bỏ đi thật xa để ông thảnh thơi thấy đau đớn...mỗi ngày một đổi khác dần, mất mát dần, tất
với cô vợ hàng thịt. cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con
=> Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc, chấp nhận sự thắng thế của cũng không nhận ra nữa...làm sao giữ được thầy ở lại, hiền
xác. Những câu độc thoại nội tâm, tự vấn đã đưa ông đến hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”. Rõ
quyết định: không cần đời sống do mày mang lại. ràng trong thân thể anh hàng thịt, TB đã không còn là mình,
=> Tất cả đã dẫn tới hành động đứng dậy, lập cập nhưng quả tất cả những người thân đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng,
quyết châm lửa, thắp hương để gọi Đế Thích. bàng hoàng, bế tắc khi nói ra điều đó. Thể xác đang xâm
chiếm, lấn át, tha hóa linh hồn ấy.

Biết mình như vậy trong mắt người thân, hồn Trương Ba đau
đớn tột cùng. Vì ông mà những người thân phải khóc: người
vợ dưng dưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua
chát, dằn dỗi, đứa cháu gái òa khóc tức tưởi không hiểu sao
ông nội thân yêu gần gũi lại trở thành một người “xấu lắm, ác
lắm”, chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế
tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không
biết phải làm thế nào. Vì ông mà nhà cửa tan hoang, con trai
định bán khu vườn để mở cửa hàng thịt, vợ định bỏ đi thật xa
để ông thảnh thơi với cô vợ hàng thịt. Ông thẫn thờ, ôm đầu
bế tắc cầu cứu đứa cháu gái, ông run rẩy trong nỗi đau, ông
lặng ngắt như tảng đá để rồi nhận thấy: “mày đã thắng thế rồi
đấy, cái thân xác của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để
lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua chát đã
dẫn đến quyết định dứt khoát, đẩy tình huống vào độ căng
quyết liệt hơn. Những câu độc thoại nội tâm đã phơi trải cơn
bão tố dữ dội và đau đớn trong cuộc đấu tranh giành giật lại
bản thân mình từ bàn tay thô bạo của con quỷ dữ bản năng.
Tất cả đã dẫn tới hành động đứng dậy, lập cập nhưng quả
quyết châm lửa, thắp hương để gọi Đế Thích.

Phân tích chi tiết:


3. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích: Con người là một thực thể thống nhất, toàn vẹn, hài hòa của
- Quan điểm: cái “bên trong” (tâm hồn) và cái “bên ngoài” (thể xác), sự
+ Đế Thích: sống bằng mọi giá. khập khiễng của hồn Trương Ba da hàng thịt và cái giá mà nó
+ Trương Ba: không thể sống bằng mọi giá. phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo
- Giải pháp Đế Thích đưa ra: như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết khát
+ Tiếp tục sống trong các anh hàng thịt đưa ra. vọng: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. “Là tôi toàn vẹn” -
+ Sống nhờ vào các cụ Tị. dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình cũng có nghĩa là
- Trương Ba quyết định: dám từ bỏ “trò chơi tâm hồn” mà mình đã tự biện minh để
+ Trả xác cho anh hàng thịt. tìm kiếm sự thanh thản giả tạo. Đừng ngộ nhận rằng sẽ có
+ Xin cho cu Ti sống lại. một linh hồn thanh cao trong một
+ Chấp nhận cái chết. thân xác phàm tục, tội lỗi, cũng đừng “đô vẩy” cho thân xác
- Ý nghĩa của các lời thoại: khi chạy theo ma lực âm u, đui mù xui khiến của bản năng,
+ Từ chỗ ngộ nhận “ta vẫn có một đời sống riêng trong thoát li thân xác tâm hồn chỉ còn là một thứ siêu hình, là một
sạch, nguyên vẹn, thẳng thắn” đến chỗ dứt khoát “không vật trang sức, còn rời bỏ tâm hồn thân xác chỉ còn là tiếng gọi
thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”; từ lời của hoang dã. Như vậy sống thực cho ra con người thật là
nói “cái bên ngoài không đáng kể, chỉ có cái bên trong” không dễ, sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là
đến việc ý thức “sống nhờ vào đồ đạc của người khác...ông mình trọn vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào là kiểu sống vô
chẳng cần biết”... nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng, ham
+ Con người là một thực thể thống nhất, toàn vẹn, hài hòa sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi người,
của cái “bên trong” (tâm hồn) và cái “bên ngoài” (thể xác), nếu chỉ vì muốn sống mà phải trả giá quá đắt bằng cả tâm hồn
sự khập khiễng của hồn TB da hàng thịt và cái giá mà nó thì nhất định không thể sống như vậy được.
phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả Chỉ với ba lời thoại, hồn Trương Ba đã trở lại là mình nguyên
tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết vẹn, trong sạch, thẳng thắn để rồi dẫn đường cho những quyết
khát vọng: “tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. định đau đớn, nghiệt ngã nhưng trong sáng và tất yếu. Khi Đế
+ “Là tôi toàn vẹn” - dám là mình, dám chịu trách nhiệm về Thích sửa sai bằng một giải pháp khác ít tệ hại hơn là cho hồn
mình cũng có nghĩa là dám từ bỏ “trò chơi tâm hồn” mà Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên quyết
mình đã tự biện minh để tìm kiếm sự thanh thản giả tạo. từ chối, không chấp nhận cảnh sống giả tạo mà theo ông chỉ
=> Như vậy sống thực cho ra con người thật là không dễ, có lợi cho đám chức sắc, không chấp nhận kiểu sống mà theo
sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là mình trọn ông còn khổ hơn cái chết. Ông xin ĐT cho cu Tị sống lại, trả
vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào là kiểu sống vô nghĩa. lại xác cho anh hàng thịt, còn mình thì không nhập vào hình
thù ai nữa. Lựa chọn của TB là tất yếu, đó là sự lựa chọn
Phân tích chi tiết: dũng cảm, chấp nhận cái chết, chấp nhận hư vô để “được là
tôi toàn vẹn”. Tất yếu bởi Trương Ba đã thấm thía cái bi kịch
Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối
đau đớn của cảnh không được là mình. Tất yếu bởi Trương
từ, không chấp nhận cảnh phải sống bên trong một đằng, bên
Ba đã ngộ ra, nhận thức về lẽ sống. Tất yếu bởi đó là kết quả
ngoài một nẻo nữa và muốn mình là mình một cách toàn vẹn.
của cuộc đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt
Những lời đối thoại đã thể hiện rõ quyết tâm đó. “Không thể
lên nghịch cảnh.
bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo được, tôi muốn là tôi
Qua màn đối thoại, tác giả phê phán quan niệm sống và tình
toàn vẹn”. “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã
trạng sống của con người. Đó là bi kịch của một con người
là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải
không được sống đúng là mình, sống thật với mình, phải sống
sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi
nhờ vả, chắp vá. Tác phẩm đồng thời đề cập đến một triết lý sâu
sống, còn tôi sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.
sắc về lẽ sống làm người: cuộc sống thật đáng quý nhưng không
Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá đắt phải sống thế nào cũng được. Con người phải luôn đấu tranh với
quá, không thể trả được. bản thể để vươn tới sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng
Từ chỗ ngộ nhận “ta vẫn có một đời sống riêng trong sạch, tới sự hoàn thiện về nhân cách. Trong hành trình cải cách xã hội,
nguyên vẹn, thẳng thắn” đến chỗ dứt khoát “không thể bên với tinh thần chiến đấu thẳng thắng, Lưu Quang Vũ đã góp phần
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”; từ lời nói “cái bên phê phán những biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ.
ngoài không đáng kể, chỉ có cái bên trong” đến việc ý thức Được sống làm người là đáng quý song được sống đúng là mình,
“sống nhờ vào đồ đạc của người khác...ông chẳng cần biết”... sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có còn quý giá hơn. Con
Đó là một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của hồn người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính
Trương Ba mà để đến được nhân vật đã phải trải qua những bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn
trải nghiệm bế tắc, đau đớn nhất. tới những giá trị tinh thần cao quý.
4. Màn kết: 5. Đặc sắc nghệ thuật:
- Trương Ba trở về nguyên vẹn, trong sáng" như xưa. - Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách,
- Cu Tị hồi sinh, cháu gái lại tự hào về ông mình. góp phần phát triển tình huống truyện.
- Hình ảnh, kỉ niệm về Trương Ba mãi ghi dấu những ấn - Ngôn ngữ đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí, tạo
tượng tốt đẹp. chiều sâu cho vở kịch.
=> Thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện cái đẹp và của Những đoạn độc thoại nội tâm góp phần thể hiện rõ tính cách
sự sống đích thực. nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.
- Tình huống kịch, mâu thuẫn xung đột căng thẳng, hợp lí, kết
Phân tích chi tiết: thúc bất ngờ, tự nhiên và ấm áp tình người.
Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến của vở
kịch đi đến chỗ cao trào và mở nút. Hồn Trương Ba có sự lựa
chọn sáng suốt. Ông kiên quyết từ chối nhập vào xác cu Tị.
Vì như thế sẽ tiếp tục sống tạm bợ, giả dối, gây ra nhiều
phiền toái và bi kịch: Ông sẽ sống như thế nào trong thân xác
một đứa trẻ lên 10? Sẽ giải thích thế nào với chị Lụa? Xử sự
ra sao với vợ con, cái Gái? Ông sẽ trở thành một kẻ lạc lõng,
cô đơn, “một kẻ lý ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ
khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi lộc trời”. Hồn Trương
Ba còn bộc lộ tấm lòng nhân hậu, thanh cao khi trả lại thân
xác cho anh hàng thịt để anh ta sống hòa thuận được với thân
anh ta để vợ chồng hàng thịt hạnh phúc. Cao thượng hơn,
Trương Ba xin Đế Thích cho cu Ti sống lại.
Ông hiểu nỗi đau của chị Lụa khi mất con. Ông hiệu sâu sắc
cái lẽ ở đời “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá
gượng ép chỉ càng làm sai thêm” . Chỉ có cách là đừng bao
giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc dùng khác.
Trương Ba chấp nhận cái chết, thân xác không còn những
tâm hồn thanh thản vì ông đã mang lại hạnh phúc cho
nhiều người. Đó chính là ý nghĩa nhân bản và là quan niệm
sống tích cực mà vở kịch mang lại.
Sau khi thoát khỏi xác hàng thịt, hồn Trương Ba lại trở về
vẹn nguyên trong tâm trí những người thân: nhân hậu, cao
thượng, sáng suốt, giàu lòng tự trọng, biết sống vì hạnh
phúc của người khác. Đoạn kết của vở kịch mở ra một khung
cảnh thanh bình: khu vườn tràn đầy màu xanh, những đứa trẻ
nâng niu quả ngọt, hạt chuẩn bị gieo... Màn kết giàu chất thơ
đem lại âm hưởng thanh thoát cho vở kịch, đồng thời truyền
đi thông điệp về sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện và sự
sống đích thực.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO: 2. Kết bài:

1. Mở bài: KB1:
Còn gì đau khổ hơn khi phải sống trong tình cảnh bên trong
MB1: một đằng, bên ngoài một nẻo như Trương Ba? Thấm thía!
Có những khoảnh khắc, con người ta bị dồn đẩy đến những bi Ngậm ngùi! Chấp nhận giải thoát để được là “tôi toàn vẹn”!
kịch tận cùng phải tự tìm ra con đường giải thoát cho chính Từng lời thoại của vở kịch “Hồn Trương ba, da hàng thịt”
mình. Sợ hãi, đau khổ, tủi hờn, bao nhiêu những hoài nghi về như chất chứa bao trăn trở, suy tư của người viết về cuộc đời,
cuộc đời, khi tháng ngày phía sau đây lại là những bi kịch con người. Và sau tất cả, Lưu Quang Vũ, với đôi mắt nhìn
nối tiếp bi kịch. Có nhiều nhà văn, đã đẩy bi kịch và trong tác đời tỉnh táo, đã để nhân vật của mình được giải thoát, để
phẩm của mình như vậy, để cho nhân vật trải qua biết bao cuộc đời của Trương Ba mãi là một cuộc đời có nghĩa. Còn
nhiêu những xúc cảm “hỉ, nộ, ái ố” đều đủ cả. Trương Ba – bạn, bạn chọn một cuộc sống thực hay chọn sự tồn tại vô
nhân vật chính trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nghĩa?
đã để lại biết bao nhiêu những cảm xúc trong lòng người đọc
bởi tất cả những đau đớn trong bi kịch mà họ phải trải qua, là KB2: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được biết đến là một vở
bi kịch của một đời người, là bi kịch của một số phận, là bi kịch hấp dẫn, có giá trị sâu sắc, thể hiện rõ thế giới quan và
kịch của cả một thời đại mà nhân vật ấy sống, thật đáng nhân sinh quan của nhà viết kịch tài hoa Lưu Quang Vũ. Tác
thương biết bao! phẩm khép lại nhưng đã đặt ra những câu hỏi để người đọc,
người nghe tự vấn bản thân, rằng: ta đã sống đúng là ta toàn
MB2:
vẹn chưa, ta đã hết mình tự đấu tranh để hoàn thiện nhân cách
Trương Ba – mọi chuyện qua rồi, ông đã nhất định không
chư? Tư tưởng triết lí vừa biện chứng, vừa lạc quan, cao
sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và cuối cùng,
thượng của Lưu Quang Vũ thể hiện qua “Hồn Trương Ba, da
ông cũng đã tự giải thoát được cho cuộc đời của mình, để mọi
hàng thịt” sẽ là những bài học mãi gây ấn tượng trong lòng
thứ được trở về đúng chỗ của nó. Lưu Quang Vũ thật tài tình
mỗi chúng ta.
biết mấy, khi cứ thờ ơ dửng dưng như vậy khi viết về bi kịch
của nhân vật trong tác phẩm của mình. Như đâm vào trái tim
bạn đọc, thế nhưng cũng nhẹ nhàng dùng bàn tay xoa dịu hết
bao đau thương. Biết bao nhiêu năm trôi qua rồi, mà những
tấn bi kịch về con người như Trương Ba vẫn được nhắc hoài,
nhắc mãi như thế, gửi gắm thông điệp nhân đạo cao cả của
người nghệ sĩ tài năng.

MB3:
Thôi ngừng van xin cuộc đời, bởi lẽ cuộc đời vẫn thường tàn
nhẫn đem đến cho người ta những bi kịch đớn đau như vậy.
Thôi đừng mong mỏi sẽ có phép màu xảy ra, khi ta chỉ đi
sống nhờ, sống dựa , vay mượn những thứ không phải của
mình để phục vụ lợi ích của bản thân mình. Con người không
toàn vẹn vậy thì chính xác sẽ chẳng bao giờ thống nhất được.
Đó là bi kịch của ông Trương Ba, trong tác phẩm “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
Những bi kịch văn học cứ tự nhiên như vậy, gây ám ảnh
trong lòng người đọc với những day dứt không nguôi và
câu hỏi đó, vẫn còn nơi đây bỏ ngỏ: “Sống thế nào, cho ra
một con người?”.

You might also like