You are on page 1of 9

MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I

MÔN: NGỮ VĂN LỚP 11 - CHƯƠNG TRÌNH: CHUẨN


THỜI GIAN LÀM BÀI: 90 PHÚT
Mức độ nhận thức %
Vận dụng Tổng Tổng
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng
cao điểm

TT Thời Thời Thời Thời Thời
năng Tỉ Tỉ Tỉ Tỉ Số
gian gian gian gian gian
lệ lệ lệ lệ câu
(phút (phút (phút (phút (phút
(%) (%) (%) (%) hỏi
) ) ) ) )
1 Đọc 15 10 10 5 5 5 0 0 04 20 30
hiểu

2 Viết 5 5 5 5 5 5 5 5 01 20 20
đoạn
văn
nghị
luận

hội
3 Viết 20 10 15 10 10 20 5 10 01 50 50
bài
nghị
luận
văn
học
Tổng 20
40 25 30 20 30 10 15 06 90 100
Tỉ lệ % 20
40 30 10 100
Tỉ lệ 70 30
100
chung
TRƯỜNG THPT CHUYÊN HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
CHU VĂN AN KIỂM TRA GIỮA KÌ I, NĂM HỌC: 2022-2023,
TỔ: NGỮ VĂN MÔN: NGỮ VĂN 11, CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN
THỜI GIAN: 90 PHÚT

A. KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG


1. Kiến thức
Hệ thống lại những kiến thức về các phần: Đọc văn, tiếng Việt và Làm văn  trong
chương trình Ngữ văn 11 giữa kì I.
2. Kỹ năng
- Củng cố kiến thức cơ bản về tiếng Việt, Làm văn; Kiến thức văn học: Văn học trung
đại Việt Nam (đã học trong chương trình giữa kì I).
- Kiểm tra mức độ nắm và vận dụng kiến thức Ngữ văn của HS.
- Vận dụng các kỹ năng: nhận biết; thông hiểu, vận dụng (phân tích đề, lập dàn ý, viết
bài) để làm được một bài kiểm tra trong thời gian 90 phút.

B. NỘI DUNG ÔN TẬP


I. CẤU TRÚC ĐỀ:
1. Thời lượng: 90 phút
2. Dung lượng: 2 phần
- Phần đọc hiểu (3,0 điểm)
- Phần làm văn (7,0 điểm):
+ Nghị luận xã hội (2,0 điểm)
+ Nghị luận văn học (5,0 điểm)
II. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM:
1. PHẦN ĐỌC – HIỂU

- Đọc hiểu theo các mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận
dụng.
1 Kĩ năng
- Đọc hiểu văn bản: 4 câu/1 văn bản (Nhận biết: 2 câu;
thông hiểu: 1 câu; vận dụng:1 câu)

Đọc hiểu các văn bản/đoạn trích thuộc thể loại thơ trung đại,
2 Phạm vi kí trung đại, nghị luận trung đại, văn tế trung đại, hát nói
trung đại (ngữ liệu ngoài sách giáo khoa)
3 Yêu cầu - Xác định đề tài, hình tượng nhân vật trữ tình trong bài
thơ/đoạn thơ; xác định thông tin được nêu trong văn
bản/đoạn trích; Xác định được mục đích, đối tượng của bài
văn tế; cảm xúc, thái độ của tác giả; Nhận diện được bố cục
của bài hát nói; phương thức biểu đạt, thành ngữ, điển cố,
hình ảnh, chi tiết,... trong văn bản/đoạn trích; Xác định được
đề tài, cốt truyện, các chi tiết, sự việc tiêu biểu... trong văn
bản/đoạn trích; Nhận diện về nhân vật, hành động kịch, xung
đột kịch,... trong văn bản/đoạn trích.
- Nhận diện được phương thức biểu đạt, thể thơ, các biện
pháp tu từ, thành ngữ, điển cố, từ ngữ, hình ảnh... trong bài
thơ/đoạn thơ.
- Hiểu nghĩa của từ/câu thơ trong ngữ cảnh; hiểu những đặc
sắc về nội dung và nghệ thuật, đặc điểm thể loại của văn
bản/ đoạn trích.
- Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của văn bản/đoạn trích;
bày tỏ quan điểm của bản thân về vấn đề đặt ra trong văn
bản/đoạn trích.
- Rút ra thông điệp/bàihọc cho bản thân.

2. PHẦN LÀM VĂN


2.1 NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (khoảng 150 chữ)
a/ Kiểu bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí/ Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
b/ Kỹ năng:
Nhận biết:
- Xác định được tư tưởng, đạo lí/ Hiện tượng đời sống cần bàn luận.
- Xác định được cách thức trình bày đoạn văn.
Thông hiểu:
- Diễn giải về nội dung, ý nghĩa của tư tưởng, đạo lí/ Hiểu được thực trạng, nguyên nhân, các
mặt lợi – hại, đúng – sai của hiện tượng đời sống.
Vận dụng:
- Vận dụng các kĩ năng dùng từ, viết câu, các phép liên kết, các phương thức biểu đạt, các thao
tác lập luận phù hợp để triển khai lập luận, bày tỏ quan điểm của bản thân về tư tưởng, đạo
lí/hiện tượng đời sống.
Vận dụng cao:
- Huy động được kiến thức và trải nghiệm của bản thân để bàn luận về tư tưởng đạo lí/ hiện
tượng đời sống.
- Có sáng tạo trong diễn đạt, lập luận làm cho lời văn có giọng điệu, hình ảnh, đoạn văn giàu
sức thuyết phục.
2.2 NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
a/ Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ/đoạn thơ.
b/ Kỹ năng:
Nhận biết:
- Xác định được kiểu bài nghị luận, vấn đề nghị luận.
- Giới thiệu tác giả, bài thơ, đoạn thơ.
- Nêu nội dung cảm hứng, hình tượng nhân vật trữ tình, đặc điểm nghệ thuật nổi bật... của bài
thơ/đoạn thơ.
Thông hiểu:
- Diễn giải những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ/đoạn thơ theo yêu cầu của đề:
những tâm sự về con người và thời thế; nghệ thuật xây dựng hình ảnh, thể hiện cảm xúc, sử
dụng ngôn ngữ...
- Lí giải được một số đặc điểm của thơ trung đại được thể hiện trong bài thơ/đoạn thơ.
Vận dụng:
- Vận dụng các kĩ năng dùng từ, viết câu, các phép liên kết, các phương thức biểu đạt, các thao
tác lập luận để phân tích, cảm nhận về nội dung, nghệ thuật của bài thơ/đoạn thơ.
- Nhận xét về nội dung, nghệ thuật của bài thơ/đoạn thơ; vị trí, đóng góp của tác giả.
Vận dụng cao:
- So sánh với các tác phẩm khác; liên hệ với thực tiễn; vận dụng kiến thức lí luận văn học để
đánh giá, làm nổi bật vấn đề nghị luận.
- Có sáng tạo trong diễn đạt, lập luận làm cho lời văn có giọng điệu, hình ảnh, bài văn giàu sức
thuyết phục.
c/ Đơn vị kiến thức:
* Bài thơ TỰ TÌNH (Hồ Xuân Hương)
- Tâm trạng bi kịch, tính cách và bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.
- Khả năng Việt hóa thơ Đường: dùng từ ngữ độc đáo, sắc nhọn; tả cảnh sinh động; đưa ngôn
ngữ đời thường vào thơ ca.
* Bài thơ CÂU CÁ MÙA THU (Nguyễn Khuyến)
- Vẻ đẹp của bức tranh mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ; tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm
trạng của tác giả.
- Sự tinh tế, tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh và trong cách sử dụng ngôn từ của Nguyễn
Khuyến.
* Bài thơ THƯƠNG VỢ (Trần Tế Xương)
- Hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang, giàu đức hi sinh và ân tình sâu nặng cùng tiếng cười tự
trào của Tú Xương.
- Phong cách Tú Xương: cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, kết hợp giữa trữ tình
và trào phúng.
* Bài thơ BÀI CA NGẤT NGƯỞNG (Nguyễn Công Trứ)
- Con người Nguyễn Công Trứ thể hiện trong hình ảnh “ông ngất ngưởng”, tiêu biểu cho mẫu
người tài tử hậu kì văn học trung đại Việt Nam.
- Phong cách sống, thái đõ sống của tác giả
* Bài thơ BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN CÁT (Cao Bá Quát)
- Sự bế tắc, chán ghét con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm khao khát đổi thay.
- Thành công trong việc sử dụng thể thơ cổ thể.
ĐỀ MINH HỌA
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc bài thơ:
THÓI ĐỜI
Thế gian biến cải vũng nên đồi;
Mặn nhạt, chua cay, lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử;
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thực;
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
Ở thế, mới hay người bạc ác:
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.
(Trích Bạch Vân quốc ngữ thi tập - Bài 71, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ.
Câu 2. Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ 3 -4 của bài thơ:
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử;
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về nội dung, ý nghĩa của hai câu thơ 3-4 của bài thơ ?
Câu 4. Trình bày suy nghĩ của anh/chị về thái độ của tác giả thể hiện trong bài thơ.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Anh/chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về
lối sống chân thật của con người trong thời đại ngày nay.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích bài thơ “Tự tình 2” của Hồ Xuân Hương. Từ đó liên hệ đến hình ảnh của
người phụ nữ trong xã hội hiện nay.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non,
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
( Dẫn theo Ngữ văn 11, tập 1, trang 19, NXB Giáo dục Việt Nam)

---Hết---
I. ĐỌC HIỂU:
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm
Câu 2:
- Phép đối: ‘còn – hết’.
- Điệp từ: ‘còn’, ‘hết’.
- Liệt kê: + bạc, tiền, đệ tử.
+ cơm, rượu, ông tôi.
Câu 3:
Đệ tử, chỉ những kẻ dưới quyền, tay chân, thuộc hạ sống bám vào việc tâng bốc cấp trên. Kẻ
đãi bôi, kẻ nói lời ngon ngọt lấy lòng, không thật, xảo ngôn, cho thấy sự thật một trạng thái về
bộ mặt của người đời, nơi đó, đầy rẫy những kẻ hám danh vụ lợi, tầm thường, vì miếng cơm,
manh áo quên điều nhân nghĩa.
Câu 4:
Qua bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thấy sự thật một trạng thái về bộ mặt của người đời, nơi
đó, đầy rẫy những kẻ hám danh vụ lợi, tầm thường, vì miếng cơm, manh áo quên điều nhân
nghĩa, dù trong tận đáy lòng, con người cũng biết trọng điều chân thật, ghét sự dối trá, gian
manh; mà chỉ những tâm hồn sống từng trải nếm qua mọi cảnh đời mới thấu hiểu được. Cuộc
đời luôn thay đổi, thăng trầm đầy vơi với mọi cảnh ngộ. Đâu đó vẫn còn những suy nghĩ tâm
lý, thói đời vụ lợi và phù thịnh, quên nhân nghĩa. Tuy nhiên, thiện ý của con người xưa nay ưa
chân thật, ghét gian ngoan. Chính vì thế, chỉ sống ở đời, trải qua nhiều biến cố gian truân, mới
rõ được nhân tình thế thái. Cảnh đời cứ như thế, luôn biến đổi tang thương, trong đó con người
cũng từng trải qua bao cảnh ngộ đa đoan, trớ trêu, đau khổ và hạnh phúc… Nhưng không phải
con người luôn giữ được bản chất thiện lương của mình. Mỗi thay đổi cũng xuất hiện đầy rẫy
những cảnh ngộ lọc lừa, phản phúc, trắng trợn đến mức tàn nhẫn, phũ phàng.
II. LÀM VĂN:
Câu 1:
Lối sống chân thật là phẩm chất và lối sống mỗi người đều cần trang bị cho bản thân trong
cuộc sống. Sống chân thật là sống thành thật với lòng mình, đối xử với tất cả mọi người xung
quanh bằng tấm lòng chân thành và hướng tới những giá trị thật và bền vững. Những người
sống chân thật với lòng mình sẽ luôn theo đuổi những giá trị cuộc sống bền vững và có ý nghĩa
thay vì những hư vinh hão huyền chẳng bền lâu. Những con người này thực sự đáng quý vì họ
đối xử với chính bản thân và người xung quanh bằng tấm lòng trắc ẩn và chân thành. Họ luôn
lan tỏa yêu thương và lòng tử tế nhằm giúp cho xã hội được tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Hơn
nữa, những người có lối sống chân thật thì luôn hiểu bản thân mình khao khát điều gì và sẵn
sàng dấn thân đam mê và theo đuổi đam mê ấy. Những người sống chân thật ấy cũng là những
người vô cùng dũng cảm vì họ dám thành thật với lòng mình mà đối xử với bản thân và những
người xung quanh bằng sự tử tế nhất. Tóm lại, lối sống chân thật là lối sống đẹp mà mỗi người
đều cần có trong cuộc sống để hướng tới những giá trị hạnh phúc và bền vững trong đời.
Câu 2:
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt
Nam, được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”. Bà là một “thiên tài kì nữ” nhưng cuộc đời đầy
éo le, bất hạnh. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà vẫn rất
trữ tình. Một trong những bài thơ tiêu biểu về tâm trạng, nỗi đau của người phụ nữ trước duyên
phận cuộc đời mình là Tự tình II. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật.
Tự tình II là bài thơ thuộc chùm thơ Tự tình gồm ba bài của bà. Đây là chùm thơ nữ sĩ viết
để tự kể nỗi lòng, tâm tình của mình. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thơ thất
ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ thể hiện thái độ, tâm
trạng vừa đau đớn, vừa phẫn uất trước thực tại đau buồn, tuy vậy, bà vẫn gắng gượng vươn lên,
nhưng rồi vẫn rơi vào bi kịch. Dựa vào nội dụng bài thơ, ta có thể đoán bài thơ được sáng tác
khi bà đã gặp phải những éo le, bất hạnh trong tình duyên.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh người phụ nữ không ngủ, một mình ngồi giữa đêm khuya:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Giữa đêm khuya, người phụ nữ thao thức không ngủ được và nàng nghe thấy âm thanh
trống canh dồn dập. Đêm khuya là thời gian của hạnh phúc lứa đôi, của sum họp gia đình, vậy
mà ở đây, trớ trêu thay, người phụ nữ lại đơn độc một mình. Nàng cô đơn quá nên thao thức
không ngủ, nàng nghe tiếng trống canh văng vẳng. Từ láy này miêu tả âm thanh từ xa vọng lại.
Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, người đọc cảm nhận được không gian đêm khuya tĩnh lặng, im
lìm và người phụ nữ thật cô đơn, tội nghiệp. Trong xã hội xưa, tiếng trống canh dồn – tiếng
trống dồn dập khẩn trương – có lẽ vì nàng đang ngồi đếm thời gian và lo lắng thấy nó trôi qua
một cách dồn dập, tàn nhẫn. Nó chẳng cần biết tuổi xuân của nàng sắp tuột mất mà nàng thì
vẫn đang phải trơ cái hồng nhan ra giữa nước non. Dường như, nỗi cô đơn, xót xa ấy luôn dày
vò nữ sĩ nên thời gian trở thành nỗ ám ảnh không nguôi trong tâm hồn bà. Trong chùm Tự tình,
nỗi ám ảnh về thời gian còn hiện hữu trong âm thanh tiếng gà. Người phụ nữa ấy cũng trằn trọc
cho đến sáng để rồi nghe âm thanh tiếng gà văng vẳng gáy trên bom mà đau đớn, mà oán hận.
Ở đây, hồng nhan là nhan sắc của người phụ nữ vẫn còn ở độ mặn mà, cái mà bất cứ ai cũng
trân trọng. Thế mà nó lại kết hợp với từ cái – một danh từ chỉ loại thường gắn với những thứ
vật chất nhỏ bé, tầm thường. Nàng tự thấy nhan sắc của mình quá nhỏ bé, rẻ rúng bởi nó chẳng
khác gì một thứ đồ vật vô giá trị, chẳng ai đoái hoài đến. Nó phải trơ ra, phô ra, bày ra một
cách vô duyên, vô nghĩa lý giữa đất trời. Từ trơ đứng đầu câu cho ta cảm nhận được nỗi xót xa,
đau đớn, tủi khổ, bẽ bàng của người phụ nữ một mình giữa đêm khuya, không ai quan tâm,
đoái hoài. Tuy có bẽ bàng, tủi hổ nhưng ta vẫn thấy ẩn khuất trong câu thơ một nữ sĩ mạnh mẽ,
cá tính dám đem cái tôi cá nhân để đối lập với cả nước non rộng lớn. Hồ Xuân Hương là thế,
không bao giờ chịu bé nhỏ, yếu mềm. Hai câu đầu bằng cách khắc họa thời gian, không gian,
nghệ thuật và cách kết hợp từ độc đáo đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng trước
tình duyên hẩm hiu của chính mình.
Hai câu thực khắc họa sâu sắc sự phẫn uất trước tình cảnh éo le:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Giữa đêm khuya, cô đơn và buồn tủi, nàng tìm đến rượu để quên đi tất cả nhưng nào quên
được say lại tỉnh. Say, có thể quên đi được một chốc, nhưng đâu có thể say mãi, rồi sẽ lại tỉnh
ra. Tỉnh ra lại càng ý thức sâu sắc hơn nỗi cô đơn, xót xa lại càng buồn hơn. Ẩn sau cái hành
động tìm đến rượu để giải tỏa nỗi sầu là có niềm phẫn uất sâu sắc trước số phận bất hạnh. Cụm
từ say lại tỉnh cho thấy cái bế tắc, quẩn quanh trong nỗi buồn, cô đơn của người phụ nữ. Nàng
cô đơn nên tìm đến vầng trăng bên ngoài kia mong sự đồng cảm. Nàng thấy vầng trăng đã xế
bóng khuyết chưa tròn. Nàng nhìn thấy số phận bất hạnh của mình trong hình ảnh vầng trăng:
nàng cũng đã ở tuổi xế chiều mà tình duyên vẫn hẩm hiu, lận đận chưa tròn. Ở hai câu này,
bằng phép đối, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nữ sĩ đã khắc họa nên tâm trạng bế tắc mà phẫn uất
sâu sắc trước duyên phận hẩm hiu, lỡ làng.
Sang hai câu luận, dường như sự phẫn uất ấy biến thành sự chống trả kịch liệt:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Hai câu thơ được cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ là những động từ mạnh lên đầu câu: xiên
ngang và đâm toạc là hành động của những vật vô tri vô giác. Trong tự nhiên, rêu là sự vật bé
nhỏ, yếu mềm, thế mà ở đây dường như nó mạnh mẽ hơn, cứng cỏi thêm để xiên ngang mặt
đất. Đá là vật biến động, thế mà ở đây cũng đang to hơn, nhọn hơn, đang cựa quậy, nổi loạn
phá tan không gian tù túng bị giới hạn bởi chân mây. Hình ảnh thiên nhiên động, thiên nhiên
nổi loạn này không chỉ xuất hiện một lần mà còn có trong nhiều những tác phẩm khác của bà.
Lí giải cho sự xuất hiện những hình ảnh thiên nhiên như thế là ở cá tính mạnh mẽ của nữ sĩ.
Thiên nhiên được miêu tả thể hiện rõ tâm trạng con người, như đại thi hào Nguyễn Du từng đúc
kết về mối quan hệ giữa cảnh và tình: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cảnh được miêu tả
là nổi loạn, là phá bỉnh thể hiện tâm trạng người phụ nữ lúc nào cũng muốn nổi loạn, quẫy đạp
để phá tan số phận bất hạnh, tình duyên hẩm hiu của mình. Dường như, người phụ nữ đang
gồng mình lên để chống trả kịch liệt số phận. Đó chính là thái độ phản kháng mạnh mẽ của nữ
sĩ trước thực tại đau buồn. Đằng sau sự phản kháng mạnh mẽ ấy là khao khát sống, khao khát
hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt của nữ sĩ. Hai câu thơ, với phép đối, phép đảo nhấn mạnh hai động
từ mạnh đầu câu và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cho thấy sự cố gắng vươn lên đấu tranh với số
phận; đồng thời cho thấy khát khao sống, khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ở nữ sĩ xinh
đẹp, tài năng mà cuộc đời không ưu ái. Người đọc thật sự khâm phục trước bản lĩnh cứng cỏi,
không chịu đầu hàng số phận của người phụ nữa cá tính ấy.
Đến hai câu cuối bài thơ, tuy nàng đã cố gắng vươn lên nhưng không thoát khỏi cái thở dài
ngán ngẩm trước bi kịch:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Nàng thở dài ngán nỗi. Nàng chán ngán bởi xuân đi xuân lại lại. Mùa xuân và vẻ đẹp của nó
phai đi nhưng rồi sẽ quay trở lại theo quy luật của tạo hóa. Nhưng xuân của người phụ nữ, tuổi
trẻ và sắc đẹp của nàng thì không thể nào trở lại thêm một lần nữa, tuổi xuân của đời người ra
đi, thế nên nàng ngán. Cụm từ lại lại như một sự thở dài ngao ngán trước sự trôi chảy tàn nhẫn
của thời gian. Nó cứ trôi đi không thèm để ý đến cái bi kịch đang cướp đi tuổi trẻ của nàng:
mảnh tình san sẻ. Tình yêu của nàng vốn dĩ mỏng manh, bé nhỏ, chỉ là một mảnh, thế mà còn
phải san sẻ, chia năm sẻ bảy ra thật tội nghiệp. Bởi bậy mà nó chỉ còn là một tí con con. Nghệ
thuật tăng tiến theo chiều giảm dần khiến người đọc thấy rõ cái bi kịch xót xa của nữ sĩ và cảm
thương cho con người tài hoa mà bạc mệnh. Bi kịch ấy đeo đẳng lấy người phụ nữ khiến nàng
không chỉ thốt lên ngao ngán một lần. Trong Tự tình III nàng cũng từng thở dài:
Ngàn nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Đây cũng là một cách nói khác của bi kịch tình yêu bị chia năm sẻ bảy. Nàng có chồng – ôm
đàn – nhưng lấy chồng mà vẫn tấp tênh như chẳng có, một tháng đôi lần có cũng như không.
Hai câu kết bài thơ với những từ ngữ giản dị, tự nhiên và nghệ thuật tăng tiến, người đọc cảm
nhận được cái chán ngán khi rơi vào bi kịch của nữ sĩ. Tuy thế, dư âm của cái khát khao sống,
khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ở hai câu trước vẫn khiến người đọc cảm phục bản lĩnh
cứng cỏi của bà chúa thơ Nôm.
Với ngôn ngữ thơ Nôm giản dị, tự nhiên nhưng cũng sắc nhọn, với các biện pháp nghệ thuật
đảo, đối, dùng động từ mạnh, tả cảnh ngụ tình... bài thơ thể hiện tâm trạng vừa đau đớn, vừa
phẫn uất trước duyên phận, nhưng vẫn cố gắng vươn lên với khát khao sống, khát khao hạnh
phúc mãnh liệt, tuy vẫn rơi vào bi kịch.
Tóm lại, Tự tình II thể hiện bản lĩnh Hồ Xuân Hương qua tâm trạng đầy bi kịch: vừa buồn
tủi, phẫn uất trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được sống hạnh phúc. Đọc bài thơ,
ta vừa thương cho số phận bất hạnh, vừa khâm phục bản lĩnh cứng cỏi của nữ sĩ. Bài thơ là
minh chứng tiêu biểu cho tài năng ngôn ngữ của bà chúa thơ Nôm.

You might also like