Professional Documents
Culture Documents
Xác định giới hạn trên và dưới của giá quyền chọn mua
và quyền chọn bán, và nghiên cứu các biến số tác
động đến giá quyền chọn
Nghiên cứu các điều kiện có thể làm cho người giao
dịch quyền chọn thực hiện quyền trước khi đáo hạn.
Định giá quyền chọn:
ST = Giá cổ phiếu ở thời điểm đáo hạn quyền chọn, tức là sau
khoảng thời gian T
C(S0,T,X) = Giá quyền chọn mua với giá cổ phiếu hiện tại là S0, thời
gian cho đến lúc đáo hạn là T, giá thực hiện là X
P(S0,T,X) = Giá quyền chọn bán với giá cổ phiếu hiện tại là S0, thời
gian cho đến lúc đáo hạn là T, giá thực hiện là X
Khái niệm cơ bản và thuật ngữ
Trong hầu hết các ví dụ, chúng ta giả định rằng cổ phiếu
không trả cổ tức. Nếu trong suốt vòng đời của quyền chọn, cổ
phiếu có chi trả cổ tức D1, D2,.., thì chúng ta có thể thực hiện
các điều chỉnh đơn giản và đạt được các kết quả giống nhau.
Để làm điều đó, chúng ta chỉ cần trừ đi hiện giá của cổ tức.
D (1 r)
t j
j
j1
Khái niệm cơ bản và thuật ngữ
Thời gian cho đến lúc đáo hạn (T) được thể hiện dưới dạng
phân số của một năm.
Ví dụ, nếu ngày hiện tại là 9/4 và ngày đáo hạn là 18/7, chúng
ta chỉ đơn giản đếm số ngày giữa hai ngày này. Ta có:
21 ngày trong tháng 4,
31 ngày tháng 5,
30 ngày tháng 6,
18 ngày trong tháng 7,
Tổng cộng là 100 ngày.
Vậy thời gian cho đến khi đáo hạn (T) là 100/365 = 0,274.
Khái niệm cơ bản và thuật ngữ
Lãi suất phi rủi ro (r) là tỷ suất sinh lợi của các khoản đầu tư
không có rủi ro. Một ví dụ của khoản đầu tư phi rủi ro là trái
phiếu chính phủ Mỹ ngắn hạn, T-bill. Tỷ suất sinh lợi của một
T-bill có thời hạn có thể dùng để so sánh sẽ là đại diện cho lãi
suất phi rủi ro.
Trái phiếu chính phủ ngắn hạn trả lãi không thông qua các
phiếu lãi coupon mà thông qua việc bán với giá chiết khấu.
Trái phiếu sẽ được mua lại ít nhất là bằng với mệnh giá.
Chênh lệch giữa giá mua lại và giá phát hành được gọi là
khoản chiết khấu. Nếu nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu đến khi
đáo hạn, trái phiếu sẽ được mua lại ở mệnh giá. Vì vậy, khoản
chiết khấu là lợi nhuận mà người nắm giữ trái phiếu thu được.
Hầu hết các quyền chọn trên sàn đáo hạn vào thứ
Sáu tuần thứ 3 của tháng (nếu thứ 6 là ngày lễ thì
sẽ đáo hạn vào thứ 5 trước đó)
Luôn luôn có một trái phiếu chính phủ đáo hạn vào
ngày trước đó (thứ Năm, nếu thứ Năm là ngày lễ,
trái phiếu sẽ đáo hạn vào ngày thứ Tư của tuần đó)
Khái niệm cơ bản và thuật ngữ
Ví dụ: Các khoản chiết khấu hỏi mua và chào bán của T-bill
trong ngày giao dịch 14/5 của một năm cụ thể là như sau:
C(S0,T,X) ≥ 0
Đối với quyền chọn kiểu Mỹ, kết luận quyền chọn
mua có giá trị thấp nhất là 0 bị lấn át bởi kết luận:
Ca(S0,T,X) ≥ Max(0,S0 – X)
Nếu giá thực hiện lớn hơn giá cổ phiếu hiện tại, ví dụ
như quyền chọn có giá thực hiện là $130 thì sao? Khi đó
Max(0, 125,94 – 130) = 0, và giá trị thấp nhất của quyền
chọn là 0.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Khái niệm giá trị nội tại chỉ áp dụng đối với quyền
chọn mua kiểu Mỹ, vì quyền chọn mua kiểu Châu Âu
chỉ có thể được thực hiện vào ngày đáo hạn.
Nếu giá của quyền chọn kiểu Châu Âu thấp hơn
Max(0,S0 – X), việc không thể thực hiện quyền chọn sẽ
ngăn cản các nhà kinh doanh tham gia vào hoạt động
kinh doanh chênh lệch giá được đề cập ở trên, vốn có tác
động làm tăng giá quyền chọn.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Giá quyền chọn mua kiểu Mỹ thường lớn hơn giá trị nội tại
của nó. Chênh lệch giữa giá quyền chọn và giá trị nội tại
được gọi là giá trị thời gian (time value) hay giá trị đầu
cơ của quyền chọn mua, được định nghĩa là
Ca(S0,T,X) – Max (0,S0 – X).
Giá trị thời gian phản ánh những gì mà nhà kinh doanh sẵn
sàng chi trả cho sự không chắc chắn của cổ phiếu cơ sở.
Lưu ý rằng giá trị thời gian tăng cùng chiều với thời
gian tính cho đến khi đáo hạn.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
C(S0,T,X) ≤ S0
Giá trị tối đa của quyền chọn mua là giá của cổ phiếu.
Quyền chọn mua là 1 cách để Nhà đầu tư mua cổ phiếu, điều người ta
mong muốn đạt được khi thực hiện quyền chọn mua là giá trị cổ phiếu
trừ đi giá thực hiện.
Mua quyền chọn mua: - C
Thực hiện quyền chọn mua và bán cổ phiếu: – X + S0
Kết quả: - C + (S0 – X) 0
C S0 – X
C S0 (khi X = 0)
C(ST,0,X) = Max(0,ST – X)
Tác động của thời gian còn lại đến khi đáo hạn
Thông thường quyền chọn có thời hạn dài hơn có giá trị lớn
hơn (quan hệ cùng chiều).
Giả định hôm nay là ngày đáo hạn của quyền chọn có thời gian
ngắn hơn T1, giá CP là ST1, giá trị Quyền: Max(0, ST1 – X).
Quyền chọn thứ hai có thời gian đáo hạn dài hơn T2, giá tối
thiểu của nó phải là Max(0,ST1 – X). Vậy khi Quyền chọn có
thời hạn ngắn hơn đáo hạn, giá trị của nó sẽ là giá trị thấp nhất
của quyền chọn có thời hạn dài hơn.
Ca(S0, T2, X) Ca(S0, T1, X) = Max(0,ST1-X)
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Nếu giá cổ phiếu là rất cao, quyền chọn được gọi là cường
giá DITM và giá trị thời gian sẽ thấp.
Nếu giá cổ phiếu là rất thấp, quyền chọn được gọi là chìm
sâu vào trạng thái kiệt giá DOTM và giá trị thời gian cũng
sẽ thấp.
Một quyền chọn có giá cổ phiếu gần với giá thực hiện sẽ có
giá trị thời gian cao hơn cũng giống như một trận đấu “cân
bằng và căng thẳng” - đáng để xem hơn?
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Tác động của thời gian còn lại đến khi đáo hạn
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Đối với hai quyền chọn mua chỉ khác nhau giá thực hiện,
chênh lệch phí quyền chọn không thể lớn hơn chênh lệch
giá thực hiện.
(X2 – X1) ≥ Ce (S0,T,X1) - Ce (S0,T,X2)
Danh
Giá trị hiện tại ST < X 1 X1 STX2 X1<X2<ST
mục
+ Ce(S0,T,X1) 0 ST – X1 ST – X1
A
- Ce(S0,T,X2)
0 0 -ST + X2
Tổng A 0 ST – X1 0 X2 – X1 > 0
Danh mục B tối thiểu bằng với danh mục A, có nghĩa là:
Ce(S0,T,X) + X(1+r)-T ≥ S0
Ce(S0,T,X) ≥ S0 – X(1+r)-T
Nếu S0 – X(1+r)-T là âm, chúng ta xem giá trị thấp nhất của
quyền chọn mua là 0. Kết hợp các kết quả này cho ta một
giới hạn dưới:
Quyền chọn áp dụng đối với tiền tệ. Tỷ giá là S0, lãi suất
kép là p (lãi suất của ngoại tệ)
Giới hạn dưới của quyền chọn mua vì vậy trở thành
Giới hạn dưới của quyền chọn mua kiểu Mỹ so với Châu Âu
Chúng ta đã chứng minh rằng giá trị nhỏ nhất của quyền
chọn mua kiểu Mỹ là Max(0, S0 – X) trong khi giới hạn dưới
của quyền chọn mua kiểu Châu Âu là
Max[0, S0 – X(1+r)-T].
Vì S0 – X(1+r)-T lớn hơn S0 – X nên giới hạn dưới của quyền
chọn mua kiểu Mỹ cũng phải là (ít nhất cũng là):
Max [0, S0 – X(1+r)-T]
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Giới hạn dưới của quyền chọn mua kiểu Mỹ so với Châu Âu
Một quyền chọn mua kiểu Mỹ đối với một cổ phiếu không
trả cổ tức sẽ không bao giờ được thực hiện sớm, và chúng
ta có thể xem quyền chọn mua này như quyền chọn kiểu
Châu Âu.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Thực hiện sớm quyền chọn mua kiểu Mỹ đối với cổ phiếu
có trả cổ tức
Có thể việc thực hiện một quyền chọn mua kiểu Mỹ sớm
là tối ưu nếu cổ phiếu sắp đến ngày giao dịch không hưởng
cổ tức.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Lãi suất tác động đến quyền chọn mua theo nhiều hướng.
Thứ nhất, lãi suất tác động đến giới hạn dưới. Lãi suất
càng thấp, giới hạn dưới càng thấp. Trong trường hợp lãi
suất bằng 0, giới hạn dưới sẽ bằng với giá trị nội tại.
Lãi suất càng cao, giá trị quyền chọn mua càng cao.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn mua
Độ bất ổn cao là điều làm cho quyền chọn mua trở nên hấp
dẫn, và các nhà đầu tư sẵn sàng chi trả phí quyền chọn cao
hơn đối với quyền chọn có độ bất ổn cao hơn.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Một quyền chọn bán không bao giờ có giá trị âm:
P(S0,T,X) ≥ 0
Một quyền chọn bán kiểu Mỹ có thể được thực hiện sớm.
Vì vậy,
Pa(S0,T,X) ≥ Max(0, X – S0)
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Giá trị, Max(0, X – S0), được gọi là giá trị nội tại của quyền
chọn bán.
Quyền chọn bán cao giá ITM sẽ có giá trị nột tại dương,
trong khi một quyền chọn bán kiệt giá OTM hoặc ngang giá
ATM có giá trị nội tại bằng 0.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Chênh lệch giữa giá quyền chọn bán và giá trị nội tại là giá
trị thời gian hay giá trị đầu cơ. Giá trị thời gian được định
nghĩa là
Pa(S0,T,X) – Max(0, X – S0).
Cũng như với quyền chọn mua, giá trị thời gian phản ánh
những gì mà một nhà đầu tư sẵn sàng trả cho sự không chắc
chắn của kết quả cuối cùng.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Khi đáo hạn, thu nhập từ một quyền chọn bán kiểu Châu
Âu là Max (0, X – ST).
Vì vậy, hiện giá của giá thực hiện là giá trị lớn nhất có thể
đạt được của quyền chọn bán kiểu Châu Âu.
Pe(S0,T,X) ≤ X(1+r) -T
Vì quyền chọn bán kiểu Mỹ có thể được thực hiện sớm
vào bất cứ lúc nào, giá trị lớn nhất của nó là giá thực hiện.
Pa(S0,T,X) ≤ X
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Vào ngày đáo hạn quyền chọn bán, không còn giá trị thời
gian. Quyền chọn bán kiểu Mỹ vì vậy cũng giống như
quyền chọn bán kiểu Châu Âu. Giá trị của cả hai loại
quyền chọn bán này phải bằng giá trị nội tại. Vì vậy,
Pa(S0,T2,X) Pa(S0,T1,X)
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Đối với quyền chọn bán kiểu Châu Âu, thời gian đến khi
đáo hạn dài hơn vừa có lợi thế - giá trị thời gian lớn hơn –
và bất lợi – phải đợi lâu hơn để nhận được khoản tiền bằng
với giá thực hiện. Tuy nhiên, hiệu ứng giá trị thời gian có
xu hướng vượt trội hơn.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
P(S0,T,X2) P(S0,T,X1)
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Giới hạn đối với chênh lệch phí quyền chọn bán
X2 – X1 P(S0,T,X2) - P(S0,T,X1)
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
là giá cổ phiếu trừ đi hiện giá của cổ tức, qui tắc này
được biểu diễn:
Giá quyền chọn bán, quyền chọn mua, giá cổ phiếu, giá
thực hiện, thời gian đến khi đáo hạn, và lãi suất phi rủi
ro đều có liên hệ với nhau theo một công thức được gọi
là ngang giá quyền chọn mua-quyền chọn bán.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Theo Luật một giá, giá trị hiện tại của hai danh mục này
phải bằng nhau. Vì vậy,
Kết quả này phát biểu rằng giá của một cổ phiếu cộng với
quyền chọn bán bằng với giá quyền chọn mua cộng với trái
phiếu phi rủi ro. Nó thể hiện mối quan hệ giữa giá quyền
chọn mua, quyền chọn bán, cổ phiếu, thời gian đến khi đáo
hạn, lãi suất phi rủi ro, và giá thực hiện.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Lãi suất tác động đến quyền chọn mua theo nhiều hướng.
Thứ nhất, lãi suất tác động đến giới hạn dưới. Lãi suất
càng thấp, giới hạn dưới càng cao. Trong trường hợp lãi
suất bằng 0, giới hạn dưới sẽ bằng với giá trị nội tại.
Lãi suất càng cao, giá trị quyền chọn bán càng thấp.
Các nguyên tắc định giá quyền chọn bán
Biến động càng cao làm tăng khả năng thu lợi của người
sở hữu quyền chọn bán, và các nhà đầu tư sẵn sàng chi trả
phí quyền chọn cao hơn đối với quyền chọn có độ bất ổn
cao hơn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn