You are on page 1of 16

1.

Hay phân tích các thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ của nó với tính chất 2
mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Nêu ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu lý
luận này.
a, Hàng hóa: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Có 2 dạng hàng hóa: vật thể (hữu hình) và phi vật
thể (dịch vụ vô hình: khám bệnh, nghe nhạc…).

 Khi nghiên cứu phương thức sx TBCN, C.Mác bắt đầu bằng sự phân tích hàng
hóa vì các lý do sau:

- Hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của của cải trong XHTB.

- Hàng hóa là hình thái nguyên tố của của cải, là tế bào kinh tế trong đó chứa đựng
mầm mống mâu thuẫn của phương thức sx TBCN.

- Phân tích hàng hóa nghĩa là phân tích giá trị - cơ sở của phạm trù chính trị ktctr học.
Từ đó phân tích được giá trị thặng dư là phạm trù cơ bản của CNTB và những phạm
trù khác như: lợi nhuận, lợi tức, địa tô…

b, 2 thuộc tính của hàng hóa: Giá trị sử dụng và giá trị

 GTSD của hh: là công dụng của hh, dùng để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người, được phát hiện dần cùng với sự phát triển của KH – KT.

- GTSD là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hh quyết định nên hang hóa có tính quy
định

- GTSD chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng và là phạm trù có tính viễn
viễn

- Không phải vật nào có GTSD đều là hh. Trong nền kinh tế hh, GTSD là vật mang giá
trị trao đổi.

- GTSD của hang hóa được phát hiện dần, ngày càng phong phú do sự phát triển của
KH-CN

 GT của hh: là lao động xh của người sx hh đã hao phí kết tinh trong hh, là lao
động hao phí để sx ra hh ẩn giấu trong hh, nó biểu hiện quan hệ giữa những
người sx hh.

- GT là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sx hh.

- Giá trị trao đổi là quan hệ về số lượng, tỷ lệ trao đổi lẫn nhau giữa 2 GTSD khác
nhau. Vì vậy, GT là nội dung, là cơ sở của GTTĐ, còn GTTĐ chỉ là hình thức biểu hiện
của GT.

- Khác với GTSD, GT là thuộc tính xh của hh.

- GT chỉ thể hiện ra khi trao đổi. Do đó, GT là 1 quan hệ xh, 1 quan hệ sx.
- Khi tiền tệ ra đời, GT biểu hiện ra bằng tiền gọi là giá cả.

● Hàng hóa là sự thống nhất của 2 thuộc tính là GTSD và GT. Đây là sự thống nhất
của 2 mặt đối lập.

- Sự thống nhất: đã là hh phải có 2 thuộc tính

- Sự đối lập:

GT GTSD

o Mục đích của người o Mục đích của người tiêu dùng.
sx.
o Thực hiện sau.
o Thực hiện trước.
o Thực hiện trong tiêu dùng.
o Thực hiện trên thị
trường.

c, Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Sở dĩ hh có 2 thuộc tính là do
quá trình lao động sx hh có tính chất 2 mặt. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu
tượng.

● Lao động cụ thể: là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng
riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng và kết quả riêng. VD: lao động cụ thể
của người thợ mộc: mục đích: sx cái bàn; đối tượng: gỗ; phương tiện riêng: cưa, bào,
đục…; phương pháp: thao tác về cưa, bào, đục…; kết quả: tạo ra cái bàn.

- Mỗi LĐCT tạo ra mội loại GTSD nhất định.

- Các LĐCT hợp thành hệ thống phân công lao động xh, phát triển cùng với sự phát
triển của KH – KT.

- LĐCT là phạm trù vĩnh viễn, tồn tại gắn liền với vật phẩm.

● Lao động trừu tượng: là sự hao phí SLĐ nói chung của người sxhh về cơ bắp, thần
kinh, trí óc, không kể đến những hình thức cụ thể của nó. VD: lao động của người thợ
mộc và lao động của người thợ may, xét về LĐCT thì hoàn toàn khác nhau nhưng
chúng có 1 điểm chung là dùng sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người-
LĐTT chỉ có trong nền sx hh, do mục đích của sx là để trao đổi.

- LĐTT là lao động đồng chất và giống nhau về chất.

- LĐTT là nhân tố duy nhất tạo ra GT của hh. GT của mọi hh chính là sự kết tinh của
LĐTT.

- LĐTT là phạm trù lịch sử, thể hiện t/c xã hội của sxhh

● Việc phát hiện ra tính 2 mặt của của lao động sx hh có ý nghĩa to lớn về mặt lý
luận:

- Đem lại cho học thuyết giá trị lao động sx 1 cơ sở khoa học thật sự.
- Giúp ta giải thích các hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế như: sự vận động
trái ngược giữa khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng đi liền với khối lượng giá trị
ngày càng giảm xuống hoặc không đổi.

- Đem lại cơ sở khoa học vững chắc cho học thuyết giá trị thặng dư: giải thích nguồn
gốc thật sự của GTTD.

● Trong nền sx hh, LĐCT biểu hiện thành lao động tư nhân, LĐTT biểu hiện thành lao
động xh. Mâu thuẫn cơ bản của nền sx hh là mâu thuẫn giữa LĐTN và LĐXH, nó chứa
đựng khả năng sx thừa. Biểu hiện:

- Sản phẩm do người sx hh tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu xh.

- Hao phí lao động cá biệt của người sx có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động
mà xh chấp nhận.

d, Ý nghĩa thực tiễn:

Xác định được chất của giá trị là do lao động trừu tượng kết tinh, biểu hiện quan hệ xã
hội và là một phạm trù lịch sử.

Xác định được lượng của giá trị là lượng lao động trung bình hay thời gian lao động xã hội
cần thiết.

Xác định được hình thái biểu hiện của giá trị phát triển từ thấp tới cao, từ hình thái giản
đơn đến hình thái mở rộng, hình thái chung và cuối cùng là hình thái tiền.

Xác định được quy luật giá trị- quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá. Quy luật này đũi
hỏi người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải đảm bảo thời gian lao động xã hội cần thiết.

Đẩy mạnh phan công lao động để phát triển kinh tế hàng hoá, đáp ứng nhu cầu đa dạng
và phong phú của xã hội.

Phải coi trọng cả hai thuộc tính của hàng hoá để không ngừng cải tiến, nâng cao chất
lượng, hạ giá thành.

2. Phân tích các điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa và các thuộc tính
của hàng hóa sức lao động, liên hệ thực tiễn các thuộc tính hàng hóa sức lao
động ở Việt Nam hiện nay.

● Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:

- Sức lao động: là toàn bộ các thể lực và trí lực tồn tại trong thân thể một con
người đang sống, và người đó đem ra vận dụng mỗi khi sx ra một GTSD nào
đó.

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không
phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy,
sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu
của chủ nô nên anh ta không có quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ công tự
do được tuỳ ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không
phải là hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi sống mình, chứ chưa
buộc phải bán sức lao động để sống. Sức lao động để trở thành hàng hoá cần phải có những
điều kiện nhất định.
- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do vệ thân thể, làm chủ được sức lao động
của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh
hoạt. Họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại buộc họ phải bán sức lao động của mình để
sống.
Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiển biến thành tư bản. Tuy
nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát triển
tới một mức độ nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng
hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó các hình
thái sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện
những điều kiện để cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa
sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự
ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ nghĩa tư bản.
● Thuộc tính hàng hóa sức lao động: hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính GT
và GTSD.
- Giá trị hàng hoá sức lao động
+ Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức do thời gian lao động xã hội cần thiết
để xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.
+ Xét về mặt cấu thành,gtri sức lao động được xác định bằng gtri của toàn bộ các tư liệu sinh
hoạt cần thiết để sx và tái sx ra sức lao động của người lao động
Gtri sử dụng hàng hóa sức lao động->thê hiện ra khi tiêu dùng SLĐ->tạo ra hàng hóa nào
đó.Như vậy, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp rằng giá trị của những tư liệu
sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.
+ Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ
nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu
về tinh thần, văn hoá...
Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng
thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
+ Lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết(vật chất và tinh thần) để tái sản xuất sức lao
động
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết(vật chất và tinh thần) nuôi con cái và gia đình
người lao động.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
+ Quá trình tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá trình tiêu dùng hàng hoá thông
thường ở chỗ:
* Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị
lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
* Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình sản xuất ra một
loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá của bản thân
hàng hoá sức lao động. Phần lớn là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy,
giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị,
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng
hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
● Liên hệ thực tiễn:
Trong lý luận hàng hóa sức lao động có thể thấy thị trường sức lao động với quan hệ cung
cầu về lao động và giá cả hàng hóa sức lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy
luật cạnh tranh, quy luật cung cầu,...
Hiện nay mới bước vào những năm đầu tiên của thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, lao động nước ta đang mang những sắc thái đặc thù, gắn chặt
với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Về mặt phát triển kinh tế
nước ta đang chuyển từ sản xuất hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa
có vận dụng những thành tựu của sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế thị
trường nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa vì
vậy khi vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thị trường lao động nước ta chính là giải
quyết vấn đề nguồn lao động chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Mặt khác, trong nền xu thế hội nhập quốc tế nền kinh tế các nước phát triển là nền kinh tế
tri thức. Đây là nền kinh tế đòi hỏi trí tuệ cao vì vậy người lao động phải biết nắm bắt và xử
lí nhanh nhạy đặc biệt là trong ngành công nghiệp mới cần nâng cao giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động
của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế cụ thể là: về giá trị
sử dụng của hàng hóa sức lao động còn thấp hạn chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta
trên thị trường thế giới, giá trị hàng hóa sức lao động chưa đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở
rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người công nhân, hệ thống thông tin lao
động việc làm chưa được quản lí chặt chẽ, hệ thống giáo dục-đào tạo chưa đủ khả năng
cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Theo quan điểm của C.Mác cần chăm lo cho công nhân và người thân của họ, về việc này
thì nước ta cũng đã làm được: đời sống công nhân ngày càng được nâng lên nhất là về đời
sống tinh thần công nhân được Công Đoàn tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, trao
đổi kinh nghiệm lao động, khuyến khích, khen thưởng các công nhân có thành tích tốt trong
lao động,...Đời sống của người thân công nhân cũng được chú trọng hơn. Trong các khu
công nghiệp, đã xây dựng các trường học cho con em các công nhân như các trường mầm
non, nhà giữ trẻ, khu vui chơi dành cho thiếu nhi...Đời sống của công nhân và người thân
của họ được đáp ứng đầy đủ hơn về các dịch vụ khác. Việc làm này giúp cho công nhân có
thể yên tâm làm việc, cống hiến hết mình cho công việc
Nhà nước ta cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực, trình độ cho
người công nhân. Ngày càng có nhiều trường đào tạo nghề được thành lập nhằn phục vụ
cho việc học nghề của nhân dân và nâng cao tay nghề của công nhân. Các nhà máy, xí nghiệp
cũng tạo điều kiện cho công nhân nâng cao trình độ của mình như học tiếp thu khoa học kĩ
thuật tiên tiến, tổ chức các lớp tập huấn, nhằm nâng cao tay nghề từ đó tăng năng suất lao
động.
Tuy nhiên, thị trường lao động nước ta vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Lực lượng công nhân
Việt Nam dù là dồi dào nhưng tay nghề chưa cao lao động chủ yếu bằng cơ bắp, ít lao động
trí óc. Mặc dù các trung tâm, các trường đào tạo nghề được thành lập nhiều nhưng có một
số cơ sở vẫn hoạt động không có hiệu quả công nhân học xong không thể làm việc có hiệu
quả, hơn nữa chi phí học tập còn cao nên không phải ai cũng có điều kiện để có thể theo học
được. Công nhân và gia đình họ cũng còn gặp khó khăn trong việc thỏa mãn các nhu cầu cá
nhân chính đáng của mình như khó tiếp cận với các dịch vụ, việc đăng kí học cho con cái. Và
một điều đáng lưu ý đó là lao động nước ta tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nền kinh tế nước ta còn lạc hậu nên công nhân
cũng hạn chế về tay nghề vì họ xuất thân từ nông dân nên tính kỉ luật chưa cao, nhỏ lẻ. Các
cơ sở đào tạo nghề hoat động chưa có hiệu quả và chi phí học nghề còn cao. Chúng ta chưa
vận dụng được các phương tiện thông tin đại chúng để giới thiệu việc làm, trở thành trung
gian giữa người sử dụng lao động và người lao động, là nơi phản ánh những hạn chế và ưu
điểm của thị trường hàng hóa sức lao động. Những quy định của nhà nước về thi trường lao
động vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc chi trả tiền lương còn thiếu sự công bằng, bình
đẳng giữa các công nhân. Nhiều cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp chưa đủ điều kiện để
xây dựng các khu vui chơi, giải trí cho công nhân và người thân của họ do thiếu vốn đầu tư.
Khi vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế
và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức. Tôn trọng nhân cách, phát huy vai trò làm
chủ, năng động sáng tạo, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Vận dụng lí
luận hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ và
cơ cấu hợp lí đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề tay nghề về mọi mặt của người lao động, tạo
cho họ những khả năng lao động tự giác và sáng tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng tại trường và nhiều
hình thức phương pháp khác để nâng cao tay nghề, mở rộng đào tạo nghề: về khoa học
công nghệ, kinh doanh, về quản lí kinh tế - xã hội. Trước mắt cần giáo dục mọi người yêu
quý lao động, yêu quý nghề nghiệp, lao động có kỉ luật, chống mọi thói xấu lười biếng ỷ lại,
khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người tự tìm tòi, tự tạo việc làm cho mình và cho
người khác. Cần chú trọng công tác chăm lo cho các nhu cầu vật và tinh thần cho công nhân
và gia đình họ. Chú trọng về chính sách tiền lương, tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động
đoàn thể cho công nhân.
Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng các hình thức như phát triển hệ thống
thông tin, giới thiệu việc làm, tăng cường quản lí của nhà nước, củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lí và vận hành nó có hiệu quả. Thay đổi cơ
cấu lao động, hạn chế thành phần lao động ở lĩnh vực nông nghiệp.
3. Hãy phân tích các khái niệm tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản. Ý nghĩa của
việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình
lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng, là sự vận động của tư bản, nhờ đó mà tư
bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.
a) Tuần hoàn của tư bản: là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn mang ba
hình thái(tư bản tiền tệ, tư bản sx, tư bản hàng hóa) thực hiện ba chức năng(chuẩn bị sx
GTTD, sx GTTD, thực hiện GTTD) và quay trở về hình thái ban đầu cùng với GTTD.
Trong quá trình tuần hoàn đều vận động theo công thức:

Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất.
-Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông:
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động.

Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau:


Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng giai đoạn này là mua
các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất:

Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có chức năng thực
hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng hóa là trong
giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản
xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng
hóa.
- Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông: H' - T'
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là thực hiện
giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng giá trị thặng
dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng
hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền. Kết thúc giai đoạn thứ ba, tư bản hàng hóa
chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư
bản quay trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần hoàn: tư bản
ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền có kèm theo
giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động
tuần hoàn của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây được
thỏa mãn: một là, các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục; hai là, các hình thái tư bản cùng
tồn tại và được chuyển hóa một cách đều đặn. Vì vậy, tư bản là một sự vận động tuần hoàn
của tư bản, là sư vận động liên tục không ngừng.
Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công nghiệp: tư
bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.
Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản cá biệt
đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái. Ba hình thái của tư bản không phải là ba loại
tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện trong quá trình
vận động của nó. Song cũng trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng khả năng tách rời
của ba hình thái tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời
đó đã làm xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác
trong giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng, v.v. chia nhau giá trị thặng
dư.
Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản là nghiên cứu mặt chất trong sự vận động của tư bản, còn
mặt lượng của sự vận động được nghiên cứu ở chu chuyển của tư bản.
b) Chu chuyển của tư bản: là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường xuyên
lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian bao gồm thời gian sx và tốc độ sx
Thời gian chu chuyển tư bản: khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra dưới
một hình thái nhất định cho đến khiqauy trở về dưới một hình thái đó cung với GTTD. Bao
gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
- Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Bao gồm: thời gian lao
động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư
bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân tố như: tính chất của ngành sản xuất; quy
mô hoặc chất lượng các sản phẩm: sự tác động của quá trình tự nhiên đối với sản xuất; năng
suất lao động và tình trạng dự trữ các yếu tố sản xuất.
- Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu
thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không
sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng
hóa. Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc các nhân tố sau đây: thị trường xa hay gần,
tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.
Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Tốc độ chu chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất
định quay trở về dưới hình thái đó cùng với GTTD tính trong một đơn vị thời gian nhất định.
Được tính bằng số vòng chu chuyển của tư bản trong 1 năm
n = CH/ch
Trong đó: (n) là số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời gian trong năm; (ch) là
thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.
Tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian 1 vòng chu chuyển của tư bản.
Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông
của nó.
c, Y nghĩa của việc nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản
+ Nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí bảo quản, sửa
chữa tài sản cố định, giảm được hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, cho phép đổi mới
nhanh máy móc, thiết bị; có thể sử dụng quỹ khấu hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng
sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.
+ Nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản lưu động sẽ cho phép tiết kiệm tư bản ứng trước khi
quy mô sản xuất như cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.
+ Đối với tư bản khả biến, việc nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc làm tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm.
4. Hãy phân tích các đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của
thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập xã hội mà ở đó dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do ĐCSVN lãnh đạo.
Đây là mô hình kinh tế mà Việt Nam đang lựa chọn. Mô hình này vừa có những tính chất
chung của nền kinh tế thị trường thế giới, lại có những đặc trưng riêng do đặc thù về điều
kiện lịch sử của Việt Nam. Những đặc trưng riêng đó là cơ sở để phân biệt KTTT ở Việt Nam
khác với KTTT ở các nước trên thế giới. Có đặc trưng
a. Thứ nhất, về mục tiêu phát triển Kinh tế thị trường.

Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là cái đích mà ta đang hướng tới. Để
thực hiện được cái đích đó, chúng ta thực hiện bằng nhiều con đường : có thể là CNH, HĐH ;
có thể bằng KTTT định hướng XHCN ; cũng có thể là phát triển KT đối ngoại, hội nhập Quốc
tế…

Phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN là công cụ phương thức để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xây dựng
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ xã hội hóa đạt được của lực lượng sản xuất.
Cụ thể, thì đó là nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.

Việt Nam đang ở chặng đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ quan trọng
nhất của thời kì này là xây dựng lực lượng sản xuất. Việc sử dụng kinh tế thị trường cho
phép huy động và phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu, giải phóng sức sản xuất,
thúc đẩy tăng năng suất, khuyến khích đổi mới công nghệ. đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa Hiện đại hóa ở Việt Nam. Bên cạnh đó phải hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường đề đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội.

b. Thứ hai, là về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:


- Trước hết về quan hệ sở hữu :
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay có hai loại hình sở hữu tư liệu
sản xuất và sản phẩm(sở hữu tư nhân và sở hữu công hữu). Loại hình sở hữu tư nhân có các
hình thức: sở hữu cá thể, tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân. Sở hữu công hữu tồn tại dưới hai
hình thức cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể của người lao động. Đặc biệt, các
loại hình sở hữu trên đan xen vào nhau tạo thành những hình thức sở hữu hỗn hợp (tức là
vừa có sở hữu nhà nước vừa có sở hữu tư nhân). Việc xác định rõ các hình thức sở hữu TLSX
là cơ sở để xây dựng các thành phần kinh tế.

- Về thành phần kinh tế ta thấy rằng :

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do nhiều hình thức sở hữu, nên biểu hiện
bên ngoài đó là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định.

Về hình thức sở hữu nhà nước có thành phần kinh tế nhà nước như: doanh nghiệp Nhà
nước. Về hình thức sở hữu tập thể có thành phần kinh tế tập thể như Hợp tác xã. Về hình
thức sở hữu tư nhân có thành phần kinh tế tư nhân như công ty tư nhân. Về hình thức sở
hữu hỗn hợp có các hình thức liên doanh liên kết doanh nghiệp nhà nước với tư nhân như
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và nhà nước có thể nắm cổ phần của doanh
nghiệp.

Xét về mặt vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ,
đồng thời thực hiện sự liên kết giữa các loại hình sở hữu sâu rộng ở cả trong và ngoài
nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân
thống nhất, đều bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh.

Nhìn chung KTTT tư bản chủ nghĩa họ cũng có các thành phần kinh tế tương đối giống Việt
Nam, nhưng quan trọng nhất và là động lực lớn nhất của họ là kinh tế tư nhân (bản chất là
sở hữu tư nhân). Còn KTTT định hướng XHCN thì kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, dẫn
dắt nền kinh tế. Còn kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, huy động
mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, kích thích cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng
năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
c. Thứ ba, về quan hệ quản lý nền kinh tế:

Đảng cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo thông qua quan cương lĩnh, đường lối phát
triển kinh tế-xã hội và các chủ trương, chính sách trong từng thời kì của đất nước. Đây là yếu
tố trọng đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa giữ vai trò quản lí nền kinh tế thông qua pháp luật,
chính sách kinh tế - xã hội, kế hoạch và các công cụ kinh tế. Việt quản lí của nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường trên nguyên tắc tổn trọng các qui luật kinh tế của thị trường. Đồng
thời để hỗ trợ sự phát triển bền vững của kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện vai trò cơ
bản: duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành
mạnh và công bằng, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo công bằng
và bình đẳng xã hội.

Cũng cần lưu ý thêm rằng, sự khác biệt ở Việt Nam với các nước TBCN về quan hệ quản lý
là ở chỗ: bản chất nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bản chất
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Còn ở 1 số
quốc gia TBCN, đó là sự quản lý của nhà nước TBCN vì lợi ích 1 bộ phận giai cấp tư sản.

d. Thứ tư, về quan hệ phân phối.

Hiện nay, do nhiều hình thức sở hữu do vậy chúng ta đang thực hiện nhiều hình thức phân
phối khác nhau đối với các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất. Cụ thể chúng ta có các
hình thức phân phối để hình thành thu nhập cá nhân như sau:

+ Phân phối theo kết quả lao động : bản chất của hình thức này dựa trên kết quả về
chất lượng, số lượng lao động, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng.

+ Phân phối theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn : ví dụ, như dựa trên kết
quả sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp lỗ hay lãi, hoặc dựa trên lợi tức đóng
góp vốn là nhiều hay ít.

+ Phân phối thông qua hệ thống phúc lợi tập thể và xã hội : như hệ thống quỹ phúc lợi
hưu trí, quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa... các các công trình phúc lợi xã
hội mà nhân dân được hưởng.

Trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo phúc lợi là
những hình thức phân phối mang tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa.

e. Thứ năm, về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội:

Mục tiêu cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”. Thế nên, ngoài mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế còn phải đảm bảo tính công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa - xã hội.

Công bằng xã hội được biểu hiện ở các khía cạnh công bằng về thu nhập, lao động việc
làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách thu nhập, chính sách ưu đãi với người có
công… Nền kinh tế dù có chỉ số tăng trưởng cao, nhưng khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo quá lớn, thất nghiệp giá tăng, bất bình đẳng thu nhập… hậu quả sẽ tệ nạn xã hội
xuất hiện, đình công bãi công liên miên sẽ có tác động tiêu cực trở lại tới nền kinh tế, và
kìm hãm nền kinh tế. Khi thực hiện các chính sách công bằng xã hội, sẽ tạo điều kiện bảo
đảm sự phát triển bền vững, nó cũng chính là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

Đối với các nước tư bản chủ nghĩa, ngày nay cũng đặt ra vấn đề giải quyết công bằng xã
hội. Song nó chỉ giải quyết vấn đề công bằng xã hội đối với các nước tư bản chủ nghĩa, là
phương tiện để duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa chứ không phải là mục tiêu của chế độ
đó.

Từ 5 đặc trưng trên, chúng ta có được cái nhìn tổng quan về nền KTTT ở Việt Nam. 5
đặc trưng này là cơ sở để thấy được sự khác biệt cơ bản đối với nền KTTT ở các quốc gia
khác.

5. Hãy phân tích khái niệm, bản chất biểu hiện và vai trò của lợi ích kinh tế. Y nghĩa
thực trạng của việc nghiên cứu lý luận này.

● Khái niệm

Để tồn tại, phát triển, con người cần được thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như nhu cầu
tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của mình. Lợi ích có thể là
lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần. Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà
sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với
trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó.

Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của con
người. Lợi ích kinh tế là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể
kinh tế. Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội thì nó trở
thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế.

 Bản chất biểu hiện

Xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất xã hội.

Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm
chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử,
do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch
sử đó.

Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng: lợi ích của
chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của người lao động là thu nhập. Với mỗi cá
nhân, trong các mối quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực hiện
hoạt động kinh tế, trong nhất thời, không phải luôn đặt mục tiêu lợi ích vật chất lên hàng
đầu. Về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích quyết định.
Nếu không thấy được vai trò này của lợi ích kinh tế sẽ làm suy giảm động lực hoạt động của
các cá nhân.

Khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa hàm ý rằng, lợi ích đó được xác lập trong
quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế
nào(chủ sở hữu; lao động làm thuê hay trung gian trong hoạt động kinh tế; ai là người thụ
hưởng lợi ích, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể đó, phương thức để thực hiện lợi
ích cần phải thông qua các biện pháp gì...). Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động
sản xuất kinh doanh, lao động ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.

● Vai trò

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong phú. Mặc dù
vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi ích. Xét theo nghĩa như vậy,
có thể khái quát vai trò của lợi ích kinh tế trên một số khía cạnh chủ yếu sau:

- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động

Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy
thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao
thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt của người dân
vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển

Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát
triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao động phải tích cực lao động
sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động; chủ doanh nghiệp phải tìm cách nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng
cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
phục vụ người tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.

- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác.

Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiên lợi
ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội.

Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội.
Khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế thì lợi ích kinh tế mới thực hiện
được vai trò của mình. Ngược lại, việc theo đuổi những lợi ích kinh tế không chính đáng,
không hợp lý, không hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

● Ý nghĩa thực trạng: Ở Việt Nam trong một thời gian dài, vấn đề lợi ích kinh
tế, nhất là lợi ích cá nhân, đã không được quan tâm đúng mức. Trong điều
kiện cơ chế thị trường hiện nay, cần quản triệt sâu sắc quan điểm của Đảng -
Nhà nước ta: xem lợi ích kinh tế là động lực của sự phát triển, tôn trọng lợi
ích cá nhân chính đáng. tạo động lực cho sự phát triển đất nước.

6. Hãy phân tích các nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam? Anh/ chị cần
phải làm gì để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời
gian tới ?
● Phân tích
CNH là quá trình chuyển đổi nền SXXH từ dựa trên lao động thủ công là chính sang nền SXXH
chủ yếu dựa trên lao động bằng máy móc nhằm tạo ra NSLĐ xã hội cao.
Để thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá, Việt Nam cần chú trọng các nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân về những cơ hội và
thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong phát triển kinh tế - xã hội, tận dụng
cơ hội, vượt qua thách thức để phát triển kinh tế- xã hội, rút ngắn khoảng cách với các nước
phát triển, sớm đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Hai là, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng kết hợp có hiệu quả giữa phát triển
theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, nâng cao
chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng thành tựu tiên tiến của khoa
học, công nghệ để nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh.
Ba là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bao gồm: Hoàn thiện hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN; rà soát bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; xây dựng chính phủ hành
động - liêm chính - đổi mới – sáng tạo; tối ưu hóa mô hình kinh doanh của doanh nghiệp
Bốn là, đổi mới chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học - công nghệ, thực sự coi
khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, tập trung cao độ các nguồn nhân lực, trí lực,
vật lực cần thiết để phát triển khoa học - công nghệ, lựa chọn ưu tiên đầu tư và phát triển
những lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, từng bước làm chủ khoa học công nghệ, đi
thẳng vào một số công nghệ hiện đại khi điều kiện và khả năng cho phép.
Năm là, xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và truyền thông, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh
tế, coi phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là khâu đột phá trong cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam.
Sáu là, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của cách
mạng công nghiệp 4.0, như: tác động tiêu cực về môi trường, về văn hóa, xã hội; sự bất ổn
về an ninh quốc phòng; nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao; nguy cơ gia tăng
thất nghiệp...
● Cần làm gì
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
với các đặc điểm khác nhau. Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được những thành
tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, thúc đẩy công
tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua cũng đang bộc lộ những hạn chế nhất
định.

Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng
4.0, Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó phải thực hiện quyết liệt quá trình
chuyển đổi mô hình kinh tế, nâng cao hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực, đẩy mạnh
việc hoàn thiện thể chế về tài chính, thu hút nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển,
chú trọng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh; tăng cường
hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực; trong đó, nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực
tài chính nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với thu hút đầu tư của khu
vực tư nhân, tạo cơ chế tài chính để các địa phương thu hút các nguồn lực cho phát triển;
hình thành các chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố tiền đề công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, có tám giải pháp được xem là trọng tâm trong việc thúc
đẩy phát triển quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

1. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, chuyển đổi mô hình kinh tế: Đổi mới các công cụ
quản lý vĩ mô của Nhà nước; nâng cao chất lượng công tác xây dựng chính sách, thực
hiện phối hợp hiệu quả trong quản lý kinh tế vĩ mô; tập trung vào một số ngành
trọng điểm, có tính đột phá và có sự lan toả cao; đối với tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) cần nghiên cứu; phát huy vai trò của khu vực DNNN trong việc mở
đường ở những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần ưu tiên nắm giữ.
2. Tăng cường hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực tài chính: thu hút nguồn lực
trong xã hội cho đầu tư phát triển, chú trọng đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế,
góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh trên các cấp độ: quốc gia, địa phương, ngành
và sản phẩm.
3. Tăng cường hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực: Đảm bảo hiệu quả đầu tư nhà
nước, đổi mới phương thức phát triển tín dụng nhà nước theo nguyên tắc thương
mại; thực hiện công khai, minh bạch giá, tăng cường kiểm soát chi phí sản xuất hàng
hóa, dịch vụ độc quyền, sản phẩm công ích; đồng thời có cơ chế hỗ trợ cho người
nghèo và các đối tượng chính sách.
4. Phát triển các yếu tố tiền đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Hoàn thiện quy hoạch
hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước, trong từng vùng, bảo đảm sử dụng tiết kiệm các
nguồn lực và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế, bảo vệ môi trường đi đôi với hoàn
thiện cơ bản mạng lưới giao thông vận tải thiết yếu đáp ứng nhu cầu vận chuyển
hàng hóa và hành khách giữa các vùng và với các nước trong khu vực; thu hút có
hiệu quả và kịp thời các nguồn tài chính trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng; đẩy mạnh “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo
dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác làm tăng
tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ.
5. Phát triển khoa học-công nghệ: Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đầu tư cho KHCN,
thu hút các thành phần xã hội tham gia hoạt động KHCN, thúc đẩy phát huy sáng tạo
cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ KHCN
giữa các tổ chức thuộc thành phần kinh tế khác nhau. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ra
các sản phẩm KHCN gắn với kết quả đầu, đáp ứng nhu cầu của xã hội và thu hút
được nguồn vốn đầu tư, thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ doanh nghiệp
6. Phát triển nông nghiệp, nông thôn: Phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp; tăng cường tính kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo
quản và xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm, với chuỗi giá trị toàn cầu đối với sản phẩm có
lợi thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
7. Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp tổng thể phù hợp với
mô hình và bước đi về CNH, HĐH. Tiếp tục đẩy mạnh mô hình CNH, HĐH hướng
ngoại trên cơ sở lựa chọn các ngành và lĩnh vực ưu tiên trong thực hiện chiến lược
công nghiệp. Trong giai đoạn trước mắt, cần ưu tiên lựa chọn các ngành, lĩnh vực
công nghiệp gắn với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn.
8. Thúc đẩy phát triển kinh tế vùng: Tăng cường sự liên kết giữa các địa phương trong
vùng kinh tế, có chính sách khuyến khích hình thành các cụm liên kết ngành theo các
lĩnh vực công nghiệp có lợi thế. Lựa chọn một số địa bàn có lợi thế vượt trội để hình
thành một số khu kinh để thử nghiệm mô hình phát triển theo hướng hiện đại của
thế giới. Từng bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống dân

You might also like