You are on page 1of 10

CHAPTER 59 Sandeep Duggal

SHOCK ĐIỆN CHUYỂN NHỊP


Dịch: Thái Ngân Hà

I. Giới thiệu. Phóng điện lên thành ngực để cắt các loạn nhịp tim là một kỹ thuật an
toàn và hiệu quả, được thực hiện thường quy ở hầu hết các bệnh viện. Shock điện
chuyển nhịp - CARDIOVERSION được định nghĩa là phóng năng lượng đồng bộ
với phức bộ QRS, trong khi phóng shock ngẫu nhiên trong chu kì tim (thường được
thực hiện để cắt rung thất) được gọi bằng Shock điện khử rung -
DEFIBRILLATION.

II. Cơ chế. Mặc dù từ lâu người ta đã biết áp dụng shock điện vào cơ tim có thể khôi
phục lại nhịp bình thường, tuy nhiên hiểu biết về cơ chế bên nền tảng bên dưới vẫn
chưa hiểu rõ ràng hoàn toàn. Phóng sốc điện nhanh làm khử cực các tế bào cơ tim
và tạo ra một vùng cơ tim có giai đoạn trơ kéo dài. Mô bị hoạt hóa trơ một cách đột
ngột với thời gian trơ kéo dài sẽ không thể lan truyền xung động điện, do vậy mà
cắt được cả các vòng vào lại lớn và nhỏ. Rung nhĩ và rung thất đã được đồng ý rộng
rãi là các nhịp có tính ổn định về điện cao và do vậy phải đòi hỏi năng lượng sốc
cao hơn để cắt chúng. Các dạng sóng thường dùng nhất trong khử rung ngoài là
dạng sóng đơn pha và dạng sóng 2 pha. Trong các dạng sóng 2 pha, thì, tính phân
cực tại mỗi bản cực làm đảo ngược lại dạng sóng khử rung. Sử dụng dạng sóng 2
pha trong shock điện chuyển nhịp và khử rung đã được chỉ ra là tăng hiệu quả và có
thể làm giảm sự phát triển của các loạn nhịp sau sốc.

III. Chỉ định và Chống chỉ định. Các chỉ định và chống chỉ định của shock điện
chuyển nhịp được liệt kê ra tại bảng 59.1 và 59.2. Shock điện chuyển nhịp không
nên được thực hiện ở những bệnh nhân có nhịp xoang hoặc các nhịp bất
thường thứ phát do tăng tính tự động (như, nhịp nhanh nhĩ đa ổ và nhịp bộ
nối). Nếu nhịp biểu hiện là rung thất hoặc nhanh thất có suy huyết động, thì
chống chỉ định duy nhất của khử rung là mong muốn của gia đình bệnh nhân
không muốn hồi sinh.

IV. Thủ thuật


A. Chuẩn bị bệnh nhân
1. Đồng ý sau khi giải thích nên đạt được từ bệnh nhân hoặc người thân (nếu
bệnh nhân không thể hiểu và đưa ra thông tin có nghĩa).
2. Trong những trường hợp được lựa chọn, bệnh nhân nên nhịn ăn tối thiểu 6
- 8 giờ.
3. Đánh giá lại về tiền sử và khám thực thể nên được thực hiện. Nên đặc biệt chú
ý đến đường thở. Không thể quan sát thấy lưỡi gà, không thể mở miệng ít nhất 2
cm giữa 2 răng, hoặc khó ngữa cổ là các yếu tố nguy cơ có thể làm cho việc

968
CHAPTER 59 | Electrical Cardioversion 969

Bảng 59.1 Chỉ định và chống chỉ định đối với shock điện chuyển nhịp

CHỈ ĐỊNH
Shock điện chuyển nhịp
1. Rung nhĩ/cuồng nhĩ
a. Bệnh nhân có rung nhĩ/cuồng nhĩ > 48 h (hoặc không rõ thời gian) và đã dùng kháng
đông > 3–4 wk (INR 2–3)
b. Rung nhĩ/cuồng nhĩ khởi phát cấp tính có suy huyết động:
1. Đau thắt ngực
2. Nhồi máu cơ tim
3. Phù phổi
4. Hạ huyết áp
5. Suy tim
c. Rung nhĩ/cuồng nhĩ không rõ thời gian khởi phát và không có huyết khối trong nhĩ
trái hoặc tiểu nhĩ trái trên siêu âm qua thực quản
d. Rung /cuồng nhĩ < 48 h → kháng đông không bắt buộc—phụ thuộc vào nguy cơ
2. Nhịp nhanh nhĩ
3. Nhịp nhanh vòng vào lại nhĩ thất (AVNRT)
4. Nhịp nhanh vòng vài lại liên quan đến Wolf­Parkinson­White syndrome
5. Nhịp nhanh thất
Khử rung
1. Rung thất
2. Nhanh thất có huyết động không ổn định

CHỐNG CHỈ ĐỊNH


Shock điện chuyển nhịp
1. Có huyết khối trong nhĩ và không phải là cấp cứu
2. Nhịp xoang/nhanh xoang
3. Nhịp nhanh liên quan đến tăng tính tự động
a. Nhanh nhĩ đa ổ
b. Nhanh bộ nối
4. Ngộ độc digitalis
5. Mất cân bằng điện giải nặng và không phải chỉ định cấp cứu
6. Rung nhĩ/cuồng nhĩ không rõ thời gian ở những bệnh nhân không dùng kháng
đông mà không có siêu âm qua thực quản
7. Bệnh nhân không thể an thần an toàn
Khử rung
1. Bệnh nhân trước đó mong muốn không được hồi sinh

INR, international normalized ratio.

đặt ống nội khí quản khó khăn hơn và có thể đề nghị sự có mặt của bác sỹ
gây mê trong khi làm thủ thuật.
4. Tình trạng sử dụng thuốc và kháng đông của bệnh nhân (đối với những
bệnh nhân có rung nhĩ và cuồng nhĩ) nên được xác nhận. Bởi vì bệnh nhân
không phải lúc nào cũng có triệu chứng với các loạn nhịp như rung nhĩ và
cuồng nhĩ, nên với những bệnh nhân kháng đông chưa đủ, phải khai thác về
tiền sử dùng thuốc và bằng chứng nhịp nhanh trên ECG trong vòng 48 giờ
chuyển nhịp trước khi chuyển nhịp cho bệnh nhân do nguy cơ thuyên tắc.
970 SECTION Xi | Common Cardiology Procedures

Bảng 59.2 Các Chỉ Định Shock Điện Chuyển Nhịp Ở Bệnh
Nhân Rung Nhĩ

Class I
1. Shock điện chuyển nhịp ngay đối với bệnh nhân có rung nhĩ kịch phát và đáp ứng thất
nhanh, kèm theo có bằng chứng ECG của MI cấp hoặc tụt huyết áp có triệu chứng, đau
thắt ngực, hoặc suy tim, mà không đáp ứng ngay với các biện pháp thuốc
2. Shock điện chuyển nhịp ở những bệnh nhân không có huyết động không ổn định nhưng
các triệu chứng của rung nhĩ là không thể chấp nhận được.

Class IIa
1. Shock điện chuyển nhịp để làm tăng khôi phục nhịp xoang ở những bệnh nhân có
cơn Rung nhĩ phát hiện lần đầu.
2. Shock điện chuyển nhịp ở bệnh nhân có AF bền bĩ khi không thể tái nhập viện sớm.
3. Shock điện lặp lại sau khi đã đủ kháng đông dự phòng ở những bệnh nhân tái phát rung nhĩ
mà không dùng thuốc chống loạn nhịp sau lần chuyển nhịp thành công trước .
Class III
1. Shock điện chuyển nhịp ở những người biểu hiện sự thay đổi tự phát giữa AF và nhịp
xoang trong các khoảng thời gian ngắn.
2. Ngoài ra shock điện chuyển nhịp ở bệnh nhân có các khoảng thời gian ngắn nhịp xoang, tái
phát AF mặc dù đã nhiều lần shock điện và dùng các thuốc chống loạn nhịp dự phòng.

AF, atrial fibrillation; HF, heart failure; MI, myocardial infarction.


Adapted from ACC/AHA/ESC 2001 guidelines.

5. Kháng đông là yếu tố chính đối với những bệnh nhân có rung nhĩ và cuồng nhĩ
(Bảng 59.3) để dự phòng thuyên tắc mạch. 2 thuốc kháng đông đường uống chính
có thể được sử dụng để kháng đông là Coumadin và một thuốc mới được chấp
thuận dabigatran, sử dụng cho rung nhĩ không van tim và cuồng nhĩ. Ngưỡng
điều trị của kháng đông bằng Coumadin và dabigatran khác nhau về thời gian.
Đối với Coumadin, cần phải được theo dõi thường xuyên để chỉnh liều đạt được
đích INR 2 ­ 3, thực hiện trung bình 3­5 ngày. Tuy nhiên, với dabigatran, không
cần phải theo dõi xét nghiệm, mà ngưỡng điều trị của nó đạt được trong khoảng
12 giờ. Liều của nó thay đổi theo chức năng thận với 150 mg bid cho những
bệnh nhân có độ thanh thải creatinine (CrCl) > 30 mL/min và 75 mg bid với CrCl
15 ­ 30 mL/min.
6. ECG 12 đạo trình nên đạt được để xác nhận nhịp biểu hiện, cũng như là để
gợi ý đến bất kì bất thường điện giải nào (tăng hoặc giảm kali) hoặc ngộ độc
thuộc (digitalis). Nếu có bất kì nghi ngờ nào, thì nên lấy máu xét nghiệm để
kiểm tra. Đo nồng độ digoxin thường quy không được khuyến cáo.
7. Lập đường truyền tĩnh mạch ngoại vi nên đạt được đối với các trường
hợp chọn lọc.
8. Theo dõi ECG liên tục nên đạt được. Tiếp xúc tốt giữa da và điện cực là
cần thiết, và làm sạch da như cạo lông ngực (nếu có), được khuyến cáo.
9. Thiết bị hỗ trợ oxy và quản lý đường thở (gồm máy hút có catheter hút,
bag valve mask, đèn soi thanh quản, ống nội khí quản và pulse oximeter)
phải có và nên kiểm tra trước khi làm thủ thuật.
B. Kỹ thuật
1. Khi bệnh nhân đã được chuẩn bị đủ và đã được bác sỹ giải thích phù hợp, thì
tiến hành đặt bản cực và an thần cho bệnh nhân.
CHAPTER 59 | Electrical Cardioversion 971

Bảng 59.3 Tình Trạng Kháng Đông và Chuyển Nhịp Rung


Nhĩ/Cuồng Nhĩ

Kháng đông trước chuyển nhịp


1. Dùng kháng đông đường uống bằng Coumadin và đảm bảo INR ngưỡng điều trị (> 2) hoặc
bằng dabigatran (không cần phải theo dõi xét nghiệm) đối với rung nhĩ không van
tim/cuồng nhĩ trong khoảng thời gian ít nhất 3–4 wk trước khi chuyển nhịp (đích INR 2–3)
Hoặc
2. Kháng đông bằng heparina đạt đích PTT 1.5–2 lần chứng và sàng lọc huyết khối trong nhĩ trái và
tiểu nhĩ trái bằng siêu âm qua thực quản
a. Nếu không có huyết khối, chuyển nhịp và tiếp tục heparin trong khi bắt đầu dùng Coumadin
hoặc dabigatran. Về Coumadin, tiếp tục heparin cho đến khi INR đạt ngưỡng điều trị (≥ 2).
Nếu sử dụng dabigatran , thì sẽ phù hợp để tiếp tục heparin cho đến khi tình trạng kháng đông
của dabigatran đạt ngưỡng điều trị,­ nó khoảng12 h
hoặc
b. Nó quan sát thấy có huyết khối, kháng đông trong khoảng 3–4 wk bằng
Coumadin (đích INR 2–3) hoặc dabigatran và kiểm tra lại siêu âm qua thực quản
để xác định huyết khối được giải quyết trước khi chuyển nhịp
3. Nếu trường hợp cấp cứu
Dùng heparin (nếu không chống chỉ định) để đạt PTT 1.5–2 lần chứng trước
hoặc ngay sau khi chuyển nhịp
Kháng đông sau chuyển nhịp
Kháng đông đường uống trong khoảng ít nhất 4 wk bằng Coumadin với đích INR
2–3 hoặc dabigatran nếu không có chống chỉ định

aLimited data support the use of low­molecular­weight heparin (LMWH) before or after

cardioversion (level of evidence: C). Use of LMWH in such clinical situations must be
individualized after careful determination of the risks and benefits involved.
INR, international normalized ratio; PTT, partial thromboplastin time.

2. Đặt bản cực. Đặt bản cực lên thành ngực là quan trọng để tăng tối đa dòng
điện qua tim. Patches hoặc paddles có thể đặt ở vị trí trước­mõm tim hoặc vị
trí trước – sau.
a. Mặc dù tư thế trước – mõm tim là dễ sử dụng trong cấp cứu, nhưng dòng
điện qua cơ tim thấp hơn.
b. Tư thế trước­ sau bên trái thường được sử dụng để chuyển các loạn nhịp nhĩ
bởi vì khoảng cách giữa các bản cực nhỏ hơn và nhu mô phổi giữa 2 bản cực
là ít hơn. Điều này làm tăng dòng điện qua nhĩ và cải thiện tỷ lệ chuyển nhịp
thành công.
c. Vị trí bản cực cạnh ức phải–cạnh sống trái có dòng điện qua cả 2 nhĩ tốt
hơn và đặc biệt hữu ích ở những bệnh nhân có bất thường nhĩ (như,
thông liên nhĩ hoặc bệnh van tim do thấp). Vị trí điện bản cực này được
ưu tiên trong khoa của tôi để chuyển nhịp rung nhĩ (Hình. 59.1).
d. Mặc dù chuyển nhịp trong (sử dụng một catheter nhĩ phải và catheter xoang
vành như là các bản cực hoặc sử dụng nhĩ phải và một điện cực đặt ở ngoài
phía sau) đã được sử dụng trong quá khứ để chuyển nhịp những bệnh nhân
béo phì hoặc những bệnh nhân mà kháng với chuyển nhịp ngoài, nhưng ngày
972 SECTION Xi | Common Cardiology Procedures

Hình 59.1 Vị trí bản cực cạnh ức phải – cạnh sống trái.

nay nó hiếm khi cân thiết, bởi vì sự sẵn có của máy chuyển nhịp 2 pha.
3. An thần. Các thuốc an thần tác dụng ngắn nên được sử dụng ở tất cả bệnh
nhân chuyển nhịp, bởi vì thủ thuật này là không dễ chịu chút nào. Các thuốc
thường sử dụng gồm methohexital (0.5 ­ 0.6 mg/kg trọng lượng cơ thể),
etomidate (0.2 ­ 0.6 mg/kg trong 30 ­ 60 seconds), propofol (0.7 ­ 1.2
mg/kg, sau đó 0.5 mg/kg mỗi 3­5 phút khi cần), và midazolam (0.5 ­ 2 mg
trong 2 phút, lặp lại mỗi 2­3 phút khi cần). An thần đủ được xác nhận bởi
mất đáp ứng với gọi hỏi và kích thích bằng tay và mất phản xạ mi. Đường
thở, thở và oxy hóa nên được theo dõi cho đến khi bệnh nhân khôi phục
hoàn toàn, và hỗ trợ thích hợp nếu cần.
4. Lựa chọn năng lượng sốc. Thành công của chuyển nhịp phụ thuộc vào tình
trạng đủ năng lượng phóng vào tim. Điều này phụ thuộc vào năng lượng
vào, vector dòng điện và trở kháng thành ngực.
a. Lựa chọn năng lượng đối với các loạn nhịp được chỉ ra ở Bảng 59.4.
Năng lượng được lựa chọn khác nhau giữa thiết bị đơn pha hay 2 pha.
b. Trở kháng được định nghĩa là sự chống lại dòng hoặc chiều dòng điện. Trở
kháng càng cao càng làm giảm dòng diện hướng đến cơ tim. Do đó, lựa chọn
năng lượng ban đầu nên được thay đổi theo cá thể hóa sau khi đánh giá các
yếu tố của bệnh nhân như hình dạng cơ thể và biểu hiện của bệnh phổi, cái
mà có thể tác động đến trở kháng. Yếu tố chính để điều chỉnh trở kháng là
kích thước bản cực, với kích thước tối ưu xấp xỉ khoảng kích thước của tim.
Mặc dù bản cực nhỏ hơn làm tăng trở kháng, nhưng bản cực lớn hơn lại làm
hao phí dòng điện. Đường kính tối ưu của một bản cựu đối với người trưởng
thành khoảng 12 cm. Các biện pháp khác làm giảm trở kháng gồm sử dụng
áp lực đè tay vào các bản cực (khoảng 12 kg) trong khi phóng sốc, shock vào
cuối thời kì thở ra, bề mặt tiếp xúc da – điện cực tốt và sử dụng gel, và lặp lại
các lần sốc.
CHAPTER 59 | Electrical Cardioversion 973

Bảng 59.4 Lựa Chọn Năng Lượng Shock Ban Đầu Đối Với
Các Loạn Nhịp Thường Gặp

Năng lượng ra (J)


Loại loạn nhịp Monophasic Biphasic
Rung thất hoặc nhanh thất không ổn định 200 120
Rung nhĩ 200 100
Cuồng nhĩ 50 50
Nhịp nhanh trên thất 150 100
Nhịp nhanh thất (ổn định) 100 50–100

Ngược lại, tăng khoảng cách giữa các bản cực hoặc mô mềm, nhu mô
phổi giữa các bản cực làm tăng trở kháng.
5. Đồng bộ. Khi nhịp bên dưới đã được xác nhận và chất lượng ECG đạt được tốt,
thì chế độ đồng bộ được ấn on (ngoài trừ khử rung thì phải là chế động không
đồng bộ). Đồng bộ là cần thiết để dự phòng phóng shock vào giai đoạn có thể gây
ra nguy hiểm (từ 80 milliseconds trước đến 30 ­milliseconds sau đỉnh của sóng
T), có thể dẫn đến rung thất. Các máy shock điện được thiết kế để thời điểm sốc
vào sóng R khi bật chế độ đồng bộ. Các marker đồng bộ sẽ hiện trên monitor và
in ra bởi vì máy sốc có thể đồng bộ nhầm vào sóng T. Ngược lại, khi khử rung,
chế độ này phải là không đồng bộ bởi vì phức bộ QRS không thể xác định được
làm cản trở máy sốc phóng điện khi bật chế độ đồng bộ.
6. Phóng shock. Khi bệnh nhân đã được chuẩn bị đầy đủ, các bản cực đã được
đặt đúng vị trí, và các chế độ đã được lựa chọn thích hợp, thì nên xác nhận
lại tình trạng vô cảm. Tụ điện của máy sốc được nạp, điều dưỡng hỗ trợ
cảnh báo không được chạm vào bệnh nhân (Clear), đồng bộ đúng đã được
tái xác nhận, và một cú shock thích hợp được phóng ra. Bệnh nhân được
đánh giá ngay về đường thở, hô hấp và tuần hoàn. ECG được kiểm tra để
xác định nhịp, và nếu an thần vẫn đủ, thủ thuật này có thể lặp lại nếu cần
thiết. Bệnh nhân được theo dõi cho đến khi khôi phục hoàn toàn (thường là
1 hour). Kháng đông và các thuốc chống loạn nhịp (nếu có) phải đạt được
trước khi cho ra viện.

V. Các biến chứng của shock điện. Các biến chứng sau chuyển nhịp là không
thường gặp nhưng có thể có các biến chứng sau.
A. Thuyên tắc mạch. Khoảng 1% ­ 7% bệnh nhân rung nhĩ không được dùng đủ kháng
đông trước khi chuyển nhịp dẫn đến thuyên tắc động mạch sau thủ thuật này. Ở
những bệnh nhân đã được kháng đông thích hợp, tỷ lệ thuyên tắc rất thấp. Trong thử
nghiệm Assessment of Cardioversion Using Transesophageal Echocardiography
(ACUTE) trial, so sánh kháng đông trong 3 tuần trước chuyển nhịp với dưới hướng
dẫn siêu âm qua thực quản (TEE), thì tỷ lệ thuyên tắc là 0.5% ở nhóm kháng đông và
0.8% ở nhóm dưới hướng dẫn TEE. Chuyển nhịp dưới hướng dẫn của TEE hiện nay
được sử dụng rộng rãi ở những bệnh nhân đòi hỏi phải chuyển nhịp khẩn cấp nhưng
chưa được dùng đủ kháng đông trong 3 tuần.
B. Loạn nhịp. Không phải là không thường gặp, bệnh nhân có thể có ngoại tâm thu nhĩ
hoặc ngoại tâm thu thất sau chuyển nhịp. Mặc dù một số bệnh nhân biểu hiện
974 SECTION Xi | Common Cardiology Procedures

ngừng xoang hoặc block nhĩ thất thoáng qua, nhưng các tình trạng này thường
tự cắt. Tuy vậy, thì khả năng tạo pacing qua thành ngực tạm thời khẩn cấp nên
có sẵn đối với những bệnh nhân cần nó nhưng rất hiếm khi xảy ra. Loạn nhịp
nhanh thất ác tính là hiếm gặp nhưng có thể xảy ra nếu shock được phóng vào
giai đoạn nguy hiểm của chu trình tim. Nguy cơ loạn nhịp nhanh ác tính tăng
lên ở những bệnh nhân có hạ kali máu hoặc ngộ độc digoxin.
C. Tổn thương. Tỷ lệ và mức độ bỏng thành ngực có thể giảm bằng cách bôi gel,
tiếp xúc da và bản cực tốt, và sử dụng năng lượng phóng ra thấp nhất nhưng vẫn
có hiệu quả.
D. Suy hô hấp. An thần quá mức có thể liên quan đến suy hô hấp. Điều này thường gặp
nhiều hơn ở những bệnh nhân lớn tuổi hoặc người có rối loạn chức năng gan thận.
Điều chỉnh liều phù hợp và theo dõi đường thở và oxy cho đến khi bệnh nhân khôi
phục hoàn toàn sẽ hạn chế thấp nhất các tác dụng phụ của an thần quá mức .
E. Tổn thương cơ tim. Shock điện chuyển nhịp là thủ thuật an toàn và sử dụng
rộng rãi. ST chênh lên thoáng qua mà không có tổn thương cơ tim rõ và tăng
nhẹ CK­MB hoặc troponin I đã được ghi nhận trong một số hiếm trường hợp.
Hiếm gặp, những bệnh nhân xuất hiện phù phổi sau shock điện.
F. Các tổn thương đối với người làm thủ thuật. Tổn thương đối với người làm thủ
thuật là hiếm gặp, với tỷ lệ <1 / 1,700. Phần lớn là tổn thương nhẹ do điện hoặc biểu
hiện dị cảm ở chi ngoại vi. Tổn thương nặng do điện rất hiếm gặp và đã có báo cáo
các case liên quan đến máy hỏng. Shock điện khi có da ẩm ướt hoặc có kem bôi
nitroglycerin có thể dẫn đến phát ra lữa và nguy cơ cháy nổ.

VI. Các vấn đề mắc phải


A. Monitor không hoạt động. Điều này thường liên quan đến vấn đề về máy. Nguồn
vào, kết nối với các điện cực, và các patche điện cực nên được kiểm tra lại.
B. Đồng bộ nhầm lên sóng T. Đạo trình monitor nên được thay đổi và xác nhận
bằng marker đồng bộ trước khi chuyển nhịp.
C. Tụ điện không phóng điện. Khi bật chế độ đồng bộ, tụ điện sẽ không phóng
điện cho đến khi nó nhận ra được đồng bộ với QRS. Ấn nút shock cho đến khi
tụ điện phóng. Nếu thất bại, thì đạo trình monitor nên thay sang đạo trình khác
và thực hiện shock lại.
D. Chuyển nhịp không thành công
1. Bước đầu tiên nên đạt được ECG để kiểm tra lại nhịp bên dưới để xác định
chẩn đoán và phân biệt giữa chuyển nhịp thất bại chuyển nhịp và chuyển
nhịp thành công sau đó tái phát rối loạn nhịp.
2. Đối với những người thất bại chuyển nhịp thực sự, thì mức năng lượng cao hơn
có thể được cân nhắc cho lần thử tiếp theo. Thiết bị 2 pha nên được sử dụng nếu
có sẵn và áp dụng tất cả các biện pháp để giảm trở kháng như đã nêu ở trên (Mục
IV.B.4.b).
3. Lựa chọn khác cho những bệnh nhân thất bại thực sự là thay đổi vị trí đặt
bản cực để bắt được cơ tim tốt hơn giữa các bản cực và nếu chưa được thực
hiện lúc đầu, thì áp dụng áp lực đè tay lên bản cực (khoảng 12 kg) trong khi
sốc để cải thiện tiếp xúc và giảm trở kháng.
4. Chuyển nhịp không thành công cũng có thể do rối loạn chuyển hóa và các
nguyên nhân có thể đảo ngược được (như rối loạn điện giải và nhiễm độc
giáp) nên được điều chỉnh.
5. Những bệnh nhân đang uống amiodarone dài hạn có thể biểu hiện rung nhĩ
như là biểu hiện đầu tiên của cường giáp gây ra bởi amiodaron, điều này có
thể làm cho chuyển nhịp trở nên khó khăn hơn.
6. Những trường hợp kháng mà không có thiết bị 2 pha, thì có thể đảo ngược
tính phân cực của các bản cực bằng cách dùng năng lượng tối đa, sử dụng 2
máy sốc điện để tăng dòng điện, hoặc shock điện chuyển nhịp bên trong có
thể là một lựa chọn.
CHAPTER 59 | Electrical Cardioversion 975

7. Sử dụng các thuốc chống loạn nhịp thích hợp có thể làm dễ dàng chuyển
nhịp và duy trì nhịp xoang, và thủ thuật này có thể lặp lại sau khi dùng liều
tải bằng thuốc thích hợp. Trước thủ thuật bằng 1 mg ibutilide đã được chỉ ra
là làm tăng khả năng chuyển nhịp thành công. Ibutilide có liên quan đến sự
phát triển xoắn đỉnh. Tại viện của chúng tối, những bệnh nhân được dùng
trước thủ thuật bằng ibutilide sẽ được dùng kết hợp với 1 g IV magnesium
sulfate để hạn chế nguy cơ này.
8. Các yếu tố dự đoạn chuyển nhịp không thành công trong rung nhĩ mạn gồm
khoảng thời gian rung nhĩ dài, có bệnh tim cấu trúc bên dưới, nhĩ trái lớn, và
tim to.

VII. Các trường hợp đặc biệt


A. Bệnh nhân có đặt máy tạo nhịp vĩnh viện hoặc ICD trước đó.
Dòng điện có thể dẫn truyền qua các điện cực của các thiết bị này và gây ra tổn
thương cơ tim. Điều này có thể biểu hiện bằng mất bắt được cơ tim – block lối
ra. Điều này có thể tránh được bằng cách đặt các bản cực ra xa các thiết bị
này; do đó, vị trí trước – sau được ưu tiên. Các thiết bị này nên được kiểm tra
trước khi chuyển nhịp.
B. Phụ nữ có thai. Chuyển nhịp thành công được thực hiện ở tất cả các quý của
thai kì mà không gây ra các tác dụng có hại cho mẹ và thai nhi.

VIII. Hướng dẫn các bước sử dụng máy shock điện


1. Bật on để khởi động máy
2. Ấn nút Sync (nếu áp dụng chế độ đồng bộ). Quan sát nhịp ECG, bảo
đảm marker đồng bộ ở vị trí thích hợp
3. Lựa chọn năng lượng theo chỉ định
4. Ấn nút Charge để tụ điện tích điện
5. Khi tụ đã tích điện, giữ nút Shock đến phóng shock đồng bộ
6. Đánh giá bệnh nhân sau khi thực hiện chuyển nhịp. Nếu VF hoặc vô
tâm thu xảy ra ngay sau khi sốc, thì thực hiện CPR
AcknowledGMEnts: The author thanks Drs. Hitinder S. Gurm, Robert A. Schweikert, and
Thomas Callahan for their contributions to earlier editions of this chapter.

Landmark Articles
Bjerkelund CJ, Orning OM. The efficacy of anticoagulant therapy in preventing embolism related to D.C. electrical
con­version of atrial fibrillation. Am J Cardiol. 1969;23:208–216.
976 SECTION Xi | Common Cardiology Procedures

Cakulev I, Efimov IR, Waldo AL. Cardioversion: past, present and future. Circulation. 2009:120:1623–1632.
Connolly SJ, Ezekowitz MD, Yusuf S, et al. Dabigatran versus warfarin in patients with atrial fibrillation. N Engl J Med.
2009:361:1139–1151.
Gall NP, Murgatroyd FD. Electrical cardioversion for AF—the state of the art. Pacing Clin Electrophysiol. 2007;30:554–567.
Klein AL, Grimm RA, Murray RD, et al. Use of transesophageal echocardiography to guide cardioversion in patients with
atrial fibrillation. N Engl J Med. 2001;344:1411–1420.
Lown B, Amarasingham R, Neuman J. New method for terminating cardiac arrhythmias: use of synchronised
capacitor discharge. JAMA. 1962;182:548–555.
Mittal S, Ayati S, Stein KM, et al. Transthoracic cardioversion of atrial fibrillation: comparison of rectilinear
biphasic versus damped sine wave monophasic shocks. Circulation. 2000;101:1282–1287.
Mittal S, Stein KM, Markowitz SM, et al. An update on electrical cardioversion of atrial fibrillation. Card
Electrophysiol Rev. 2003;7:285–289.
Oral H, Souza J, Michaud G, et al. Facilitation transthoracic cardioversion of atrial fibrillation with ibutilide pretreatment.
N Engl J Med. 1999;340:1849–1854.

Book Chapters
Miller JM, Zipes DP. Therapy for cardiac arrhythmias. In: Zipes DP, Libby P, Bonow RO, et al., eds. Braunwald’s Heart
Disease: A Textbook of Cardiovascular Medicine. 8th ed. Philadelphia, PA: Saunders­Elsevier; 2008:801–803.
Walcott G, Ideker R. Principles of defibrillation: from cellular physiology to fields and waveforms. In: Ellenbogen
KA, Kay GN, Lau C, eds. Clinical Cardiac Pacing, Defibrillation, and Resynchronization Therapy. 3rd ed.
Philadelphia, PA: Saunders­Elsevier; 2007:59–74.

You might also like