Professional Documents
Culture Documents
Một hợp đồng quyền chọn để mua một tài sản gọi là
quyền chọn mua (Call option).
Một hợp đồng quyền chọn để bán một tài sản là một
quyền chọn bán (Put option).
Mức giá cố định mà người mua hợp đồng quyền chọn
có thể mua hoặc bán tài sản gọi là giá thực hiện
(strike/exercise price).
Quyền mua hoặc bán tài sản ở mức giá cố định chỉ tồn
tại cho đến một ngày đáo hạn (expiry date) cụ thể.
Người mua quyền chọn phải trả cho người bán quyền
chọn một khoản tiền gọi là phí quyền chọn (premium).
Các thuật ngữ cơ bản của quyền chọn
Nếu giá cổ phiếu cao hơn giá thực hiện, quyền chọn
bán là kiệt giá OTM.
Khi giá cổ phiếu bằng với giá thực hiện, quyền chọn
bán là ngang giá ATM.
Thị trường quyền chọn phi tập trung
Được ký kết riêng giữa các doanh nghiệp lớn, tổ chức tài
chính, và đôi khi là cả chính phủ.
Trong thị trường phi tập trung, các quyền chọn có thể
được thiết kế dành cho nhiều công cụ hơn chứ không chỉ
cổ phiếu. Các quyền chọn có thể được dành cho trái
phiếu, lãi suất, hàng hóa, tiền tệ, và nhiều loại tài sản khác.
Thị trường quyền chọn phi tập trung
Hạn chế
Rủi ro tín dụng tồn tại và loại trừ nhiều khách hàng
vốn không thể thiết lập độ tín nhiệm cho mình ra
khỏi thị trường này. => thêm điều khoản thế chấp tài sản để đảm rủi ro
Qui mô của các giao dịch trên thị trường phi tập
trung lớn hơn khả năng của nhiều nhà đầu tư.
Hình thành một thị trường thứ cấp dành cho các hợp
đồng đã được tạo lập. Điều này khiến cho quyền chọn
dễ tiếp cận hơn và hấp dẫn hơn đối với công chúng.
Việc cung cấp thiết bị tiện ích, qui định cụ thể các điều
lệ, qui tắc và chuẩn hóa các hợp đồng giúp các quyền
chọn có thể được mua bán như cổ phiếu.
Sự hình thành và phát triển TT quyền chọn
Đầu thập niên 1900, một nhóm các công ty gọi là Hiệp
hội các Nhà môi giới và Kinh doanh quyền chọn mua và
quyền chọn bán đã thành lập thị trường các quyền chọn.
Có tính chất là một thị trường OTC nên tồn tại nhiều
khuyết điểm.
Năm 1973, CBOT cho ra đời Sàn giao dịch quyền chọn tập
trung, gọi là CBOE.
Giao dịch quyền chọn mua vào ngày 26/4/1973. Các hợp
đồng quyền chọn bán đầu tiên được đưa vào giao dịch trong
tháng 6/1977.
CBOE đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho
người mua rằng người bán sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
theo hợp đồng. Vì vậy, người mua quyền chọn không còn
phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Điều này khiến
quyền chọn trở nên hấp dẫn hơn đối với công chúng.
Thị trường quyền chọn có tổ chức
Trên sàn giao dịch quyền chọn, giá thực hiện được
chuẩn hóa.
Các giao dịch OTC có thể nhận bất cứ mức giá thực
hiện nào mà hai bên tham gia thỏa thuận.
Mục tiêu của sàn giao dịch trong việc thiết lập giá thực
hiện là cung cấp các quyền chọn thu hút khối lượng
giao dịch.
Hầu hết các giao dịch quyền chọn đều tập trung vào
các quyền chọn mà giá cổ phiếu gần với giá thực hiện.
Ngoại lệ
Năm 1993, CBOE cho ra đời quyền chọn FLEX, quyền
chọn linh hoạt, là một dạng quyền chọn mới cho thấy có
một sự chuyển hướng so với tính chuẩn hóa của các thị
trường giao dịch quyền chọn có tổ chức.
Các quyền chọn FLEX có thể có bất cứ mức giá thực
hiện nào.
Các quyền chọn FLEX tồn tại với mệnh giá thấp nhất là
$10 triệu đối với quyền chọn chỉ số và 250 hợp đồng đối
với quyền chọn cổ phiếu đơn lẻ.
Thị trường quyeàn choïn coù toå chöùc
Ngày đáo hạn
Các chu kỳ đáo hạn là:
(1) Tháng 1, 4, 7 và 10 NẾU CỔ PHIẾU ĐC PHÂN VÀO CHU KỲ 1 (4/4)
=> THÁNG ĐÁO HẠN: 4,5,7,10
CHU KỲ 2 => 4,5,8,11
(2) Tháng 2, 5, 8 và 11 CHU KỲ 3: 4,5,6,9
(3) Tháng 3, 6, 9 và 12
Các chu kỳ này được gọi là chu kỳ tháng 1, 2 và 3. Các ngày
đáo hạn hiện có hiệu lực là tháng hiện tại, tháng tiếp theo
và 2 tháng tiếp theo trong chu kỳ tháng 1, 2 hoặc 3 mà
chứng khoán được phân vào.
CÁC NGÀY ĐÁO HẠN :THỨ 6 CỦA TUẦN THỨ 3 CỦA THÁNG ĐÁO HẠN
Ngoại lệ
Kỳ hạn của quyền chọn đối với cổ phiếu đơn lẻ kéo
dài không quá 9 tháng trừ một số ngoại lệ.
LEAPS (cổ phiếu được nắm giữ dài hạn – Long term
Equity Anticipation Share) 3 năm
FLEX có thể lên đến 5 năm đối với quyền chọn chỉ số
và 3 năm đối với quyền chọn đối với cổ phiếu riêng
lẻ.
Thị trường quyeàn choïn coù toå chöùc
Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện
Ở Mỹ, Ủy Ban Chứng Khoán SEC buộc các sàn giao
dịch quyền chọn phải áp đặt hạn mức vị thế (position
limit), là số lượng quyền chọn tối đa mà một nhà đầu
tư có thể nắm giữ về một phía của thị trường. (Vd: buy
a call, sell a put)
Nhà tạo lập thị trường chịu trách nhiệm đáp ứng nhu
cầu của công chúng đối với quyền chọn. Khi một công
chúng nào đó muốn mua (bán) một quyền chọn và không có
thành viên nào trong công chúng muốn bán (mua) quyền
chọn đó, nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện vụ giao dịch đó.
Chênh lệch giá mua - bán là chi phí giao dịch đáng kể đối
với những người phải giao dịch với nhà tạo lập thị trường.
Giao dòch quyeàn choïn treân saøn
Nhà tạo lập thị trường (Market maker)
Nhà tạo lập thị trường về bản chất là một doanh nghiệp.
Để tồn tại, nhà tạo lập thị trường phải tạo ra lợi nhuận bằng
cách mua vào ở một mức giá và bán ra với mức giá cao
hơn.
Một cách để thực hiện điều này là yết giá hỏi mua và giá
chào bán.
Giao dòch quyeàn choïn treân saøn
Nhà tạo lập thị trường (Market maker)
Nhà tạo lập thị trường về bản chất là một doanh nghiệp.
Để tồn tại, nhà tạo lập thị trường phải tạo ra lợi nhuận bằng
cách mua vào ở một mức giá và bán ra với mức giá cao
hơn.
Một cách để thực hiện điều này là yết giá hỏi mua và giá
chào bán.
Giao dòch quyeàn choïn treân saøn
Môi giới sàn giao dịch (môi giới trên sàn) (Floor broker)
Nhà môi giới trên sàn thực hiện các giao dịch cho
công chúng. Nếu một người nào đó muốn mua hoặc
bán một quyền chọn thì phải thiết lập một tài khoản tại
công ty môi giới. Công ty này phải thuê một nhà môi
giới trên sàn hoặc có hợp đồng hợp tác với một nhà
môi giới độc lập trên sàn giao dịch hoặc là nhà môi
giới sàn giao dịch của một công ty đối thủ.
Nhà môi giới trên sàn thực hiện các lệnh của những
người không phải là thành viên và nhận một mức
lương thuần hoặc là nhận hoa hồng trên mỗi lệnh
thực hiện được.
Những nhà kinh doanh quyền chọn ngoài sàn
Quyền chọn đối với các cổ phiếu riêng lẻ đôi khi
được gọi là quyền chọn cổ phiếu hay quyền chọn
vốn cổ phần.
Các loại quyền chọn
Một đồng tiền có thể được xem là một tài sản, giống
như cổ phiếu hoặc trái phiếu. Giống như giá cổ
phiếu và trái phiếu, giá tiền tệ, tức là tỷ giá, rất biến
động trên thị trường.
Một hợp đồng quyền chọn tiền tệ qui định cụ thể giá
thực hiện, được thể hiện dưới dạng tỷ giá, ngày đáo
hạn, định dạng tiền tệ cơ sở, qui mô hợp đồng,
nhiều chi tiết khác tương tự như quyền chọn cổ
phiếu và chỉ số, và dĩ nhiên là có giá quyền chọn.
Các loại quyền chọn