You are on page 1of 6

1.

Hình phạt tử hình mâu thuẫn với quyền sống của con người
- Quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính
mạng mà hơn thế, quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm
sự tồn tại của con người. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo đảm quyền
sống còn đòi hỏi các quốc gia phải thực thi những biện pháp hợp lí để
đảm bảo quyền sống của con người.
- Luật nhân quyền quốc tế có những quy định rất cụ thể, chi tiết về giới
hạn trong hành động của các cán bộ thực thi pháp luật nhằm ngăn ngừa
sự tuỳ tiện vi phạm các quyền con người, trong đó có quyền sống.
- Trong thực tế, các công ước về luật hình sự quốc tế (ví dụ, Quy chế của
Toà án Hình sự quốc tế xét xử các tội ác chiến tranh ở Nam Tư cũ, Quy
chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế...) cũng không quy định hình phạt tử
hình với những tội phạm, kể cả những tội ác nghiêm trọng nhất về nhân
quyền như tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội
xâm lược. Thay vào đó, hình phạt cao nhất với các dạng tội phạm này là
tù chung thân. Trong thực tiễn, xu hướng chung trên thế giới trong những
thập kỷ gần đây là giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Cụ thể, số
lượng các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình ngày càng tăng, và số lượng
các quốc gia thi hành án tử hình ngày càng giảm.
2. Hình phạt tử hình không làm giảm số lượng tội phạm
Ở nước ta, hình phạt với các tội phạm ma túy trong những năm gần đây
có xu hướng liên tục tăng nhưng tình hình tội phạm không giảm mà tiếp
tục diễn biến phức tạp hơn.
⇨ Điều đó chứng tỏ hình phạt tử hình không tác động đến biến động của
loại tội này, Thực tế đó cần có cách nhìn khách quan, khoa học khi
nói về tác dụng ngăn ngừa của hình phạt tử hình. Trước hết, cần
khẳng định rằng hình phạt tử hình - giống như bất kì hình phạt nào
khác - đều có tác dụng ngăn ngừa tội phạm và chỉ khác nhau về mức
độ. Sự cần thiết đánh giá ở đây là liệu hình phạt tử hình có tác dụng
ngăn chặn vượt trội so với các hình phạt khác hay không ? Và như
chứng minh, nó không có tác dụng vượt trội thì nên xóa bỏ và thay thế
bằng hình phạt khác. Hình phạt tử hình gây rất nhiều rủi ro và rắc rối
hơn các loại hình phạt thông thường: đó là do tính chất không lấy lại
được tính mạng của người bị xét xử oan sai; sự khủng hoảng mà nó
mang đến cho gia đình tử tù và áp lực ngày càng cao của cộng đồng
quốc tế phải xóa bỏ hình phạt này.
3. Khó khăn trong việc tổ chức thi hành án:
- Khó khăn về nguồn cung ứng thuốc độc, về cơ sở phục vụ cho việc thi
hành án (nhà thi hành án), về kỹ năng của cán bộ trực tiếp thi hành….
Nhưng không một quốc gia nào cho phép nước khác nhập khẩu thuốc để
phục vụ cho mục đích thi hành án tử hình ( đặc biệt là các nước đang kêu
gọi xóa bỏ án tử hình).
- Sự phản đối kịch liệt từ phía cơ quan y tế, khi các bác sỹ cho rằng việc
tham gia thi hành án là trái với nguyên tắc nghề nghiệp của họ khi mà
nghề bác sỹ chỉ làm nhiệm vụ cứu người: một bác sĩ tiêm thuốc để giết
chết một người sống đi ngược lại với thiên chức nghề y.
- do nhiều nguyên nhân mà trong đó có việc không nhập được thuốc ngoại
nên hàng trăm tử tù đã phải sống trong cảnh chờ thi hành án. Điều này
không những gây quá tải cho các cơ sở giam giữ mà còn tạo ra không khí
căng thẳng cho cả tử tù, người quản lý và thân nhân các bên liên quan.
4. Hình phạt tử hình không đủ để trả giá cho tội lỗi gây ra:
- Hình phạt tử hình không đủ cho sự trừng phạt. Nếu tội phạm bị kết tội
chết thì đôi khi nhẹ nhàng hơn việc phải chịu ân xá, dày vò do tội lỗi
mình gây nên.
- Ví dụ một người lên kế hoạch cho vụ đánh bom liều chết - việc thực hiện
điều đó chính là việc họ sẽ phải chết, và do đó sẽ là một hình phạt nhẹ
hơn là tù chung thân.
5. Hình phạt tử hình được đánh giá là một hình phạt nghiêm khắc, dã man, vô
nhân đạo trong hệ thống hình phạt của PLHS quốc gia để góp phần thực hiện
thắng lợi trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền đích thực của dân-
do dân và vì dân ở Việt Nam. Vì nếu như đối chiếu với các mục đích của
hình phạt, thì việc áp dụng tử hình với ý nghĩa là hình phạt đặc biệt và
nghiêm khắc nhất so với tất cả các loại hình phạt khác trong hệ thống hình
phạt PLHS Việt Nam đương nhiên sẽ mất đi một trong 4 mục đích của hình
phạt nói chung và ngăn ngừa nói riêng. Bởi lẽ, khi áp dụng hình phạt tử hình
thì sinh mạng của người bị kết án đã bị tước bỏ vĩnh viễn nên người đó
đương nhiên không còn cơ hội để cải tạo-giáo dục trong nhà tù được nữa.
Chính vì vậy, hình phạt tử hình chỉ còn lại ba mục đích: 1) Góp phần phục
hồi lại công lý - sự công bằng xã hội; 2) Góp phần giáo dục các thành viên
khác trong xã hội ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật; 3) Hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
6. Nhóm các quan điểm đề nghị loại bỏ hình phạt tử hình vì cho rằng, so với
các nước còn duy trì hình phạt tử hình, việc áp dụng hình phạt đặc biệt và
nghiêm khắc nhất này ở Việt Nam là thường xuyên, hơn nữa Việt Nam
thuộc trong số 5-6 quốc gia có số lượng người bị kết án tử hình và đã bị thi
hành hình phạt tử hình cao nhất thế giới nên cần thiết phải loại bỏ hình phạt
tử hình ra khỏi hệ thống PLHS bởi các lý do như sau: 1) Tử hình là hình
phạt trái với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự vì quan điểm bãi bỏ
hình phạt tử hình vốn xuất hiện ở Châu Âu vào các thế kỷ XVII - XVIII và
ngày càng mang tính phổ quát hơn, trở thành xu hướng và chuẩn mực nhân
đạo mang tính bắt buộc chung; 2) Bãi bỏ hình phạt tử hình sẽ góp phần đưa
giá trị nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo vào cuộc sống; 3) Trong điều kiện
toàn cầu hóa hiện nay nhiều giá trị nhân đạo đã mang tính toàn cầu bắt buộc
chung và; 4) Các quốc gia đang duy trì hay tái áp dụng hình phạt tử hình đều
cố gắng giảm đến mức tối đa hình phạt này.
7. Những lý do đề nghị loại bỏ hình phạt tử hình mà nhóm này đưa ra là:
1) Hình phạt tử hình có phải bảo vệ một cách hiệu quả giá trị tính mạng của
con người; 2) Tất cả các hệ thống TPHS đều tồn tại những vấn đề và khả
năng sai sót, không có hệ thống nào có thể tự cho là hoàn thiện, vì vậy,
nguy cơ người vô tội bị kết án tử hình và bị tước bỏ tính mạng là sai lầm
không thể lấy lại được; 3) Tính chất tàn bạo của hình phạt tử hình là
không thể chấp nhận; 4) Việc áp dụng hình phạt tử hình có nguy cơ bất
công và phân biệt đối xử trong tố tụng hình sự; 5) Do tính tàn khốc của
hình phạt tử hình nên việc áp dụng hình phạt này là trái với những giá trị
đạo đức, đặc biệt là làm tổn hại lòng nhân đạo và sự khoan dung – những
giá trị đạo đức cơ bản mà tất cả các xã hội đều cần phải vun đắp nên; 6)
Tử hình trái với nguyên tắc khoan dung-nhân đạo trong hoạt động tư
pháp; 7) Vấn đề hiệu quả phòng ngừa của hình phạt tử hình cần phải bàn
xét lại vì không có chứng cứ nào cho thấy hiệu quả vượt trội của hình
phạt tử hình trong việc ngăn ngừa tội phạm (thậm chí trong một số
trường hợp việc áp dụng hình phạt tử hình còn làm cho tình hình tội
phạm trở nên nghiêm trọng hơn); 8) Tính vô nghĩa và luẩn quẩn của hình
phạt tử hình (Ví dụ: Một người bị kết án tử hình về tội giết người không
những không giúp lấy lại được tính mạng của nạn nhân mà còn gây thêm
cái chết cho một người nữa); 9) Chi phí cho việc thi hành hình phạt tử
hình rất tốn kém; 10) Có nguy cơ vi phạm các chuẩn mực chung của
pháp luật quốc tế về quyền con người và; 11) Trái với tinh thần nhân đạo-
khoan dung.

8. Hiện nay có 89 quốc gia trên thế giới đã hủy bỏ án tử hình, 28 quốc
gia chưa xử tử người nào trong 10 năm qua và 9 quốc gia chỉ áp dụng án
tử hình trong các trường hợp đặc biệt (như tội ác chiến tranh), 74 quốc
gia vẫn còn áp dụng nó (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB
%AD_h%C3%ACnh). Các quốc gia hủy bỏ án tử hình cho rằng tác dụng
của hình phạt này với việc ngăn chặn tội phạm cũng giống như các loại
hình phạt khác. Các cuộc khảo sát do Liên Hợp quốc thực hiện (năm
1988, 1996 và 2002) về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và tỷ lệ phạm
tội ở nhiều quốc gia trên thế giới đã kết luận rằng: "Không tìm thấy
những chứng cứ khoa học cho thấy việc thi hành án tử hình có tác dụng
ngăn chặn tội phạm tốt hơn so với việc áp dụng hình phạt tù chung thân
v.v..". Công trình nghiên cứu nổi tiếng nhất chứng minh hình phạt tử hình
không có tác dụng vượt trội trong ngăn chặn tội phạm là của nhà tội
phạm học Thorsten Sellin, công bố vào năm 1959. Trong công trình này,
Thorsten Sellin khẳng định, hình phạt tử hình không có tác dụng ngăn
chặn tội phạm hơn so với hình phạt tù chung thân. Ông cho rằng những
kẻ phạm tội rất ít khi suy tính về hậu quả có thể phải gánh chịu trước khi
thực hiện hành vi phạm tội, thậm chí còn tin rằng họ sẽ không bị bắt (AI,
Death Penalty: Question and Answers http://www.amnesty.org/en/death-
penalty). Do vậy, niềm tin về tác dụng đặc biệt trong việc răn đe tội phạm
của hình phạt tử hình chủ yếu dựa trên sự suy đoán. Ngoài ra, nhiều nhà
tội phạm học khác cũng cho rằng lập luận về tác dụng vượt trội trong
phòng ngừa tội phạm của hình phạt tử hình còn mang nặng cảm tính và
động cơ chính trị (ở các nước phương Tây, vấn đề duy trì hình phạt tử
hình thường được giới chính trị gia nêu ra để khai thác tâm lý lo ngại tình
trạng tội phạm của công chúng từ đó thu được nhiều phiếu bầu trong các
cuộc bầu cử). Trên thực tế, đã có một số nghiên cứu đưa ra những số liệu
thống kê ủng hộ tác dụng ngăn chặn vượt trội của hình phạt tử hình với
tội giết người. Ví dụ, ở Anh, theo số liệu của Bộ Nội vụ nước này, tỷ lệ
tội phạm giết người tăng lên gấp đôi kể từ khi hình phạt tử hình bị xóa
bỏ. Ở Hoa Kỳ, từ năm 1993-1997, khi số bản án tử hình được tuyên và
thi hành tăng thì tỷ lệ tội phạm giết người giảm 26%. Trong khi đó,
những kẻ phạm các tội ác nghiêm trọng là những đối tượng rất nguy hiểm
cho xã hội, khả năng tái phạm rất cao, nếu không sử dụng hình phạt tử
hình thì xã hội vẫn còn nguy cơ bị đe dọa nếu họ vượt ngục thành công
hoặc được phóng thích. Việc tước bỏ tính mạng của những kẻ phạm các
tội ác nghiêm trọng là phù hợp với công lý "lấy mạng đền mạng" và cũng
nhân đạo hơn so với hình phạt tù chung thân. Việc bị giam cầm cả đời
hoặc một thời gian dài trong tù với những điều kiện sinh hoạt, quản chế
khắc nghiệt và sự dằn vặt lương tâm đôi khi còn gây đau khổ cho kẻ
phạm tội nhiều hơn so với việc bị kết án tử hình.

Ở Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu hướng
chung trên thế giới, nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới đã quán triệt: "Các bộ, ngành có liên quan cần xem xét hai vấn đề lớn
là hình thức thi hành án tử hình và hạn chế số lượng hình phạt tử hình
trong cơ cấu hình phạt của Bộ luật hình sự”. Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 cũng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm trên về hình phạt tử hình. Tại
Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, việc giảm
một số tội danh có thể bị kết án tử hình từ 29 điều khoản trong Bộ luật
hình sự năm 1999 xuống 22 điều khoản cho thấy Việt Nam có cùng xu
hướng chung quốc tế là giảm việc áp dụng hình phạt tử hình.

Trong tương lai, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, ý
thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng cao thì việc thu hẹp
dần phạm vi áp dụng tiến tới loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi
đời sống xã hội là một xu hướng tất yếu. Mặc dù vậy, trong giai đoạn
hiện nay, việc xóa bỏ hình phạt tử hình tại Việt Nam là vấn đề cần cân
nhắc kỹ lưỡng trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm,
đặc biệt là những dạng tội phạm đặc biệt nguy hiểm như giết người, tội
phạm ma túy… Điều này không chỉ đặt gánh nặng và gây sức ép với các
cơ quan nhà nước trong việc phải tìm ra các biện pháp ngăn chặn tội
phạm hiệu quả mà còn tác động đến tâm lý người dân trong việc ủng hộ
việc áp dụng những hình phạt nghiêm khắc đối với tội phạm.

- The counter value of the death sentence is very easy to realize: in


history, there have been periods when it was used as a tool to repress
classes. Vietnamese kingsand lords did not hesitate to arrest, imprison,
and murderthose opposing the interests of the ruling class, of families
and individuals of kings and lords. The fiercer the class struggle, the
more popular the death sentence is used and the level of cruelty and
barbarism in enforcing the punishment also increases. The application
of the death sentence, in this case, is a political terror, carried out by
the civil service. Typically, after Tran dynasty usurped the throne
from Ly dynasty, “in August of Nham Thin lunar year, under
posthumous name of Kien Trung 8th (1232) of King Thai Tong, Thu
Do killed all people in Ly dynasty royal family (by burying alive more
than 300 people in acollective hole)”. The death sentence was not
enforced on a strict legal basis but in many cases, it was “act first and
report afterward” (beheading first, reporting later as in the feudal
period of Vietnam)”. Currently, there is an opinion argued that it
should not be specified or to a lower extent, the death sentenceshould
not be applied to some crimes of humanviolability, such as murder.
Arguing for this view, it isthought that, up to now, there has not been
any scientificstudy proving the effectiveness of the death sentence
forcriminal prevention; and that for those who commit themost
serious crimes, before committing a crime, theoffender is properly
aware of the possibility of sufferingthe death sentence but even it
cannot prevent them fromcommitting the crime. Therefore, those
following this point of view assume that such specification of
deathsentence only means revenge against the person casingcrime in a
way that violence for violence. Thus, the deathsentence only
encourages a hostile atmosphere with ashortage of humanity and lack
of humanitarian in society.In this case, the death sentence is counter-
valued;
-

https://danluat.thuvienphapluat.vn/nen-bo-an-tu-hinh-tai-viet-nam-
75271.aspx

Án tử hình thực hiện như thế nào ? Nên duy trì hay loại bỏ án tử hình ?

You might also like