Professional Documents
Culture Documents
Các thông số xét nghiệm acetylcholine receptor Ab (AChR) được tính bằng đơn vị nmol/l. Giá
trị bình thường của xét nghiệm là:
Đối với kháng thể kết hợp với thụ thể Achr (ở cơ): ≤ 0.02 nmol/L;
Đối với kháng thể có tác dụng thay đổi thụ thể Ach (ở cơ): Từ 0 – 20% ;
Đối với kháng thể ở cơ vân: < 1:60.
=>Do đó, khi bệnh nhân có kết quả bất thường bác sĩ cần nghĩ ngay đến các trường hợp
như: Bệnh nhược cơ, u tuyến ức ác tính, nhược cơ vòng mắt...
* giải thích xét nghiệm acetylcholine receptor Ab (AchR)
Kháng thể Acrh là những thụ thể được tạo bởi hệ miễn dịch của cơ thể bệnh nhân, nhằm vào
protein được gọi là thụ thể acetycholine được tìm thấy trên các sợi cơ xương.
Mục đích của thụ thể acetylcholine có chức năng như trạm kết nối một chất hóa học gọi là
acetylcholine. Acetylcholine có vai trò truyền tín hiệu giữa các tế bào cơ mà nó liên kết với thụ
thể và giúp khởi động các kháng thể co cơ cản trở sự liên lạc giữa dây thần kinh và xương cơ
bắp => gây ra mỏi cơ nhanh chóng.
Điện cơ (EMG)
Điện cơ sử dụng các kích thích lặp đi lặp lại (2 đến 3/giây) cho thấy sự giảm biên độ của phản
ứng ở cơ nghi ngờ > 10% ở 60% số bệnh nhân. Điện cơ sợi đơn có thể phát hiện sự truyền dẫn
thần kinh cơ bất thường trong > 95%.
Xét nghiệm thêm
Một khi chẩn đoán nhược cơ, phải chụp CT hoặc MRI ngực để kiểm tra sự tăng sản
tuyến giáp và tuyến ức.
Các xét nghiệm khác nên được thực hiện để sàng lọc các bệnh lý tự miễn thường liên
quan đến nhược cơ (ví dụ, thiếu máu ác tính , cường giáp tự miễn, viêm khớp dạng
thấp, Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) ).
Bệnh nhân trong cơn nhược cơ cần phải đánh giá yếu tố nhiễm khuẩn.
Đánh giá chức năng phổi tại giường (ví dụ FVC) giúp đánh giá suy hô hấp.
1. Điều trị triệu chứng (ức chế Acetylcholinesterase) làm tăng lượng Acetylcholine (ACh) có
sẵn tại synap thần kinh cơ.
Cơ chế tác dụng – Các thuốc ức chế acetylcholinesterase làm chậm quá trình thoái
hóa acetylcholine (ACh) xảy ra bằng cách thủy phân bằng enzym trong synap thần
kinh cơ. Do đó, tác dụng của ACh được kéo dài, dẫn đến cải thiện sức mạnh ở bệnh
nhân nhược cơ.( không phải là vô thời hạn.)
2. Các liệu pháp ức chế miễn dịch mạn tính (Glucocorticoid và các thuốc ức chế miễn dịch
không phải Steroid) để nhằm mục tiêu điều hòa rối loạn miễn dịch.
Sau khi còn chịu chứng khi sử dung điều trị đầu tiên. Glucocorticoid thường được sử dụng
ban đầu và nhiều bệnh nhân mắc nhược cơ toàn thân yêu cầu bổ sung thuốc chế miễn
dịch không steroid như Azathioprine hoặc Mycophenolate để duy trì và dự phòng tác
dụng phụ lâu dài của Glucocorticoid.
Song song với điều trị triệu chứng bằng Pyridostigmine và các thuốc ức chế miễn dịch cho bệnh
nhược cơ, cắt tuyến ức có vai trò điều trị ở một số bệnh nhân có chọn lọc.
Bệnh nhân có u tuyến ức: Khoảng 10 đến 15% bệnh nhân nhược cơ liên quan đến u
tuyến ức. Phẫu thuật cắt tuyến ức được chỉ định cho những bệnh nhân mà việc cắt bỏ
hoàn toàn được coi là khả thi. Xử trí bao gồm cắt bỏ hoàn toàn tuyến ức, đôi khi liên
quan đến hóa trị và xạ trị trong các trường hợp bệnh có khả năng cắt bỏ hoàn toàn
hoặc không thể cắt bỏ.
Bệnh nhân không có u tuyến ức: Nên cắt tuyến ức trong trường hợp không có u
tuyến ức ở những bệnh nhân nhược cơ toàn thân và kháng thể thụ thể Acetylcholine
(AChR) dương tính dưới 50 tuổi. Lợi ích của việc cắt bỏ tuyến ức có thể trì hoãn và
kéo dài trong vài năm sau phẫu thuật. Vai trò của phẫu thuật cắt tuyến ức đối với các
nhóm bệnh nhân khác, chẳng hạn như những người không có kháng thể AChR
dương tính, bệnh nhân lớn tuổi và những người nhược cơ thể mắt, còn nhiều tranh
cãi và các quyết định điều trị nên được cá nhân hóa.
4. Phương pháp điều trị điều hòa miễn dịch cấp nhưng tác dụng ngắn (thay huyết tương và
truyền globulin miễn dịch (IVIG) tĩnh mạch).
Thay huyết tương và truyền IVIG là liệu pháp cấp cứu hay cầu nối – liệu pháp thay
huyết tương (Plasmapheresis) hay truyền IVIG có tác điều hòa miễn dịch “nhanh
chóng” cho bệnh nhược cơ, nhưng lợi ích chỉ là ngắn hạn (vài tuần).
Các phương thức điều trị này được chỉ định trong các trường hợp sau:
Các đợt kịch phát cấp tính, bao gồm cả cơn nhược cơ.
Trước khi phẫu thuật, trước khi phẫu thuật cắt tuyến ức hoặc phẫu thuật khác.
Là “cầu nối” với các liệu pháp ức chế miễn dịch tác dụng chậm hơn cho những bệnh nhân
đặc biệt mong muốn tránh hoặc giảm thiểu sử dụng Glucocorticoid.