You are on page 1of 5

Câu 9: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng?

Ý nghĩa phương pháp luận


của mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?

I. Khái niệm bản chất và hiện tượng

– Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong
sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.

– Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản chất của sự vật, hiện
tượng ra bên ngoài.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện
chứng như sau:

1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống.

– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có nhận thức được
hay không.

Lý do là vì:

+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những
mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối
ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.

+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở bên trong sự
vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.

+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng
cũng tồn tại khách quan.

2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.

– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó hết
sức chặt chẽ với nhau.

– Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.

Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:

+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những
hiện tượng tương ứng.

+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của
bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.

Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần
túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu
hiện của một bản chất nhất định.

– Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.

Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì
hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động, phát triển
của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều
hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.

3. Tuy thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn.

– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.

Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.

Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua sự tương tác của sự
vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh
hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.

Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên bản chất.

– Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là một sự
thống nhất mang tính mâu thuẫn.

Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:

+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Còn
hiện tượng phản ánh cái cá biệt.

Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự
biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.

Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ
thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại,
bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.

+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện tượng là mặt bên
ngoài của hiện thực khách quan ấy.

Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có mà dưới
hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một
phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.

– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định, nó luôn luôn trôi qua,
biến đổi nhanh hơn so với bản chất.

Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự vật khác lại thường
xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra đời cho đến lúc mất
đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

– Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.

Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải vạch ra được bản chất
của sự vật

Còn trong hoạt động tực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng.
– Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở
bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh
những nhận định chủ quan, tùy tiện.

– Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên ngoài thông qua các
hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện
tượng.

– Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau từ
nhiều góc độ khác nhau.

Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến, nhiều khi xuyên
tạc bản chất.

Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao giờ có thể xem xét hết
được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, ta phải ưu tiên xem xét trước hết các
hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình.

Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật. Mà đó
mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày
càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu,
không có điểm dừng.

Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức thận trọng.

Câu 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực? Dấu hiệu chính để phân biệt
khả năng và hiện thực là gì? Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này?

I. Khái niệm khả năng và hiện thực

1. Khái niệm:

– Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới nhưng nó sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện thích hợp.

Ví dụ: Ông X đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Ở đây có khả năng của một ngôi nhà.

– Khả năng thực tế, Khả năng hình thức,

– Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.

Ví dụ: Chiếc xe đạp bạn A đang đi là hiện thực. + Hiện thực khách quan:+ Hiện thực chủ quan:

-dấu hiệu căn bản để phân biệt giữa khả năng với hiện thực là ở chỗ khả năng là cái hiện chưa có và
sẽ có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

1. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn
chuyển hóa lẫn nhau.

– Sở dĩ như vậy vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng hướng tới biến thành hiện
thực.

Trong thực tế, quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành hiện thực, còn
hiện thực này lại sản sinh ra những khả năng mới. Cả khả năng mới ấy trong những điều kiện thích
hợp lại biến thành hiện thực mới.
Sự chuyển hóa cứ tiếp diễn mãi như vậy, tạo thành quá trình vô tận.

– Để khả năng biến thành hiện thực cần có vai trò của các điều kiện khách quan và chủ quan.

Quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là một quá trình khách quan.

Nói “chủ yếu” là vì trong tự nhiên không phải mọi khả năng đều biến thành hiện thực một cách tự
phát.

Ở đây có thể phân ra 03 trường hợp:

+ Thứ nhất: Loại khả năng mà điều kiện đển biến chúng thành hiện thực chỉ có thể có bằng con
đường tự nhiên. Ví dụ: Các trường hợp động đất, sóng thần, núi lửa…

+ Thứ hai: Loại khả năng có thể biến thành hiện thực bằng con đường tự nhiên cũng như nhờ sự tác
động của con người. Ví dụ: Để thuyền buồm vượt biển đến đúng cảng A, cần có gió và sự điều khiển
của con người.

+ Thứ ba: Loại khả năng mà bắt buộc có sự tham gia của con người để biến thành hiện thực. Ví dụ:
Việc chế tạo ô-tô, ti-vi…

Trong lĩnh xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn biến thành hiện thực còn cần
có các điều kiện chủ quan. Đó là hoạt động thực tiễn của con người. Ở đây, khả năng sẽ không bao
giờ biến thành hiện thực nếu không có sự tham gia của con người.

Hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó
có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực. Nó cũng có thể điều
khiển khả năng phát triển theo hướng này hay theo hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích
ứng.

2. Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.

– Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại một số khả năng chứ
không phải chỉ có một khả năng.

Ví dụ: Ông X đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Có khả năng xuất hiện một ngôi nhà, đồng thời
cũng có khả năng xuất hiện một cái kho.

– Ngoài một số khả năng vốn có ở sự vật trong những điều kiện có sẵn nào đó, khi có thêm những
điều kiện mới thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm một hoặc nhiều khả năng mới.

Đó là do với sự xuất hiện của những điều kiện mới, về thực chất, một hiện thực mới phức tạp hơn đã
xuất hiện do sự tác động qua lại giữa hiện thực cũ và điều kiện mới. Từ đó làm cho số tương tác tăng
thêm và dẫn đến làm tăng thêm khả năng mới.

3. Sự biến đổi của mỗi khả năng.

– Mỗi khả năng không phải là không thay đổi. Nó tăng lên hay giảm đi tùy thuộc vào sự biến đổi của
sự vật trong những điều kiện cụ thể.

Ví dụ: Khả năng diễn ra biểu tình ở một quốc gia lớn hay thấp là tùy theo mức độ mâu thuẫn giữa
người dân với chính quyền lớn hay thấp.

– Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần có không chỉ một điều kiện mà là một
tập hợp các điều kiện. Tập hợp đó được gọi là điều kiện cần và đủ, nếu có nó thì khả năng nhất định
biến thành hiện thực.
III. Ý nghĩa phương pháp luận

- trong một sự vật tồn tại nhiều khả năng nên cần phải lựa chọn khả năng phù hợp hạn chế khả năng
xấu

- cần phải nhận thức được khả năng tiềm tàng trong sự vạt để nắm bắt xu thế phát triển của nó.

-tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt đọng nhận thứcvà thực tiễn để biến khả năng thành
hiện thực theo mục đích nhất định

You might also like