You are on page 1of 10

BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG

I. Khái niệm Bản chất và Hiện tượng.


- Bản chất và Hiện tượng là cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa hai khái niệm Bản chất và Hiện
tượng.
- Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình
qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
- Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của
bản chất đối tượng.
Ví dụ: Một trong những bản chất của ánh sáng là sóng, hiện tượng là sự giao thoa
bước sóng (quan sát được).

* Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung.

- Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với
cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc. Tuy nhiên
bản chất và quy luật không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện
một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy
luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật
- Cái tạo nên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của
các sự vật đó.
- Nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Vì bản chất chỉ là cái
chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
* Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật.

- Tức là, tổ hợp những quy luật quyết định sự vật động, phát triển của sự vật chính
là bản chất của sự vật ấy. Lê-nin viết: “Quy luật và bản chất là những khái niệm
cùng một loại (cùng một bậc), hay nói đúng hơn là cùng một trình độ…”
Ví dụ: Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật này chi phối toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ
nghĩa tư bản. Đồng thời, quy luật này cũng là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản
chất đó cho thấy chủ nghĩa tư bản luôn có mục tiêu sản xuất giá trị thặng dư càng
nhiều càng tốt.
– Tuy cùng trình độ, nhưng bản chất và quy luật không hoàn toàn đồng nhất với
nhau. Phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật:
+ Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại, ổn định giữa các hiện
tượng hay giữa các mặt của cùng một hiện tượng.
+ Còn bản chất là tổng hợp tất cả những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở
bên trong sự vật, tức là ngoài những mối liên hệ chung, nó còn những mối liên hệ
riêng chỉ nó mới có.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa Bản chất và Hiện tượng.
1. Bản chất và Hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống.
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay không.
Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy
tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản
chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại
ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy,
nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
2. Sự thống nhất
- Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà
người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên
ngoài. Biểu hiện là:
- Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là
sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại
thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn
không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này

“ Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản


chất ”
- Lenin
- Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở
những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác
nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng
biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó
cũng mất theo.
- Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận
động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có
thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của
những hiện tượng ấy.
3. Sự mâu thuẫn.
a. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.
- Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản là phù hợp với nhau,
nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
- Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua
sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh
này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của
hiện tượng những thay đổi nhất định.
→ Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y
nguyên bản chất.

“ Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất


trí với nhau thì tất thảy khoa học sẽ trở nên
thừa ”
- Các Mác
b. Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và
hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển
của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ
hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
+ Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh
của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc
bản chất hoặc phản ánh không đúng bản chất. (ví dụ: Hiện tượng khúc xạ, ảo ảnh).
→ Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác
nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
“ Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến
mất, không bám "chắc", không "ngồi vững" bằng "bản
chất" ”
- Lenin

* Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định,
nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
- Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản
chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động
qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
- Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự
vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi,
trong khi bản chất vẫn giữ nguyên.
- Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra
đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so
với hiện tượng.
III. Ý nghĩa phương pháp luận.
1. Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại
ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
- Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải
vạch ra được bản chất của sự vật.
- Còn trong hoạt động tực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện
tượng.
+ Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra
bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. Khi kết luận
về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
+ Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
2. Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện
tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
- Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải
biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
- Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao giờ
có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, ta
phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
- Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản chất
của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào
nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật là
một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng.
→ Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức
thận trọng.

KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC


I. Khái niệm Khả năng và Hiện thực.
1. Khái niệm.
- Khả năng và hiện thực là cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa hai khái niệm Khả năng và Hiện
thực.
- Khả năng là phạm trù phản ánh tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành
của hiện thự mới, là cái có thể có nhưng ngay lúc này chưa có. Hiện thực là phạm
trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và là cơ sở để thực hiện
những khả năng mới.
- Đơn giản hơn, ta có thể hiểu khả năng là cái hiện chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ
xảy ra khi có điều kiện thích hợp, hiện thực là cái đang có, hiện đang tồn tại thật
sự.
Ví dụ: + Ông A đã chuẩn bị xi măng, thép, cát,.. ám chỉ khả năng của một ngôi
nhà.
+ Chiếc xe đạp bạn A đang đi là hiện thực. Suy nghĩ của bạn B về một bộ
phim hay cũng là hiện thực.
Do tất cả những gì đang tồn tại thực sự đều được coi là hiện thực nên ta cần phân
biệt:
+ Hiện thực khách quan: Chính là thế giới vật chất đang tồn tại khách quan.
+ Hiện thực chủ quan: Là ý thức, tư tưởng đang tồn tại trong mỗi con người.
2. Phân loại khả năng:
Tùy giác độ chúng ta lựa chọn mà có các loại khả năng khác nhau. Một số loại khả
năng hay gặp như:
– Khả năng thực tế là những khả năng do các mối liên hệ tất nhiên quyết định,
xuất hiện từ bản chất bên trong của sự vật và khi có đầy đủ điều kiện sẽ trở
thành hiện thực.
Ví dụ: Trong mỗi hạt thóc có khả năng thực tế hạt thóc sẽ thành cây lúa.
- Khả năng hình thức, hay khả năng ảo, khả năng trừu tượng là những khả năng do
các mối liên hệ ngẫu nhiên, quan hệ bên ngoài mang đến và chưa có đủ điều kiện
để chuyển hóa thành hiện thực. 
Ví dụ: Khả năng con người trúng sổ xố là khả năng ảo. Khả năng này biến
thành hiện thực chỉ là do ngẫu nhiên, may mắn.
- Ngoài các khả năng chính trên đây, ta còn có thể phân loại thành:
+ Từ góc độ xác suất lớn hay nhỏ xảy ra: Khả năng chủ yếu và khả năng thứ yếu.
+ Xét theo sự liên quan đến lợi ích của con người: Khả năng tốt và khả năng xấu.
+ Khi xét tới sự tương tác giữa các khả năng: Khả năng cùng tồn tại và khả
năng loại trừ lẫn nhau.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khả năng và hiện thực có mối
quan hệ biện chứng như sau:
1. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, không tách rời nhau, luôn chuyển hóa lẫn nhau.
- Sở dĩ như vậy vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng hướng tới
biến thành hiện thực.
Trong thực tế, quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành
hiện thực, còn hiện thực này lại sản sinh ra những khả năng mới. Cả khả năng mới
ấy trong những điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới.
Sự chuyển hóa cứ tiếp diễn mãi như vậy, tạo thành quá trình vô tận.
– Để khả năng biến thành hiện thực cần có vai trò của các điều kiện khách quan và
chủ quan.
Quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là một quá trình khách quan.
Nói “chủ yếu” là vì trong tự nhiên không phải mọi khả năng đều biến thành hiện
thực một cách tự phát.
Ở đây có thể phân ra 3 trường hợp:
+ Thứ nhất: Loại khả năng mà điều kiện đển biến chúng thành hiện thực chỉ có thể
có bằng con đường tự nhiên. Ví dụ: Các trường hợp động đất, sóng thần, núi lửa…
+ Thứ hai: Loại khả năng có thể biến thành hiện thực bằng con đường tự nhiên
cũng như nhờ sự tác động của con người. Ví dụ: Để thuyền buồm vượt biển đến
đúng cảng A, cần có gió và sự điều khiển của con người.
+ Thứ ba: Loại khả năng mà bắt buộc có sự tham gia của con người để biến thành
hiện thực. Ví dụ: Việc chế tạo ô-tô, ti-vi…
Trong lĩnh xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn biến thành
hiện thực còn cần có các điều kiện chủ quan. Đó là hoạt động thực tiễn của con
người. Ở đây, khả năng sẽ không bao giờ biến thành hiện thực nếu không có sự
tham gia của con người.
Hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất to lớn trong việc biến khả năng
thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi khả năng
thành hiện thực. Nó cũng có thể điều khiển khả năng phát triển theo hướng này hay
theo hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích ứng.
2. Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.
– Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại một số
khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng.
Ví dụ: Ông A đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Có khả năng xuất hiện một ngôi
nhà, đồng thời cũng có khả năng xuất hiện một cái kho.
- Ngoài một số khả năng vốn có ở sự vật trong những điều kiện có sẵn nào đó, khi
có thêm những điều kiện mới thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm một hoặc nhiều khả
năng mới.
Đó là do với sự xuất hiện của những điều kiện mới, về thực chất, một hiện thực
mới phức tạp hơn đã xuất hiện do sự tác động qua lại giữa hiện thực cũ và điều
kiện mới. Từ đó làm cho số tương tác tăng thêm và dẫn đến làm tăng thêm khả
năng mới.
3. Sự biến đổi của mỗi khả năng.
– Mỗi khả năng không phải là không thay đổi. Nó tăng lên hay giảm đi tùy thuộc
vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
Ví dụ: Khả năng diễn ra biểu tình ở một quốc gia lớn hay thấp là tùy theo mức độ
mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền lớn hay thấp.
Do đó, muốn cho một khả năng nào đấy phát triển biến thành hiện thực thì phải tạo
cho nó các điều kiện thích hợp tương ứng.
– Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần có không chỉ một điều
kiện mà là một tập hợp các điều kiện. Tập hợp đó được gọi là điều kiện cần và đủ,
nếu có nó thì khả năng nhất định biến thành hiện thực.
Ví dụ: Để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra cần một tập hợp các điều kiện sau:
+ Giai cấp thống trị không thể giữ nguyên sự thống trị dưới dạng cũ nữa.
+ Giai cấp bị trị bị bần cùng hóa quá mức bình thường.
+ Tính tích cực của quần chúng tăng lên đáng kể.
+ Giai cấp cách mạng có đủ năng lực chỉ đạo, tổ chức những hành động cách mạng
mạnh mẽ, đủ sức đập tan chính quyền cũ.
Thiếu một trong các điều kiện trên, cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể nổ ra.

III. Ý nghĩa phương pháp luận


1. Trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào thực tế nhưng cũng cần
tính đến các khả năng.
– Trong hoạt động thực tiễn, việc quyết định, trù tính các kế hoạch cần dựa và hiện
thực chứ không thể dựa vào khả năng. Vì hiện thực là cái đang thực sự tồn tại, còn
khả năng là cái chưa có.
Ta cần phải thấy rõ sự khác biện về chất giữa khả năng và hiện thực. Nếu lẫn lộn
giữa khả năng và hiện thực, ta sẽ phải gánh hậu quả tai hại trong thực tiễn.
– Tuy nhiên, nói như vậy không phải là bỏ qua, xem thường khả năng. Mà ta phải
tính đến các khả năng để đề ra chủ trương, kế hoạch, bởi khả năng biểu hiện
khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai.
Nếu ta tách rời khả năng và hiện thực, chúng ta sẽ không thấy khả năng tiềm ẩn
trong sự vật, dẫn đến không dự đoán được tương lai phát triển của sự vật. Hoặc sẽ
không thấy khả năng có thể biến thành hiện thực, do đó không tạo ra những điều
kiện thiết yếu để thúc đẩy hoặc ngăn cản sự chuyển biến tùy theo mục đích của
mình.
2. Thực hiện quy trình, cách thức xác định các khả năng trong thực
tiễn.
– Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức khoa học nói riêng là phải tìm
ra, xác định cho được các khả năng phát triển của sự vật.
– Khi xác định các khả năng, ta cần chú ý:
+ Chỉ có thể tìm ra các khả năng phát triển của sự vật trong chính bản thân sự vật
ấy chứ không thể ở nơi nào khác. Vì khả năng là do sự vật gây nên và tồn tại trong
sự vật.
+ Chỉ có thể căn cứ vào tương quan lực lượng giữa các mặt ở bên trong sự vật, vào
mâu thuẫn nội tại trong nó, và vào những điều kiện bên ngoài để dự kiến khuynh
hướng phát triển của khả năng.
Sở dĩ là do khả năng nảy sinh vừa do tác động qua lại giữa các mặt ở bên trong sự
vật, vừa do sự tác động của sự vật với hoàn cảnh bên ngoài.
+ Vì khả năng tồn tại trong chính bản thân sự vật, gắn bó chặt chẽ với sự vật nên ra
dễ nhầm lẫn khả năng với hiện thực. Để tránh nhầm lẫn, ta cần lưu ý: Hiện thực là
cái đã có, đã tới, còn khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới.
+ Chúng ta không được tách rời khả năng khỏi hiện thực. Lý do là vì khả năng nằm
ngay trong hiện thực, gắn bó chặt chẽ với hiện thực.
3. Tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng.
Sau khi xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của hoạt động thực
tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ này, ta cần lưu ý:
– Trong hoạt động thực tiễn cần tính đến mọi khả năng có thể có để dự án các kế
hoạch hành động, dù những khả năng đó là tốt hay xấu, tiến bộ hay lạc hậu. Chỉ có
như vậy ta mới tránh rơi vào bị động trong thực tiễn.
– Trong số các khả năng hiện có của sự vật, cần trước hết chú ý đến khả năng tất
nhiên, đặc biệt là các khả năng gần, vì đó là những khả năng dễ biến thành hiện
thực hơn cả.
– Vì một khả năng chỉ biến thành hiện thực khi có đủ những điều kiện cần thiết,
nên cần chủ động tạo ra những điều kiện cần và đủ để có được hiện thực theo
mong muốn.
– Trong lĩnh vực xã hội, phải có sự tham gia của con người (nhân tố chủ quan) để
khả năng biến thành hiện thực. Nên tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn, ta
cần tạo mọi điều kiện để nhân tố con người tham gia tích cực vào quá trình biến
đổi hoặc ngăn cản sự biến đổi khả năng thành hiện thực.
Ở đây, ta cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Tức là chỉ cần có con người là khả
năng sẽ biến thành hiện thực.
+ Xem thường nhân tố chủ quan. Tức là không tin tưởng vào năng lực của con
người trong việc biến khả năng thành hiện thực.

You might also like