You are on page 1of 5

Pháp luật đại cương

Tội phạm có nhiều loại khác nhau, mỗi loại tội phạm khi xảy ra trong thực tế lại có tính chất và
mức độ nguy hiểm nhất định cho xã hội. Hơn nữa, yêu càu đấu tranh chống và phòng ngừa mỗi
tội phạm cũng có sự khác nhau. Do vậy, cần phải có hệ thống hình phạt đa dạng nhưng thống
nhất, thể hiện đầy đủ chính sách hình sự của Nhà nước.

Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có tính hệ thống của các hình thức
hình phạt và mối quan hệ của các hình phạt với các biện pháp tư pháp.

Hệ thống hình phạt được thể hiện qua mối liên kết giữa các hình phạt chính và các hình phạt bổ
sung cũng như qua sự sắp xếp các hình phạt theo trật tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc.

Hệ thống hình phạt được hình thành từ hình phạt chính và hình phạt bổ sung

 Hình phạt chính bao gồm:


 Cảnh cáo: Trong 7 hình phạt chính đối với người phạm tội thì cảnh cáo là hình phạt
chính nhẹ nhất. Cảnh cáo thể hiện sự lên án công khai của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện khi hội đồng xét xử tuyên án đối với tội phạm mà họ đã thực hiện.
Cảnh cáo tuy không có khả năng gây thiệt hại về vật chất cũng như hạn chế nhất định về
thể chất cho người phạm tội nhưng với tính chất là sự khiển trách công khai của Nhà
nước đối với người phạm tội, cảnh cáo vẫn có tác động nhất định đến tinh thần của người
bị kết án để qua đó giáo dục họ. Hình phạt cảnh cáo được quy định, áp dụng cho người
phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được quy
định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) nhưng chưa đến
mức được miễn hình phạt. Ở đây có ranh giới giữa miễn hình phạt và áp dụng hình phạt
cảnh cáo. Việc xác định ranh giới này trong thực tế không phải dễ dàng mặc dù Điều 59
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã quy định các điều kiện được
miễn hình phạt.
o Phạt tiền: Phạt tiền tước đi lợi ích vật chất của người phạm tội, tác động
đến tình trạng tài sản của họ và thông qua đó tác động đến ý thức, thái độ
của người phạm tội. Phạt tiền cũng có tính răn đe, giáo dục đối với người
khác và qua đó có khả năng phòng ngừa chung. Phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng
được BLHS quy định như tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); tội sử dụng trái phép
tài sản (Điều 177 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017);
tội tổ chức tảo hôn (Điều 183 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017) hoặc có thể đổi với tội phạm rất nghiêm trọng nếu là tội xâm
phạm trật tự quản lí kinh tế, tội phạm về môi trường, tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng hoặc tội phạm khác được BLHS quy định
như tội buôn lậu (Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017); tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều
189 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); tội sản xuất,
buôn bán hàng cẩm (Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017) V.V..
o Cải tạo không giam giữ: trong hệ thống hình phạt, cải tạo không giam
giữ được coi là nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nhưng nặng hơn phạt tiền
và cảnh cáo. Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người phạm tội
ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư
trú rõ ràng và thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội. Như vậy, hai
điều kiện cần của cải tạo không giam giữ là điều kiện về tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và điều kiện bảo đảm hiệu quả của
việc áp dụng hình phạt. Ngoài ra còn đòi hỏi, việc cách ly người phạm tội
khỏi xã hội là không cần thiết. Thời hạn của hình phạt cải tạo không giam
giữ là từ 06 tháng đến 03 năm.
o Trục xuất: là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết ấn trong thời hạn
nhất định phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Trục
xuất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung tuỳ theo trường hợp được
toà án áp dụng. Khi quyết định hình phạt đối với người nước ngoài, toà án
căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của họ để quyết định
trục xuất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.
o Tù có thời hạn: là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt cải tạo không
giam giữ. Sự hạn chế tự do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung
pháp lí chủ yếu của loại hình phạt này. Theo Điều 38 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, tù có thời hạn có mức tối thiểu là ba
tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Hình phạt tù có thời hạn không được
áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi
cư trú rõ ràng. Người bị kết án tù có thời hạn chấp hành án tại tại giam.
Thời gian bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt
tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
o Tù chung thân: Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, tù chung thân là
hình phạt rất nghiêm khắc, chỉ nhẹ hơn hình phạt tử hình, về điều kiện áp
dụng tù chung thân, Điều 39 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 quy định, người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa
đến mức xử phạt tử hình thì xử phạt tù chung thân. Đối với tội phậm đặc
biệt nghiêm trọng, toà án phải dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt
(Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) để lựa
chọn một trong ba hình phạt: Tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn (ở
mức cao) để áp dụng đối vói người phạm tội. Thông thường trong thực
tiễn, hình phạt tù chung thân được áp dụng đối với trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng mà nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở mức tối đa vẫn
còn nhẹ nhưng nếu phạt tử hình thì chưa thật cần thiết. Do tính chất
nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân và xuất phát từ nguyên tắc xử lí
người chưa thành niên phạm tội, luật hình sự Việt Nam không cho phép áp
dụng tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong thời gian
chấp hành án tù chung thân, nếu người bị kết án có kết quả cải tạo tốt thì
người người phạm tội có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
o Tử hình: Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt.
Tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây
nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội. Tử hình không đặt ra mục đích cải tạo và
giáo dục người bị kết án nhưng vẫn có mục đích phòng ngừa riêng vì loại
bỏ hoàn toàn khả năng phạm tội lại của người bị kết án. Ngoài ra, tử hình
khi được áp dụng cũng có tác động đến ý thức của người khác trong xã
hội. Tử hình được áp dụng với người phạm tội đặc biệt nghiêm ttọng xâm
phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma tuý, tham nhũng và một số
tội đậc biệt nghiêm trọng khác như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
các tội phá hoại hoà bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh, tội
khủng bố V.V..
 Thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, BLHS quy định
không áp dụng hình phạt tử hình đối với 7 đối tượng sau:
 Người phạm tội là người dưới 18 tuổi khi phạm tội;
 Người phạm tội là phụ nữ có thai khi phạm tội;
 Người phạm tội là phụ nữ có thai khi xét xử;
 Người phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi khi phạm tội;
 Ngưởi phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi khi xét xử;
 Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm
tội;
 Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi xét xử

 Hình phạt bổ sung bao gồm:


o Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định: buộc người phạm tội không được giữ chức vụ, không được hành
nghề hoặc thực hiện công việc nhất định. Hình phạt này được quy định đối
với các tội phạm có sự lợi dụng chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc nhất
định cũng như đối với các tội phạm do thiếu trách nhiệm ừong khi thực
hiện công vụ hoặc do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính.
o Cấm cư trú: Hình phạt này được áp dụng cho người bị phạt tù khi xét
thấy họ có thể lợi dụng điều kiện thuận lợi của địa phương thực hiện tội
phạm sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Địa phương có thể bị cẩm cư
trú là: Thành phố lớn; khu công nghiệp tập trung; khu vực biên giới, bờ
biển, hải đảo; khu vực có những cơ sở quốc phòng quan trọng; khu vực có
các đầu mối giao thông quan trọng... Đây là những địa phương cần thiết
phải bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội ở mức độ cao.
o Quản chế: Quản chế là hình phạt bổ sung, buộc người bị kết án phạt tù
phải cư trú, làm ăn sinh sổng và cải tạo ở một địa phương nhất định dưới
sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương sau khi
chấp hành xong hình phạt tù. Người bị áp dụng hình phạt quản chế có
nghĩa vụ: Trở về địa phương mà bản án chỉ định là nơi quản chế ngay sau
khi chấp hành xong hình phạt tù; không được tự ý rời khỏi nơi quản chế
trong thời gian quản chế. Người bị áp dụng hình phạt này còn bị tước một
số quyền trong các quyền được quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
 Tước một số quyền công dân: Khi bị áp dụng hình phạt này, người bị kết án bị
tước một hoặc một số quyền trong các quyền có thể bị tước như: không được ứng
cử đại biếu cơ quan quyền lực nhà nưởc, không được làm việc trong các cơ quan
nhà nước, không được phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân
 Tịch thu tài sản: hình phạt bỏ sung, tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở
hữu của người phạm tội để nộp vào ngân sách nhà nước. Tịch thu tài sản được áp
dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma tuý, tham
nhũng hoặc tội phạm khác do BLHS quy định.Tài sản bị tịch thu phải thuộc sở
hữu của người bị kết án; tài sản đó có thể là tài sản người bị kết án đang sử dụng
hoặc là tài sản đã cho vay, mượn, thuê, gửi sửa chữa, gửi người khác giữ hoặc
đang cầm cố, thế chấp... Tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án có thể tồn tại
dưới dạng hiện vật hoặc là tiền, kể cả tiền gửi ngân hàng, quỹ tín dụng, hoặc là
trái phiếu, tín phiếu...

You might also like