Professional Documents
Culture Documents
4. Ôn Văn 9 - Nghị Luận Xh
4. Ôn Văn 9 - Nghị Luận Xh
1
CHỦ ĐỀ 1: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT SỰ VIỆC HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
I. Kiến thức, kỹ năng:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội là bàn về một sự việc, hiện tượng
có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ.
- Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải nêu rõ được sự việc, hiện tượng có vấn đề;
phân tích mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý
kiến, nhận định của người viết.
- Về hình thức, bài viết phải có bố cục mạch lạc; có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép
lập luận phù hợp; lời văn chính xác, sống động.
- Dàn bài chung:
+ Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề.
- Dẫn dắt vấn đề.
- Nêu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn.
+ Thân bài: Liên hệ thực tế, phân tích các mặt, đánh giá, nhận định.
- Giải thích hoặc định nghĩa hiện tượng đó.
- Phân tích hiện tượng.
- Hiện tượng đó diễn ra như thế nào trong đời sống xã hội?→ DC
- Hiện tượng đó thường xảy ra ở đâu, đối tượng nào?→ DC
- Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên; nguyên nhân chung (nguyên nhân xã hội)
- Hậu quả, (hoặc kết quả) của hiện tượng trên → DC
- Đưa ra giải pháp.
- Đối với xã hội.
- Đối với cá nhân.
+ Kết bài: Kết luận, khẳng định, phủ định, lời khuyên.
- Cách viết:
a. Mở bài
Nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng là một dạng văn bản. Vì vậy, nó cũng cần bắt đầu
bằng một mở bài. Và phần mở bài của nó dĩ nhiên không thể đi ngược lại những nguyên tắc
chung của mở bài.
Nghị luận là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người muốn được bàn luận và đánh
giá về một hiện tượng (hoặc vấn đề) nào đấy. Mở bài của một bài nghị luận hiện tượng đời sống
phải thể hiện được định hướng đánh giá và bàn luận đó thông qua những câu hỏi, hoặc những
câu có tác dụng gợi suy nghĩ, trăn trở trong người đọc (người nghe).
b. Thân bài
Thân bài phải gồm đủ hai thành phần là bàn luận và đánh giá, để có thể đáp ứng yêu cầu bình
luận.
Các ý của thân bài cần được sắp xếp sao cho người đọc (người nghe) có thể tiếp nhận sự đánh
giá, bàn luận của người làm văn một cách dễ dàng và hứng thú, vì sự bình luận chỉ có ý nghĩa
khi nó thực sự hướng tới người đọc (người nghe). Chẳng hạn:
- Người đọc (người nghe) sẽ không thể tiếp nhận, và càng không thể tiếp nhận một cách hứng
thú những lời bình luận về một hiện tượng nếu họ còn mơ hồ về cái hiện tượng được đưa ra bình
luận ấy. Vì thế, trước khi bắt tay vào đánh giá hay bàn bạc, người bình luận nên trình bày một
cách trung thực, đầy đủ, rõ ràng về hiện tượng đời sống mà mình sẽ đem ra bàn luận cùng người
2
đọc (người nghe).
Người bình luận không nên cố trình bày hiện tượng đời sống đó sao cho phù hợp nhất với
quan điểm của mình, vì việc làm ấy có thể sẽ mâu thuẫn với yêu cầu khách quan, trung thực và
từ đó sẽ khién người đọc (người nghe) hoài nghi, cảm thấy sự bình luận không thật công bằng,
không vô tư.
Người bình luận cũng nên vận dụng các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong lúc
trình bày để bài văn của mình thêm chính xác, rõ ràng, sinh động và do đó, thêm sức thuyết phục
người đọc (người nghe).
- Người đọc (người nghe) sẽ không thể thực sự tin vào ý kiến của người nghị luận, nếu cảm thấy
ý kiến ấy chỉ là sự áp đặt một chiều. Sức thuyết phục của bài nghị luận sẽ cao hơn nhiều khi
người nghe có điều kiện so sánh ý kiến của người nghị luận với những ý kiến đã được nêu ra
trước đó. Do vậy, người làm văn nên làm công việc điểm lại và nhận xét một cách hợp tình hợp
lí các quan điểm chính đã có về hiện tượng đời sống được đưa ra bình luận, trước khi đưa ra
quan điểm của bản thân mình.
Việc điểm lại và nhận xét các quan điểm chính đã có về hiện tượng đời sống nêu ở đề bài rõ
ràng cũng cần phải đạt được các yêu cầu khách quan, trung thực, như vừa nêu ở điểm trên. Vì có
thế thì người nghị luận mới mong đạt được mục đích của mình.
- Khi nêu ra và bảo vệ quan điểm của riêng mình, người bình luận có thể đứng hẳn về một phía,
ủng hộ phía mình cho là đúng và phê phán phía mà mình chắc chắn là sai. Người bình luận cũng
có thể kết hợp những phần đúng và loại bỏ phần còn hạn chế của mỗi phía để đi tới một sự đánh
giá mà mình tin là thực sự hợp lí, công bằng. Và cũng không loại trừ khả năng người bình luận
đưa ra một cách đánh giá khác biệt của riêng mình, sau khi đã phân tích các quan điểm ý kiến
khác nhau về đề tài cần bình luận.
Việc lựa chọn cách làm nào trong cách kể trên cũng hoàn toàn chỉ xuất phát từ một và chỉ
một cơ sở duy nhất - cơ sở chân lí. Và sau khi đã lựa chọn được một cách thức phù hợp với chân
lí (lẽ phải) rồi thì nhiệm vụ của người bình luận là thuyết phục người nghe (người đọc) đặt niềm
tin vào sự đánh giá của mình, như chính mình đã từng có niềm tin như thế.
- Khi tiếp tục luận bàn sâu rộng hơn, người làm văn có thể đề cập tới thái độ, hành động, cách
giải quyết cần có trước hiện tượng vừa được nhận xét, đánh giá, cũng có thể bày tỏ những cảm
nhận, suy nghĩ mà mình đã rút ra khi liên hệ với thời đại, hoàn cảnh sống, lứa tuổi của mình và
của người đang lắng nghe mình bình luận. Sự bàn luận còn có thể đạt tới tầm vóc lớn hơn, có giá
trị cao hơn nếu người bình luận có thể mở ra những ý nghĩa sâu rộng, sâu sắc và bất ngờ nữa từ
hiện tượng đời sống mà mình đang bình luận.
c. Kết bài
Phần kết bài phải đóng được bài văn lại bằng một khẳng định chắc chắn, không thể nào bác
bỏ.
Ở một bài nghị luận hay, phần kết không chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là chốt lại bài văn.
Một phần kết chỉ thật hay khi nó còn mở ra được một phạm vi rộng lớn hơn cho những suy
ngẫm, những điều cần bàn luận tiếp.
3
Vận dụng làm bài tập:
Đề 1: Tin học với thanh niên hiện nay.
Gợi ý tham khảo.
a. Mở bài.
b. Thân bài.
• Tin học là một bộ môn phát triển nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
• Nguyên nhân:
- Do trí tuệ và sự hiểu biết của con người ngày càng phát triển.
- Do nhu cầu giao lưu về kinh tế, văn hóa, chính trị.
- Xu thế hội nhấp.
-…
- Nêu dẫn chứng.
• Tác dụng
- Thế giới ngày càng hội nhập thì phương diện đơn giản nhất là chiếc vi tính: “cả thế giới
trong ngôi nhà bạn”.
- Thế hệ trẻ là thế hệ sung sức nhất có khả năng cống hiến và làm giàu cho tổ quốc nhiều nhất.
- Cung cấp kiến thức về các lĩnh vực: chính trị, văn hóa,…
- Vận dụng công nghệ thông tin để kinh doanh.
- Giảm thời gian, giảm sức lực, nhanh chóng, tiện lợi …
- Chức năng giải trí, thư giản, …
- Hội nhập nền kinh tế thế giới, giúp thu ngắn khoảng cách giữa con người và con người.
- Nêu dẫn chứng.
• Nhược điểm
- Truyền tải thông tin kém văn hoá (mặt trái)
- Nghiện game online.
- Ngôn ngữ sai lệch làm mất vẻ đẹp của ngôn ngữ.
- Dùng biểu tượng thay cho lời nói.
- Nêu dẫn chứng.
• Giải pháp
- Nâng cao quản lí mạng
- Xã hội, cộng đồng biết giáo dục mọi lứa tuổi.
- Bản thân: vận dụng công nghệ thông tin vào việc học, lựa chọn thông tin phù hợp để tiếp thu,
-…
c. Kết bài
4
- Cần làm rõ: Người mang lại cho em cuộc sống là người như thế nào? Mối quan hệ với em?
Người đó đã có suy nghĩ và hành động như thế nào vì cuộc sống của em? Đã mang lại cho em
cuộc sống vật chất, tinh thần, niềm hạnh phúc, sự hiểu biết, trưởng thành của em? ...
- Suy nghĩ, nhận thức, tình cảm của em đối với người đã cho em cuộc sống
- Đánh giá về ý nghĩ cuộc sống, sự trân trọng giá trị cuộc sống đang có, em đang được hưởng.
- Liên hệ rộng ra với truyền thống dân tộc: Đức hi sinh và đạo lý "Uống nước nhớ nguồn".
- Thể hiện lòng biết ơn của em bằng những suy nghĩ và hành động cụ thể.
Đề 3: Xưa các cụ đã dạy “Lời chào cao hơn mâm cổ”, vậy mà nay dường như việc chào hỏi ít
được quan tâm. Hãy bàn về hiện tượng này.
Gợi ý tham khảo.
a. Mở bài: Dẫn dắt vào vấn đề chào hỏi xưa và nay.
b. Thân bài:
* Nêu những hiện tượng thiếu lịch sự trong chào hỏi.
- Quan hệ giao tiếp trong gia đình: con cái đi không thưa, về không chào.
- Quan hệ xã hội:
+ Học sinh càng lớn càng ngại chào thầy cô.
+ Đồng nghiệp gặp nhau nhiều khi thiếu cả cái gật đầu.
+ Hàng xóm láng giềng gặp nhau có lúc như người xa lạ.
+ Cấp dưới với cấp trên có lúc lại xun xoe quá mức …
* Đề ra một số cách chào hỏi thể hiện nét đẹp văn hóa giao tiếp.
- Tình huống giao tiếp:
+ Có tính nghi thức: lời chào phải trang trọng, tôn nghiêm.
+ Thân mật, gần gũi: không cần phải trang trọng, tôn nghiêm.
- Đối tượng giao tiếp:
+ Quan hệ vị thế xã hội: cấp dưới chào cấp trên tránh xun xoe thái quá; cấp trên cần tôn
trọng cấp dưới, tránh xem thường, kiểu cách bề trên.
+ Quan hệ tuổi tác: thường thì người nhỏ tuổi chào người lớn tuổi trước; song cũng không
phải lúc nào cũng câu nệ như thế mà bắt bẻ, xét nét …
+ Quan hệ thân sơ: nếu là thân thì có thể bỗ bã; nhưng chỉ là sơ thì phải ý tứ, giữ gìn lời
nói, cử chỉ, hành vi …
c. Kết bài:
- Chào hỏi thể hiện nhân cách con người.
- Chào hỏi cũng phản ánh trình độ văn minh của xã hội, càng phải quan tâm khi đất nước hội
nhập với văn hóa toàn cầu.
Đề 4: Hiện tượng đua đòi ăn mặc thiếu văn hóa của một số học sinh hiện nay.
Gợi ý tham khảo.
a. Mở bài:
- Trang phục là như cầu không thể thiếu của con người.
- Cuộc sống càng phát triển thì con người càng có nhu cầu mặc đẹp.
- Nhưng hiện có một số bạn ăn mặc còn thiếu văn hóa.
b. Thân bài:
* Những biểu hiện thiếu văn hóa trong trang phục của một số học sinh.
- Chạy theo mốt lòe loẹt, thiếu đứng đắn.
5
- Những kiểu dáng không phù hợp lúc đi học.
- Luôn thay đổi mốt cho phù hợp với kiểu tóc, kiểu giày …
* Tác hại:
- Phí thời gian học hành.
- Hao tốn tiền bạc của bố mẹ.
- Làm thay đổi nhân cách.
- Ảnh hưởng thuần phong mỹ tục.
* Đề ra cách ăn mặc có văn hóa:
- Trang phục đến trường: đồng phục theo quy định của nhà trường.
- Trang phục đi chơi: phù hợp với vóc dáng, lứa tuổi sao cho khỏe mạnh, trẻ trung mà không
lòe loẹt, lố bịch, diêm dúa …
c. Kết bài:
- Trang phục là nét đẹp của mỗi người và cũng góp phần thể hiện nét đẹp của xã hội, dân tộc.
- Mỗi học sinh biết cách ăn mặc đẹp chính là làm đẹp cho mình và làm đẹp cho mọi người.
Đề 9: Em hãy viết một bài văn ngắn với chủ đề: Trong học tập, tự học là cách học hiệu quả
nhất, giúp ta có thể tiến bộ hơn trong học tập.
Gợi ý tham khảo
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi mọi người phải vận
động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà tinh thần tự học có vai trò vô cùng
quan trọng .
Trước hết ta phải hiểu “ tự học ” là như thế nào? Nếu học là quá trình tìm hiểu, thu nhận kiến
thức và hình thành kỹ năng của bản thân thì tự học là sự chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu,
lĩnh hội tri thức và hình thành kỹ năng cho mình. Quá trình tự học cũng có phạm vi khá rộng:
khi nghe giảng, đọc sách hay làm bài tập, cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo nhằm rút ra
những điều cần thiết, hữu ích cho bản thân. Tự học cũng có nhiều hình thức: có khi là tự mày
mò tìm hiểu hoặc có sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo …Dù ở hình thức nào thì sự chủ
động tiếp nhận tri thức của người học vẫn là quan trọng nhất
Phải tự học mới thấy hết những ý nghĩa lớn lao của công việc này. Tự học giúp ta nhớ lâu và
vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống. Không những thế tự
học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người
13
khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân .
Tự học là một công việc gian khổ, đòi hỏi lòng quyết tâm và sự kiên trì. Càng cố gắng tự học
con người càng trau dồi được nhân cách và tri thức của mình .Chính vì vậy tự học là một việc
làm độc lập gian khổ mà không ai có thể học hộ , học giúp. Bù lại, phần thưởng của tự học thật
xứng đáng: đó là niềm vui, niềm hạnh phúc khi ta chiếm lĩnh được tri thức. Biết bao những con
người nhờ tự học mà tên tuổi của họ được tạc vào lịch sử. Hồ Chí Minh với đôi bàn tay trắng ra
đi từ bến cảng nhà Rồng, nhờ tự học Người biết nhiều ngoại ngữ và đã tìm được đường đi cho cả
dân tộc Việt Nam đến bến bờ hạnh phúc. Macxim Gorki với cả một thời thơ ấu gian khổ, không
được đi học, bằng tinh thần tự học ông đã trở thành đại văn hào Nga. Và còn rất nhiều những
tấm gương khác nữa: Lê Quí Đôn, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền …Nhờ tự học đã trở thành bậc
hiền tài, làm rạng danh cho gia đình quê hương xứ sở .
Việc tự học có ý nghĩa to lớn như vậy nên bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng cho mình tinh
thần tự học trên nền tảng của sự say mê, ham học, ham hiểu biết, giàu khát vọng và kiên trì trên
con đường chinh phục tri thức. Từ đó bản thân mỗi con người cần chủ động, tích cực, sáng tạo,
độc lập trong học tập. Có như vậy mới chiếm lĩnh được tri thức để vươn tới những ước mơ, hoài
bão của mình .
Càng hiểu vai trò và ý nghĩa của việc tự học, em càng cố gắng và quyết tâm học tập hơn. Bởi
tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện
thực. Có lẽ bởi vậy mà Lê-nin đã từng đặt ra một phương châm : “ Học, học nữa, học mãi”.
Đề 11: Suy nghĩ của em về nạn bạo hành trong gia đình và xã hội.
Gợi ý tham khảo.
1. Giải thích thế nào là bạo hành (Bạo hành là một hành động vũ phu, bất chấp công lí, đạo lí
làm tổn thương đến tinh thần và thể xác của người khác).
2. Những biểu hiện của nạn bạo hành ngày nay: Lăng mạ, day nghiến, xúc phạm, chà đạp, đánh
đập, tra tấn,..
Thực trạng ngày nay: nạn bạo hành diễn ra không ít, ở nhiều nơi (dẫn chứng thực tế)
3. Bạo hành là một hành động xấu xa, cần lên án
- Bạo hành trong gia đình gây nên mối bất hòa làm ảnh hưởng đến sự bền vững của gia đình, ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ em, tổn thương tình cảm và lòng tự trọng.
- Bạo hành trong xã hội ảnh hưởng đến tâm lí, nhận thức & ứng xử của con người.
4. Thái độ của bản thân trước nạn bạo hành hiện nay.
5. Bài học nhận thức về nạn bạo hành trong gia đình và xã hội.
16
CHỦ ĐỀ 2: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÝ
I. Kiến thức, kỹ năng:
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo
đức, lối sống … của con người.
- Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lí bằng
cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích … để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai)
của một tư tưởng nào đó, nhằm khẳng định tư tưởng của người viết.
- Về hình thức, bài viết phải có bố cục ba phần; có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ; lời văn chính
xác, sinh động.
- Dàn bài chung:
+ Mở bài: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
- Dẫn dắt vấn đề.
- Nêu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn.
+ Thân bài:
Giải thích, chứng minh nội dung vấn đề tư tưởng đạo lí.
Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trong bối cảnh của cuộc sống riêng, chung.
- Giải thích: nghĩa đen và cả nghĩa bóng
- Bình luận: phân tích, lý giải, mổ xẻ vấn đề thành nhiều khía cạnh bằng nhiều câu hỏi
khác nhau như:
+ Nói như thế có nghĩa là gì?
+ Vì sao lại nói như vậy?
+ Nói như vậy để làm gì?
(Phải có dẫn chứng minh họa cho từng câu hỏi)
- Phần luận:
+ Mở rộng, nâng cao vấn đề.
+ Lật ngược vấn đề.
+ Liên hệ bản thân.
+ Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động.
- Cách viết :
a. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận.
- Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn.
- Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b. Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí này).
- Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai lệch (nếu có).
- Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động.
- Lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu).
c. Kết bài
Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để
mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
Mở rộng cách viết đoạn thân bài cho bài văn nghị luận một vấn đề tư tưởng đạo lí:
17
a. Những điều chú ý:
- Trong văn nghị luận thường xây dựng câu chủ đề, có thể đặt đầu hoặc cuối đoạn, nghĩa là có
thể trình bày đoạn văn theo diễn dịch hoặc quy nạp. Cũng có khi các đoạn văn không có câu chủ
đề nghĩa là các đoạn này ngang hàng nhau về ý.
- Cần sử dụng các phương tiện để liên kết đoạn tốt.
- Mỗi đoạn văn thường giải quyết một vấn đề.
b. Dàn ý chung phần thân bài:
* Giải thích vấn đề: (nghĩa đen, nghĩa bóng)
* Bình luận vấn đề:
- Đánh giá vấn đề (bình):
Đối với vấn đề hoàn toàn đúng:
+ Đúng như thế nào?
+ Khía cạnh 1.
+ Khía cạnh 2.
Dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích làm rõ vấn đề.
Đối với vấn đề vừa đúng vừa sai:
+ Chỉ rõ điểm nào đúng?
+ Đúng trong trường hợp nào?
+ Đúng ở thời điểm nào?
+ Đúng với loại người nào?
Dùng lí lẽ, dẫn chứng phân tích làm rõ vấn đề.
+ Vì sao đúng?
+ Vì sao sai?
+ Chỉ rõ điểm sai?
Dùng lí lẽ, dẫn chứng làm rõ vấn đề.
Đối với vấn đề hoàn toàn sai:
+ Sai như thế nào?
+ Khía cạnh 1.
+ Khía cạnh 2.
Dùng lí lẽ, dẫn chứng để phân tích làm rõ.
+ Tại sao sai?
+ Khía cạnh 1.
+ Khía cạnh 2.
Dùng lí lẽ, dẫn chứng để phân tích làm rõ.
- Bàn luận, mở rộng vấn đề (luận)
+ Xem xét vấn đề trong hoàn cảnh khác nhau.
+ Nêu những quan điểm trái ngược nhau để tranh luận.
+ Mở rộng liên hệ với những vấn đề khác.
18
II. Vận dụng làm bài tập:
Đề 1: Suy nghĩ của em về tác hại của thuốc lá.
Gợi ý tham khảo.
a. Mở bài: Nêu vấn đề và sự cần thiết phải bày tỏ ý kiến cá nhân về vấn đề đó.
b. Thân bài:
* Bày tỏ suy nghĩ:
- Những hiểu biết về thuốc lá và thực trạng hút thuốc lá:
+ Là sản phẩm gây độc hại cho sức khoẻ con người.
+ Đã có từ lâu, nhiều người dùng, ở nhiều lứa tuổi, nhiều nơi.
+ Là vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm.
- Nguyên nhân hút thuốc lá:
+ Do thói quen và xã giao trong giao tiếp.
+ Do làm việc căng thẳng mệt mỏi.
+ Do môi trường sống, lao động và công tác.
+ Do đua đòi, bắt chước.
- Tác hại:
+ Ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tuổi thọ người hút thuốc lá.
+ Vô tình, gián tiếp làm hại sức khoẻ những người xung quanh.
+ Ảnh hưởng đến hiệu quả lao động.
+ Tiêu tốn tiền bạc của cá nhân và cộng đồng, làm nảy sinh những tác hại khác.
+ Là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tử vong.
* Những đề xuất:
- Cần có những biện pháp cụ thể của cộng đồng và cá nhân nhằm giải quyết vấn đề này.
(Tuyên truyền, ngăn cấm, ....)
- Xác định trách nhiệm: Không hút thuốc lá, vận động mọi người không hút thuốc lá.
c. Kết luận: Nêu nhận thức và hành động đúng.
19
- Vàng (kim loại Vàng) dù quí nhưng người ta có thể mua, trao đổi để có được thứ kim loại
quí này (có thị trường và có thể mua bán được) nhưng thời gian thì không có gì mua được. Thời
gian quí giá vô cùng (vô giá).
- Thời gian là sự sống cho mỗi con người, mỗi sinh vật, thời gian sống một đi không trở
lại (giới hạn). Không biết quí trọng thời gian, con người sẽ hối tiếc.
- Thời gian là quí giá với tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực đời sống, nghề nghiệp …
- Thời gian là hiểu biết, là vốn sống được tích luỹ, mở rộng theo ngày tháng và sự chuyên
cần.
- Thời gian quí giá hơn mọi thứ nên mỗi người (đặc biệt là học sinh đang học tập ở nhà
trường) phải quí trọng thời gian. Biết sử dụng thời gian hợp lý, tận dụng thời gian sẽ làm được
nhiều điều có ích cho bản thân và xã hội (học sinh có thể dùng dẫn chứng để minh họa).
Đề 3: Dân gian ta có câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Nhưng có bạn lại
bảo: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Ý kiến em thế nào?
Gợi ý tham khảo.
Mở bài:
Dân gian ta có câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Tôi thấy ý nghĩa câu này rất
đúng với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, trong lớp tôi lại có một vài bạn cho rằng: “Gần mực
chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng” nên tôi thấy cần phải viết bài này để tranh luận
cùng các bạn đó.
Thân bài:
Trước hết, tôi xin làm sáng tỏ ý nghĩa câu tục ngữ này. Câu này có hai nghĩa. Nghĩa đen: nếu ta
tiếp xúc với mực, loại mực có màu đen dùng để viết chữ Hán thời xưa, thì tay ta, quần áo của ta
rất dễ bị dây vết mực đen; còn nếu ta gần một ngọn đèn đã được thắp lên thì ta sẽ nhận được một
phần ánh sáng đèn. Còn nghĩa bóng của câu là: trong cuộc sống nếu ta luôn luôn gần gũi, tiếp
xúc với người xấu, ta luôn sống trong một môi trường xấu thì ta cũng rất dễ lây nhiễm những cái
xấu; ngược lại, nếu ta luôn luôn gần gũi, quan hệ với người tốt, ta luôn được sống trong một môi
trường tốt đẹp, lành mạnh thì ta cũng dễ học tập được những điều tốt đẹp.
Nghĩa của câu tục ngữ trên quá rõ ràng đối với chúng ta. Tôi cho rằng mấy bạn còn nghi ngờ
tính chân thực của nó là do các bạn chưa suy xét vấn đề thực thấu đáo. Chắc các bạn đã nghĩ:
mình cứ gần gũi kẻ xấu nhưng mình nhất quyết không làm theo chúng thì làm sao mà “đen”
được; mình tiếp xúc với người tốt nhưng chẳng thích học theo anh ta thì sao mà “rạng” lên đây?
Tôi thấy đó là một cách nghĩ hết sức chủ quan. Trong thực tế hiện nay, một số thanh niên chơi
bời giao du với bọn trộm cắp, bọn xì ke ma tuý và chỉ một thời gian ngắn sau đó, họ cũng trở
thành dân trộm cắp, họ cũng trở thành “tù binh” của ma tuý xì ke. Một số cô gái ở quê ra thành
phố thích giao du với những kẻ ăn chơi đàng điếm có vẻ như rất giàu sang, lắm tiền nhiều bạc
thì cũng rất dễ trở thành gái nhảy, gái “bán hoa”, một nghề bị gia đình và xã hội phản đối, lên
án. Đọc truyện Chí Phèo của Nam Cao, tôi thấy anh Chí vốn là một nông dân rất hiền lành,
lương thiện nhưng rồi anh bị ném vào tù, luôn tiếp xúc với bọn lưu manh trong một môi trường
đày thù hận, và kết quả là khi ra tù, anh trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại làm hại cả những
gia đình lương thiện trong làng khiến cho bao cơ nghiệp nát tan, bao nhiêu nước mắt và máu
phải đổ xuống. Đọc báo chí ngày nay ta cũng được biết: có rất nhiều thanh niên nghiện ngập đã
đi cai nghiện thành công trở về nhưng lại lân la đến chỗ bạn bè nghiện ngập cũ rồi “ngựa quen
đưòng cũ”, lại tái nghiện, lại trở lại con đường hút chích.
20
Có bạn nói khi gần kẻ xấu nhưng quyết không học theo cái xấu của bọn chúng. Xin hỏi rằng
các bạn đã thực sự có được cái bản lĩnh vững vàng ấy chưa? Nhiều người gần bọn xấu, cũng
thấy điều xấu là không nên làm nhưng rồi bị bọn xấu ép buộc, đe doạ, lừa vào bẫy và cuối cùng
trở nên một phần tử xấu. Còn gần “đèn” mà không được tiếp nhận một chút ánh sáng nào ư? Đó
là do các bạn hoặc do kiêu căng, tự ái, hoặc do thiếu ý chí, thiêú nghị lực nên đã không học theo
cái tốt.
Tóm lại, tôi thấy câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” là hoàn toàn đúng chỉ có
mấy bạn phản bác lại nó là sai thôi.
Kết bài:
Câu tục ngữ này đúng là một lời răn dạy hết sức đúng và hay. Chúng ta cần suy nghĩ về nó để
tìm một môi trường tốt đẹp mà sống và quyết xa lánh môi trường xấu.
Đề 4: Suy nghĩ của em về câu tục ngữ: Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Gợi ý tham khảo.
Người Việt Nam ta, hầu như ai cũng biết câu tục ngữ rất quen thuộc “Có công mài sắt, có
ngày nên kim”. Câu này cùng với một số câu khác có ý nghĩa tương tự như “Có chí thì nên”,
“Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Năng nhặt chặt bị” … đã khẳng định điều này: kiên trì, nhẫn nại,
bền lòng, quyết chí chắc chắn sẽ giúp cho con người thành công trong cuộc sống.
Thật vậy, chúng ta hãy nhìn lại một số nhân vật tiêu biểu để thấy cuộc đời họ đã thể hiện sâu
sắc chân lí “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.
Mạc Đĩnh Chi, con nhà nghèo, ban ngày còn phải làm ăn kiếm sống chỉ tối đến mới có thời
gian học tập. Nhưng tiền mua dầu thắp đèn không có, cậu bé họ Mạc phải bắt đom đóm bỏ vào
vỏ trứng rồi soi lên trang sách mà đọc chữ. Với ngọn đèn đom đóm ấy, cậu vẫn miệt mài học tập
và đến khoa thi năm 1304 cậu đã thi đỗ trạng nguyên rồi trở thành một vị quan có tài năng lớn
trong triều nhà Trần.
Vào thời nhà Nguyễn, Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng là học giỏi, văn hay nhưng đến khi đi thi, do
viết chữ quá xấu, thần Siêu bị đánh tụt xuống hàng thứ hai trong bảng cử nhân. Khi đi thi tiến sĩ,
cũng do chữ xấu, ông chỉ được xếp trúng tuyển trong bảng phụ. Ông thấy rõ tác hại của việc viết
chữ xấu nên đã về nhà ngày đêm khổ công tập viết. Cuối cùng chữ của ông cũng đẹp nổi tiếng
như lời văn hay. Ngày nay, bút tích ghi lại nét chữ đẹp của ông còn lưu lại ở đền Ngọc Sơn – Hà
Nội, được nhiều người chiêm ngưỡng và bái phục.
Gần đây hơn, ta đều biết Nguyễn Ngọc Kí bị liệt cả hai tay, phải tập viết bằng chân mà vẫn tốt
nghiệp đại học.
Nhìn ra nước ngoài, ta thấy các nhà khoa học nổi danh như Niutơn, Lui Paxtơ đều là những
tấm gương kiên trì về học tập và nghiên cứu. Niutơn, sinh trong một gia đình nông thôn ở nước
Anh, mãi năm 12 tuổi mới được ra thành phố học và kết quả học tập năm đầu chỉ đạt mức trung
bình. Đến cuối năm thứ hai cậu bị một anh bạn học giỏi nhất lớp bắt nạt. Cậu tức quá, quyết tâm
học giỏi hơn anh ta để “trả thù”. Sau đó, cậu say mê làm việc, miệt mài đọc sách và trở nên giỏi
nhất lớp. Năm 16 tuổi, Niutơn lại phải nghĩ học về quê sống với mẹ. Bà mẹ muốn hướng cậu
vào công việc làm ăn nhưng cậu chẳng thiết tha gì mà chỉ chăm chú tìm sách đọc. Năm sau, nhờ
sự góp ý của ông chú, bà mẹ cậu lại cho cậu vào Đại học. Ở đây, Niutơn đã bỏ hết thời gian vào
việc học tập, nghiên cứu và cuối cùng ông đã trở thành một nhà bác học vĩ đại của thế giới.
Về Lui Paxtơ, khi đi học phổ thông, ông cũng chỉ là một học sinh trung bình. Xếp hạng môn
Hoá, ông đứng thứ 15 trong tổng số 22 học sinh của lớp. Nhưng sau này, nhờ kiên trì tự học, tìm
21
tòi, thí nghiệm và nghiên cứu, ông đã trở thành một nhà bác học lớn của nhân loại, có công phát
minh ra thuốc chữa bệnh chó dại cứu sống hàng triệu người trên trái đất.
Qua một vài tấm gương tiêu biểu trên đây, ta có thể rút ra kết luận: chỉ có kiên trì, nhẫn nại,
bền lòng, quyết chí, con người mới có thể làm nên sự nghiệp giống như người bền bỉ mài mãi
một miếng sắt để làm nên một cây kim.
Nếu thiếu sự kiên trì, bền chí thì mỗi người làm sao có thể vượt qua trăm ngàn trở ngại luôn
chắn ngang con đường đi tới của mình? Sự nãn chí, thiếu nhẫn nại, vững lòng chỉ dẫn tới đầu
hàng và thất bại.
Tóm lại, điều mà câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim” muốn nhắn nhủ mọi người
là quá đúng đắn và xác thực. Chính là từ rất nhiều kinh nghiệm sống mà nhân dân ta đã đúc kết
nên câu tục ngữ trên. Mỗi chúng ta có thể ngẫm nghĩ về câu tục ngữ này để xem đó là một bài
học rất quý giá giúp cho ta trau dồi ý chí nhằm vươn lên, tiến tới trong học tập, trong cuộc sống.
Đề 10: “Ôi, sống đẹp là thế nào hỡi bạn” (Một khúc ca – Tố Hữu). Quan niệm của anh chị về
sống đẹp.
Gợi ý tham khảo.
I . Tìm hiểu đề
- Câu thơ của Tố hữu viết dưới dạng câu hỏi , nêu lên vấn đề sống đẹp của con người , vấn đề
mà mỗi cá nhân cần nhận thức đúng đắn và rèn luyện một cách tích cực .
-Với thanh niên , học sinh ngày nay , sống đẹp là sống không ngừng học tập mở mang kiến thức
, rèn luyện hoàn thiện nhân cách , trở thành người có ích .
- Để sống đẹp , con người cần :
+ xác định lí tưởng , mục đích sống đúng đắn , cao đẹp .
+ bồi dưỡng tâm hồn , tình cảm lành mạnh , nhân hậu .
+ làm cho trí tuệ , kiến thức mỗi ngày thêm mở rộng , sáng suốt .
+ cần hành động tích cực , lương thiện , có tính xây dựng …
- Với đề bài này , có thể vận dụng các thao tác lập luận như : giải thích thế nào là sống đẹp ;
phân tích các khía cạnh biểu hiện của lối sống đẹp ; chứng minh , bình luận bằng việc nêu gương
những cá nhân , tập thể sống đẹp ; bàn cách thức rèn luyện cách sống sao cho đẹp ; bác bỏ lối
sống ích kỷ , vô trách nhiệm , thiếu ý chí nghị lực …
- Bài viết có thể dùng tư liệu thực tế , có thể lấy dẫn chứng trong văn học
II . Lập dàn ý
1. Mở bài .
- Giới thiệu , dẫn dắt để nêu vấn đề .
+ trực tiếp : nêu ngay câu thơ của Tố Hữu và nội dung , mục đích của câu thơ .
+ gián tiếp : lựa chọn lối sống là vấn đề vô cùng khó khăn , đặc biệt đối với bạn trẻ
+ phản đề : nêu thực trạng một bộ phận thanh thiếu niên sống ích kỷ , trục lợi .
- Nêu vấn đề : vấn đề sống đẹp mà câu thơ của Tố Hữu đưa ra là vấn đề mỗi con người cần nhận
thức và rèn luyện một cách đúng đắn , tích cực .
2. Thân bài
26
a. Giải thích nội dung , ý nghĩa câu thơ của Tố Hữu .
- Câu thơ của Tố Hữu viết dưới dạng một câu hỏi , nêu lên vấn đề sống đẹp trong cuộc sống mỗi
con người .
- Sống đẹp là một đòi hỏi tất yếu của loài người từ khi xã hội xuất hiện nền văn minh , văn hóa .
- sống đẹp là : sống có ý nghĩa , sống có ích cho cộng đồng , quốc gia dân tộc , sống khẳng định
năng lực bản thân, giá trị của mỗi cá nhân ; sống khiến người khác cảm phục, yêu mến , kính
trọng , noi theo ; sống với tâm hồn , tình cảm nhân cách , suy nghĩ khát vọng chính đáng , cao
đẹp .
- Câu thơ của Tố Hữu là lời chất vấn, thực chất là lời nhắc nhở định hướng con người cần rèn
luyện cách sống đẹp .
b. Biểu hiện của lối sống đẹp
- Sống có lý tưởng, mục đích đúng đắn, cao đẹp :
+ Sống tự lập, có ích cho xã hội .
+ sống biết dung hòa lợi ích bản thân và cộng đồng .
+ Sống có ước mơ, khát vọng, hoài bão vươn lên, khẳng định giá trị, năng lực bản thân.
- Sống có tâm hồn, tình cảm lành mạnh, nhân hậu :
+ Hiếu nghĩa với người thân
+ Quan tâm, yêu thương, chia sẻ với những người xung quanh .
+ Dũng cả, lạc quan, giàu ý chí, nghị lực .
+ Không chạy theo lối sống lập dị, không phù hợp với truyền thống, thẩm mĩ, văn hóa dân tộc .
- Sống không ngừng học hỏi, mở mang trí tuệ, bồi bổ kiến thức :
+ Học để biết, để có kiến thức về các lĩnh vực xã hội, để khám phá chính mình .
+ Học để sống có văn hóa, tiến bộ .
+ Học để làm , để chung sống , để khẳng định chính mình .
- Sống phải hành động lương thiện , tích cực :
+ Không nói suông mà phải có hành động cụ thể để chứng tỏ lối sống đẹp
+ hành động cần có tính xây dựng, tránh vì lợi ích cá nhân mà gây bất lợi cho lợi ích tập thể .
c. Phê phán quan niệm và lối sống không đẹp .
- Thói ích kỷ , vụ lợi không những làm cho con người nhỏ nhen , ti tiện , vô cảm mà còn gây
những hậu quả xấu cho xã hội : như nạn tham ô , phạm pháp , …
- Thói sống buông thả , tùy tiện , thiếu lý tưởng dẫn đến tình trạng tha hóa nhân cách , sống vô
nghĩa , không có mục đích , vô giá trị , sống thừa .
- Thói lười nhác trong lao động , học tập dẫn đến ngu dốt , thiếu kỹ năng sống , kỹ năng làm
việc và quan hệ xã hội .
- Sống vô cảm , thiếu tình yêu thương , lòng trắc ẩn … dẫn đến cô độc , thiếu tính nhân văn .
d. Phương hướng rèn luyện lối sống đẹp.
- Tích cực học tập trong cuộc sống , lịch sử , sách vở .
- Xác định mục đích sống rõ ràng .
- Rèn luyện đạo đức , tinh thần lao động , mở mang tri thức .
3. Kết bài .
- Khẳng định ý nghĩa tích cực của lối sống đẹp .
+ Sống đẹp là chuẩn mực cao nhất của nhân cách con người, là tiêu chí đánh giá giá trị con
người .
+ Câu thơ của Tố Hữu có ý nghĩa nhắc nhở, gợi mở về lối sống đẹp, nhất là cho thế hệ trẻ ngày
nay .
27
Tham khảo thêm: Thế nào là sống đẹp.
Trước hết cần phải hiểu từ “sống" không phải là một khái niệm tồn tại đơn thuần. "Tồn tại
nhưng phải để cho người khác biết có sự tồn tại của mình tức là phải thể hiện rằng "Tôi đang ở
đây! Tôi có mặt trên cõi đời này, bằng hành động trong cuộc sống chứ không phải chỉ lặng lẽ
như một cái bóng qua đêm rồi lại đến ngáy". Và mỗi người chọn cho mình những cách thể hiện
khác nhau hình thành lên những cách sống khác nhau: sống đẹp, sống có ích và lối sống ích kỷ,
buông thả thậm chí chìm trong vòng tội lỗi. Như vậy “sống đẹp" là một lối sống tích cực mà mỗi
người cần phải hướng tới. Nhưng sổng thế nào mới là lối "sống đẹp”, còn là điều băn khoăn của
rất nhiều người.
“Đẹp” không phải chỉ là cái đẹp hình thức. Cái "đẹp" thể hiện từ những hành động cư xử nhỏ
nhất trong cuộc sống đến nghị lực vươn lên trong mỗi con người. "Sống đẹp" trước hết phải xuất
phát từ lòng nhân ái, từ chính tình yêu trong trái tim để từ đó mà sống hết mình vì người khác,
để bao dung, thứ tha ... Xuất phát từ tình yêu thương nên bất cứ hành động nào dù là nhỏ nhất
cũng đầy sự quan tâm, chia sẻ giữa những con người. Một sáng đến trường, bạn không sợ muộn
học mà dừng lại giúp một cụ già qua đường. Mỗi ngày dành dụm tiền để ủng hộ quỹ "Vì người
nghèo". Những hành động ấy dù nhỏ nhặt nhưng đều là những nghĩa cử cao đẹp.
Lại nhớ đến hơn 30 năm trước đây, người con gái Hà Nội Đặng Thuỳ Trâm xung phong vào
chiến trường Quảng Trị gian khổ bản thân chịu những thiệt thòi nhưng chị vẫn dành một tình
thương bao la cho những người quanh chị. Bất lực trước một ca mổ, chị đau đớn, lo lắng cho
người em nuôi giờ này đang đè nặng tang tóc, đêm chị mất ngủ.
Tất cả những điều ấy đều xuất phát từ lòng yêu thương trong trái tim chị! Để chính từ những
lo lắng, đớn đau ấy dân tộc Việt Nam có một người con anh dũng, kiên cường tận tụy làm người.
Đó là chuyện của 30 năm trước, còn giờ đây có biết bao người ngày đêm nhen lên ngọn lửa tình
yêu thương trên cõi đời này. Một nhà giáo già ngày ngày đạp xe khắp chốn bán những bức hình
cụ Rùa Hồ Gươm mà thầy vô tình chụp được để lấy tiền góp vào quỹ "Vì người nghèo". Bao
nhà hảo tâm, bao con người có mỗi năm lại lắng lòng mình nhớ đến những người còn trong đói
khổ bần cùng.
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ tạo nên muôn nghìn gương mặt con người khác nhau: có
người tốt, kẻ xấu, có những người từng gây ra tội ác. Nhưng không có ai chưa từng sai lầm. Dẫu
có lầm lạc bước vào ngõ cụt vẫn có thể quay đầu lại. Chúng ta vẫn luôn dang tay chờ đón một
con người mới ở những người từng mắc tội. Mỗi dịp lễ lớn, không chỉ những người ngoài khung
sắt nhà lao mới náo nức chờ đợi mà những người ở trong cũng vui mừng vì mỗi dịp ấy họ lại có
cơ hội được ân xá, được trở về với người thân, bè bạn. Chào đón họ bằng lòng bao dung tha thứ,
tin vào một sự thay đổi ở họ đó cũng là "sống đẹp". Chính nhờ có lòng yêu thương mà không ít
người tìm lại được chính mình. Có một nhà thơ với bút danh "Hoàn Lương" từng nửa đời làm
tướng cướp trên những chuyến tàu Đà Nẵng - Nha Trang, làm đại gia buôn lậu xảo quyệt, thi
nhân ấy tên là "Nguyễn Đức Tân" (Đông Mỹ - Thanh Trì - Hà Nội). Nửa đời làm việc thất đức
nhưng trong trại giam được nghe lời khuyên nhủ tâm tình của giám thi, như người tỉnh cơn mê
anh tâm sự:
“Đêm đêm nghe tiếng vọng vang
Tiếng ngoài xã hội rộn ràng trong đêm
Đã buồn lại thấy buồn thêm
Khát thèm cuộc sống ấm êm ngoài đời”
Và cuộc đời của tên tướng cướp ấy rẽ sang một ngả khác khi mãn hạn tù, anh trở thành một
nhà thơ, một thành viên của đội Công an xã. Khi được hỏi làm thế nào mà cá sự thay đổi lớn
28
trong anh như vậy, tướng cướp, thi nhân ấy trả lời nhờ có sự bao dung, tình yêu của người vợ
hiền và của tất cả mọi người.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết "Sống trên đời cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết
không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…". Gió sẽ cuốn những tấm lòng thảo thơm gieo tình yêu
khắp muôn nơi, mang lại ánh sáng cho miền đất tăm tối, mang lại hạnh phúc cho những người
cùng khổ. Mỗi chúng ta, hãy gửi theo gió tấm lòng mình để cứu giúp bao người và để chính
chứng ta là những con người có lối "sống đẹp”.
“Cuộc sống không có con đường cùng - chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải làm sao
để vượt qua được những ranh giới ấy” (Nguyễn Khải). Cuộc sống luôn chứa đựng những thử
thách, và không ai là không vấp ngã một lần. Vậy nhưng sau cú ngã đau đớn ấy, bạn làm gì mới
là điều đáng nói. Trong đầu tôi cứ thể hiện lên hình ảnh con lật đật nhỏ bé miệng luân nở nụ
cười và lần nào vấp ngã cũng bật dậy, trên môi vẫn là nụ cười lạc quan. Đã bao giờ bạn được
như con búp bê ấy, kiên cường và nghị lực?... Đọc Đặng Thuỳ Trâm, những dòng tâm sự của
chị, từng câu từng chữ bao giờ cũng tràn ngập một lòng ham sống phi thường. "Đời phải trải qua
giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giông tố ". Câu nói tâm đắc ấy của chị, giờ đây, mỗi chúng ta
cũng phải lấy đó làm châm ngôn sống cho cuộc sống của mình.
Tôi được nghe thầy dậy Hoá kể câu chuyện về người học trò cũ của thầy. Anh là một học sinh
chăm ngoan, học giỏi, luôn nằm trong nhóm đầu. Vậy nhưng trong kỳ thi Đại học quan trọng
anh lại trượt điều tưởng như không thể đã xảy ra. Đau buồn, thất vọng về chỉnh mình, cuộc sống
của một thanh niên 18 tuổi lúc ấy chỉ toàn một màu đen khi bao hứa hẹn tương lai, kỳ vọng của
gia đình, thầy cô đều sụp đổ. Không chịu giam mình trong màn đêm, anh tự mình thắp lên ngọn
nến niềm tin và tiếp tục học tập hết mình. Anh đã đỗ vào năm sau với một số điểm cao. Dù so
với bạn bè, anh là người đến sau nhưng anh lại là người đạt được chiến thắng lớn nhất: Chiến
thắng chính mình, cuộc sống với những ranh giới của nó luôn bao quanh bạn. Nếu không có
nghị lực làm sao bạn có thể đi hết được con đường của riêng mình ? Từ số 1 đến số 0 chỉ trong
gang tấc nhưng khoảng cách từ số 0 đến số 1 trên trục đời là cả một quá trình mà nếu không có
niềm tin, nghị lực, bạn sẽ mãi chỉ là con số 0 mà thôi. Hãy là một người bộ hành với đôi chân
dẻo dai sẵn sàng đạp lèn mọi chông gai để bước đi: "Chặng đường nào trải bước trên hoa hồng,
bàn chân cũng thấm đau vô vàn những mũi gai” - Lời bài hát của ban nhạc tôi yêu thích cứ văng
vẳng bên tai. Bàn chân có thể sẽ chảy máu vì gai nhọn nhưng đừng ngồi xuống rên xiết, hãy để
máu ấy thấm lên những cánh hồng đỏ thắm trên bước đường vinh quang của bạn! Làm được như
vậy tức là bạn đang "sống đẹp", sống và luôn giữ cho mình một niềm tin vào ngày mai, luôn có
một nghị lực vươn lên hướng đến ánh mặt trời.
Tôi từng đọc một bài thơ nghe qua tưởng chỉ là thơ vui nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc:
"Khi anh sinh ra
Mọi người đều cười
Riêng anh thì khóc tu tu
Hãy sống sao để khi chết đi
Mọi người đều khóc
Còn môi anh thì nở nụ cười”
Bạn và tôi, hãy tự chiêm nghiệm cho mình lối sống đẹp để khi ở cuối con đường, chúng ta đều
mỉm cười mãn nguyện!
Đề 11: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình,Tổng thống Mỹ A. Lin-côn (1809-
1865) viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi
thi”. (Theo Ngữ văn10, tập 2, NXB Giáo dục, 2006, tr. 135). Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết 1
29
bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong
khi thi và trong cuộc sống.
Gợi ý tham khảo:
- Dẫn dắt, nêu đúng yêu cầu của đề: bàn luận về đức tính trung thực trong thi cử và trong cuộc
sống.
- Trình bày thực trạng thiếu trung thực:
+ Trong thi cử, hiện tượng gian lận ngày càng phổ biến về đối tượng, tinh vi về hình thức,
nghiêm trọng về mức độ.
+ Trong cuộc sống, sự gian dối thiếu trung thực cũng rất phổ biến từ gia đình đến xã hội , với
mọi lứa tuổi…
Điều đó làm ảnh hưởng tới đạo đức xã hội, phần nào làm đổ vỡ niềm tin củacon người vào
những giá trị tốt đẹp, cản trở sự phát triển bền vững củađất nước.
- Sự cần thiết của việc giáo dục, rèn luyện đức tính trung thực trong thi cử và trong cuộc sống:
+ Trung thực là ngay thẳng, thật thà, đúng với sự thật, không làm sai lạcđi. không gian dối , thể
hiện đúng trình độ năng lực của mình….
+ Trung thực đánh giá đúng hiệu qủa giáo dục, giúp cho người học , người day, các cơ quan
quản lí nắm đúng thực trang để đề ra các biện pháp phù hợp.
+ Trung thực là một trong những đức tính nền tảng của đạo đức con người, xây dựng một xã hội
văn minh, thân thiện, đáng tin cậy…
- Biện pháp để giáo dục tính trung thực:
+ Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội…
+ Cần xử lí nghiêm với những biểu hiện thiếu trung thực, gian dối
+ Cần biểu dương những tấm gương trung thực, dám đấu tranh với những biểu hiện gian dối.
- Liên hệ rút ra bài học với bản thân.
Đề 14: Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên
định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống (Lép Tôn-xtôi).
Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói chung và trình bày lí tưởng riêng của
mình.
Gợi ý tham khảo.
a. Mở bài
- Giới thiệu về ý kiến của L.Tôn-xtôi.
- Nêu nội dung câu nói của L.Tôn-xtôi:
32
+ Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường ; không có lí tưởng thì không có cuộc sống.
+ Nâng cao vai trò của lí tưởng lên một tầm cao ý nghĩa của cuộc sống. Ở đây đòi hỏi phải giải
thích mối quan hệ giữa lí tưởng và ngọn đèn, phương hướng và cuộc sống.
- Yêu cầu của đề: suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói chung đối với mọi người và lí tưởng riêng
của mình.
b. Thân bài
- Giải thích câu nói của L.Tôn-xtôi về vai trò của lí tưởng đối với cuộc sống:
+ Lí tưởng là ước mơ, khát vọng định hướng cuộc sống. Lí tưởng xấu có thể làm hại cuộc đời
của một người và nhiều người. Không có lí tưởng tốt đẹp thì không có cuộc sống tốt đẹp.
+ Lí tưởng tốt đẹp, thực sự có vai trò chỉ đường vì đó là lí tưởng vì dân, vì nước, vì gia đình và
hạnh phúc bản thân. Lí tưởng tốt đẹp có vai trò chỉ đường cho chính sự nghiệp cụ thể mà mỗi
người theo đuổi: khoa học, giáo dục, an ninh, kinh doanh,…
- Nêu suy nghĩa tán thành hay không tán thành đối với ý kiến của nhà văn Nga.
- Nêu lí tưởng riêng của mình: vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi HS tốt nghiệp THPT là chọn
ngành nghề, một ngưỡng cửa để bước vào thực hiện lí tưởng.
c. Kết bài
Khẳng định vai trò của lí tưởng trong cuộc sống mỗi con người mỗi thế hệ, mỗi dân tộc.
Đề 16 : Viết một văn bản nghị luận (không quá 1 trang giấy thi), trình bày suy nghĩ về đức hi
sinh.
Tham khảo
Bàn về phẩm chất của con người thì đức hi sinh là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái, tình
yêu thương giữa con người với con người. Bởi đức hi sinh bao gồm trong đó lòng nhân ái và
tình yêu thương, tinh thần nhân đạo của con người. Nhưng đức hi sinh đòi hỏi con người phải
biết san sẻ
cuộc sống tinh thần và vật chất của mình cho người khác, cho đồng loại để họ có thể vượt qua
khó khăn trong cuộc sống.
Lịch sử của mọi tôn giáo trên thế giới, từ Gia tô giáo, Ki tô giáo, đạo Islam...đạo Phật đều
khuyên con người hãy sống nhân hậu, giữ gìn lòng nhân ái. Đạo Phật đề cao đức tính “ từ bi hỉ
xả” là đề cao đức hi sinh của con người. Con người sẵn sàng xả thân vì người khác. Xả thân vì
người khác là một cách tự nguyện và lấy đó làm niềm vui không một tính toán vụ lợi. Hi sinh vì
người khác, xả thân vì người khác cũng có khi là một hành động không vô tư mà có tính vụ lợi,
vị kỉ tức là nhằm cầu lợi cho mình. Đạo Nho cũng đề cao tinh thần vị tha, tức là hi sinh vì người
khác, đề cao đức hi sinh vì người khác.
Ngày nay, nói đến đức hi sinh, không phải chỉ nói tới một hành động hi sinh cụ thể nào vì một
con người cụ thể nào mà là nói tới phẩm chất đạo đức của con người. Phải xây dựng đức hi sinh
thành một thái độ sống, luôn quan tâm, sẻ chia, thậm chí xả thân vì người khác. Xây dựng đức hi
34
sinh thành một quan niệm sống, lẽ sống của con người. Xây dựng đức hi sinh ở mỗi con người
phải là cả một quá trình lâu dài từ lúc tấm bé đến lúc lớn lên, trưởng thành, từ việc nhỏ thường
ngày đến việc lớn trong cuộc sống, từ một hành vi nhường nhịn bạn bè đến việc hi sinh bản thân
mình cho đất nước, nhân dân...
Nếu trong xã hội ai cũng biết sống nhân ái, có đức hi sinh thì cuộc đời sẽ đẹp biết bao!
Đề 18: Chị (anh) hãy phân tích câu nói của Bác Hồ
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Từ đó rút ra kết luận cho bản thân.
Bài tham khảo:
a. Mở bài:
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta luôn quan tâm tới công tác chăm sóc, bồi dưỡng, giáo
dục. Cùng với việc nhấn mạnh đến vấn đề học tập của các thế hệ thanh, thiếu niên; Bác Hồ cũng
36
đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục đạo đức. Bác đã từng nói: “Đoàn viên và thanh niên ta nói
chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “ hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Cũng trong bài thơ “Nửa đêm” ( Nhật ký trong tù ) Bác
đã khẳng định:
39