Professional Documents
Culture Documents
P4 DỊCH COSTANZO THẬN
P4 DỊCH COSTANZO THẬN
Tỷ lệ nước được tái hấp thu = .. Trong ví dụ đó, phần nước được tái hấp thu
= 1 - 1/2 = 0,5 hoặc 50%. Giải pháp toán kết luận rằng 50% nước đã được tái hấp thu.
Ví dụ: nếu [TF/P]inulin = 100, phần nước được tái hấp thu = 1- 1/100 = 1- 0,01 = 0,99 hay
99%. Ngẫu nhiên, đây là giá trị của [TF/P]inulin có thể xảy ra ở phần cuối của ống góp, tại
thời điểm đó 99% nước lọc đã được tái hấp thu trở lại vào máu.
3. [TF/P]x/[TF/P]inulin
- Tỷ lệ [TF/P]inulin cung cấp một công cụ để xác định [TF/P]x đối với quá trình tái hấp
thu nước. Với sự xác định này, có thể biết chắc chắn liệu một chất đã được tái hấp thu, bài
tiết hay hoàn toàn không được vận chuyển
- [TF/P]x/[TF/P]inulin là tỷ lệ kép để xác định lượng chất x còn lại sau lọc dọc theo
nephron. Ví dụ: nếu [TF/P]x/[TF/P]inulin = 0,3, thì 30% lượng chất x chưa lọc vẫn còn trong
dịch ống thận tại điểm đó trong nephron, hoặc 70% đã được tái hấp thu
- Tỷ lệ này còn giải thích trường hợp Na+ ở cuối ống lượn gần: [TF/P]Na= 1 nghĩa là
phần lớn Na+ đã được tái hấp thu nhưng vì nước được tái hấp thu cùng nó nên [TF/P]Na
không đổi
Hình 6.2: Cơ chế tế bào tái hấp thu Na+ ở đoạn sau ống lượn gần
a. Tái hấp thu đẳng trường: là một dấu hiệu đặc trưng của chức năng ống lượn gần:tái hấp
thu chất tan và nước được kết hợp và tỷ lệ với nhau. Do đó, nếu 67% chất hòa tan được lọc
được tái hấp thu bởi ống lượn gần, thì 67% lượng nước được lọc cũng sẽ được tái hấp thu.
Kết quả giá trị [TF/P]thẩm thấu và [TF/P]Na+ = 1 dọc theo toàn bộ ống lượn gần. Lý do mà
các tỷ lệ này duy trì ở giá trị 1,0 là do quá trình tái hấp thu nước được kết hợp trực tiếp với
cả quá trình tái hấp thu Na+ và tái hấp thu toàn bộ chất tan
Hình 6.22 Cơ chế tái hấp thu đẳng trương ở ống lượn gần chỉ ra các con đường tái hấp thu
Chú thích:
+ 1. Na+ đi vào tế bào qua màng tế bào. Bởi vì màng tế bào có thể thấm nước,
nước đi theo chất tan để duy trì đẳng áp
+ 2. Na+ được bơm ra khỏi tế bào bởi Na+ -K+ ATPase, nằm ở màng đáy hoặc
các màng tế bào đối diện với mao mạch quanh ống [2a], và các màng tế bào
đối diện với các không gian bên giữa các tế bào giữa các tế bào [2b].) Khi
Na+ được bơm ra khỏi tế bào, nước sẽ thẩm thấu ra khỏi tế bào một cách
thụ động
+ 3. Khoảng gian bào là con đường quan trọng để tái hấp thu chất tan và nước.
Chất tan đẳng trương tích tụ trong các khoảng trống này giữa các tế bào ống
lượn gần.Chất tan đẳng trương này trong khoảng gian bào được tác động
bởi lực Starling trong mao mạch quanh ống thận. Áp suất chính thúc đẩy quá
trình tái hấp thu là áp suất keo cao (πc) (protein) của máu mao mạch quanh
ống thận.
b. Tỷ lệ [TF/P] dọc theo ống lượn gần thể hiện qua đồ thị:
- Ở đoạn đầu ống lượn gần (tức là bao Bowman), tỷ lệ [TF/P] đối với tất cả các chất
được lọc tự do là 1,0; bởi vì chưa xảy ra tái hấp thu hoặc bài tiết, nồng độ chất tan
trong dịch ống thận bằng nồng độ của chúng trong huyết tương
- Di chuyển dọc theo ống lượn gần, vì cả Na+ và tổng chất tan đều được tái hấp thu
theo tỷ lệ với nước (nghĩa là tái hấp thu đẳng trương), các giá trị của [TF/P]Na và
[TF/P]nồng độ thẩm thấu đều duy trì ở mức 1,0
- Do quá trình tái hấp thu glucose, axit amin và HCO3 lớn hơn tương đối so với tái hấp
thu nước ở đoạn đầu ống lượn gần, nên [TF/P]glucose, [TF/P]axit amin giảm xuống
dưới 1,0
- tái hấp thu Cl ít hơn tái hấp thu nước ở đoạn đầu ống lượn gần (do HCO3- được ưu
tiên hơn), do đó [TF/P]Cl tăng lớn hơn >1.0
- [TF/P]inulin tăng tuyến tính dọc theo đường gần ống vì inulin được lọc nhưng không
được tái hấp thu và nước được tái hấp thu. (Hai phần ba lượng nước được tái hấp
thu dọc theo toàn bộ ống lượn gần; do đó tỷ lệ inulin [TF/P] xấp xỉ 3,0 ở đoạn sau
của ống lượn gần)
c. Cân bằng chức năng cầu thận - ống thận:
- Nó mô tả sự cân bằng giữa quá trình lọc (cầu thận) và tái hấp thu (ống lượn gần)
- VD: Nếu GFR tự nhiên tăng 1%, lượng Na+ được lọc cũng sẽ tăng 1% (lượng lọci =
GFR × [P]x). Do đó, nếu GFR là 180L/ngày và [P] là 140 mEq/L, thì lượng Na+lọc là
25.200 mEq/ngày. Lượng Na+ được lọc tăng 1% tương ứng với mức tăng 252
mEq/ngày. Nếu không có sự tăng tái hấp thu kèm theo, thì thêm 252 mEq/ngày Na+
sẽ được bài tiết qua nước tiểu. Vì tổng lượng Na+ trong ECF chỉ là 1960 mEq (14L ×
140 mEq/L), nên việc mất 252 mEq/ngày là đáng kể nhưng nó không xảy ra
- Sự cân bằng trong ống thận đảm bảo rằng một phần không đổi của lượng lọc được
tái hấp thu bởi ống lượn gần, ngay cả khi lượng lọc tăng hoặc giảm. Phần không đổi
này thường được duy trì ở mức 67% lượng được lọc
- GFR( tốc độ lọc cầu thận) được cho là tăng tự phát 1% mà không có thay đổi nào về
RPF (dòng huyết tương qua thận). Kết quả là, tỷ lệ lọc (GFR/RPF) tăng lên, nghĩa là
một phần chất tan lớn hơn bình thường đã được lọc ra khỏi máu mao mạch cầu
thận.Hậu quả là nồng độ protein và áp suất keo trong mao mạch cầu thận tăng hơn
bình thường. Vì πc là động lực quan trọng nhất để tái hấp thu dịch đẳng trương ở
ống lượn gần,nên tái hấp thu tăng lên.
- Tóm lại, tăng GFR làm tăng phần lọc, dẫn đến tăng πc và tăng tái hấp thu ở
ống lượn gần; giảm GFR làm giảm phần lọc, dẫn đến giảm πc và giảm tái hấp
thu. Do đó, tỷ lệ giữa quá trình lọc và tái hấp thu ở ống lượn gần được duy trì
(tức là có sự cân bằng ở ống thận)
d. Những thay đổi về thể tích dịch ngoại bào (ECF)
- Cân bằng chức năng cầu thận - ống thận đảm bảo rằng bình thường 67% lượng
Na+ đã lọc và nước được tái hấp thu ở ống lượn gần. Sự cân bằng này được duy trì
thông qua những thay đổi πc của mao mạch quanh ống thận
- Tuy nhiên, cân bằng ống thận có thể bị thay đổi do thay đổi thể tích ECF
Hình 6.24 Ảnh hưởng của việc tăng thể tích dịch ngoại bào (ECF) (A) và giảm thể tích dịch
ngoại bào ECF (B) đối với tái hấp thu dịch đẳng trương ở ống lượn gần liên quan áp suất
keo của mao mạch quanh ống thận
- Sự tăng thể tích ECF làm giảm tái hấp thu một phần ở ống lượn gần (xem Hình
6.24A). Khi thể tích ECF tăng lên (ví dụ, bằng cách truyền NaCl đẳng trương),nồng
độ protein huyết tương bị giảm do pha loãng và áp suất thủy tĩnh mao mạch (Pc )
tăng lên. Đối với các mao mạch quanh ống, những thay đổi này dẫn đến giảm πc và
tăng Pc. Cả hai thay đổi này đều làm giảm tái hấp thu một phần dịch đẳng trương ở
ống lượn gần. Thay vào đó, một phần chất tan lẽ ra đã được tái hấp thu rò rỉ trở lại
lòng ống (qua chỗ nối) và được bài tiết. Sự thay đổi cân bằng ống cầu thận này là
một trong một số cơ chế hỗ trợ bài tiết NaCl và nước dư thừa khi có sự tăng thể
tích ECF
- Sự giảm thể tích ECF tạo ra sự gia tăng tái hấp thu một phần ở ống lượn gần (xem
Hình 6.24B). Khi thể tích ECF giảm (ví dụ tiêu chảy hoặc nôn), nồng độ protein huyết
tương tăng (cô đặc) và áp suất thủy tĩnh mao mạch giảm. Kết quả là có sự gia tăng
πc và giảm Pc của máu mao mạch quanh ống thận. Những thay đổi về áp suất tạo ra
sự gia tăng tái hấp thu một phần chất tan đẳng trương. Sự thay đổi cân bằng chức
năng ống thận này là một cơ chế bảo vệ hợp lý, vì thận đang cố gắng khôi phục thể
tích ECF bằng cách tái hấp thu nhiều chất hòa tan và nước hơn bình thường. Ngoài
ra, Giảm thể tích ECF gây ra giảm thể tích máu và áp lực động mạch kích hoạt hệ
thống renin-angiotensin-aldosterone ->Angiotensin II kích thích trao đổi Na+ -H+ ở
ống lượn gần và do đó kích thích tái hấp thu Na+,HCO3 -> có thể gây nhiễm kiềm
3. Quai Henle:
- gồm 3 đoạn:
+ nhánh xuống: cho nước và ure qua nhưng lại không cho natri thấm qua
+ phần mỏng nhánh lên: tái hấp thu thụ động natri nhưng không tái hấp thu
nước
+ phần dày nhánh lên: tái hấp thu tích cực natri
- sự nhân nồng độ ngược dòng:
+ nhánh xuống: nước di chuyển ra khỏi lòng ống, chất tan vận chuyển vào lòng
nhánh -> dịch trở nên ưu trương, áp lực thẩm thấu cao
+ phần mỏng nhánh lên: màng không thấm nước nhưng NaCl vẫn được vận
chuyển qua màng -> áp lực thẩm thấu giảm dần
+ phần dày nhánh lên: cơ chế tái hấp thu chủ động Natri phụ thuộc nồng độ tức
càng nhiều Na chuyển đến nhánh dày thì nó càng được tái hấp thu nhiều
-> sự ức chế tái hấp thu Na+ ở ống lượn gần tạo ra sự gia tăng bài tiết Na+
nhỏ hơn mong đợi. Ví dụ, thuốc lợi tiểu hoạt động ở ống lượn gần thường chỉ
tạo ra lợi tiểu nhẹ. Mặc dù, thuốc lợi tiểu thực sự ức chế tái hấp thu Na+ ở
đầu gần, một số Na+ “dư thừa” sau đó được đưa đến quai Henle được
tái hấp thu theo cơ chế phụ thuộc vào nồng độ. Như vậy quai Henle (và ống
lượn xa) bù trừ một phần tác dụng lợi tiểu ống lượn gần
- Sự đồng vận Na+ -K+ - 2Cl- ở màng lót phần dày nhánh lên quai henle:
+ năng lượng sử dụng có nguồn gốc từ gradient Na+. Na+ bơm ra khỏi tế bào
nhờ Na-K-ATPase, sau đó Cl và K được khuếch tán qua các kênh trong
màng đáy theo các gradient điện hóa tương ứng
+ Tuy nhiên, một phần của K+ khuếch tán trở lại lòng ống dẫn đến điện thế
màng tế bào âm hơn (sự chênh lệch điện thế dương trong lòng ống cần vai
trò tái hấp thu Ca2+ và Mg2+)
- Phần dày nhánh lên là nơi tác dụng của thuốc lợi tiểu mạnh nhất, thuốc lợi tiểu quai
(ví dụ furosemide, bumetanide, axit ethacrynic). Thuốc lợi tiểu quai là các axit hữu cơ
có liên quan đến PAH (Hydrocarbon thơm đa vòng). Ở pH sinh lý, thuốc lợi tiểu
quai là các anion gắn vào vị trí gắn Cl của chất đồng vận chuyển Na+-K+-2Cl.
Khi thuốc lợi tiểu được liên kết với vị trí liên kết Cl , bộ ba đồng vận chuyển
ion không thể diễn ra và quá trình vận chuyển dừng lại. Như vậy quai Henle
(và ống lượn xa) bù trừ một phần tác dụng lợi tiểu đoạn gần. Ở liều tối đa,
thuốc lợi tiểu quai ức chế hoàn toàn tái hấp thu NaCl ở phần dày nhánh lên
và về mặt lý thuyết có thể gây bài tiết tới 25% lượng Na+ được lọc
- Do khả năng không thấm nước, NaCl được tái hấp thu bởi phần dày nhánh
lên, nhưng nước không được tái hấp thu cùng với nó. Vì lý do này, đoạn dày
nhánh lên còn được gọi là đoạn pha loãng: Chất tan được tái hấp thu, nhưng
nước vẫn ở lại, làm loãng dịch ống thận. Bằng chứng về chức năng pha loãng
này được thấy trong các giá trị nồng độ Na+ của dịch ống thận và áp suất
thẩm thấu của dịch ống thận. Dịch ống thận tới đầu ống lượn xa có nồng độ
Na+ thấp hơn và độ thẩm thấu thấp hơn so với máu và theo đó, [TF/P]Na và
[TF/P]độ thẩm thấu < 1,0
Hình 6.25 Cơ chế tế bào tái hấp thu Na+ ở phần dày nhánh lên của quai Henle. Sự khác
biệt điện thế xuyên biểu mô là +7 mV.
Hình 6.26 Cơ chế tế bào tái hấp thu Na+ ở đầu ống lượn xa. Hiệu điện thế xuyên biểu mô là 10 mV
a. Đoạn đầu ống lượn xa:
- tái hấp thu 5% lượng Na+ được lọc
- cơ chế này là một chất đồng vận chuyển Na+-Cl trong màng tế bào, năng lượng cho
nó bắt nguồn từ gradient Na+ (Hình 6.26). Có sự tái hấp thu hoàn toàn Na+ và Cl ở
đoạn đầu ống lượn xa, điều này được giải thích như sau: Cả hai ion đều đi vào tế
bào trên chất đồng vận chuyển Na+ -Cl ; Na+ sau đó được bơm ra khỏi tế bào vào
máu bởi Na+-K+ ATPase, và Cl khuếch tán ra khỏi tế bào thông qua các kênh Cl ở
màng đáy
- Đồng vận ở ống lượn xa khác phần dày nhánh lên: Nó vận chuyển hai ion (không
phải ba), nó trung hòa về điện (không phải điện tích) và nó bị ức chế bởi một
nhóm thuốc lợi tiểu khác, thuốc lợi tiểu thiazide (ví dụ: chlorothiazide,
hydrochlorothiazide, metolazone). Giống như thuốc lợi tiểu quai, thiazide là axit hữu
cơ, là anion ở pH sinh lý. Thuốc lợi tiểu thiazide liên kết với vị trí Cl của chất đồng
vận chuyển Na+ -Cl do đó ức chế tái hấp thu NaCl ở đoạn đầu ống lượn xa
- Đoạn đầu của ống lượn xa không thấm nước. Do đó, nó tái hấp thu chất hòa tan
nhưng để lại nước, sau đó làm loãng dịch ống thận
Hình 6.27 Cơ chế tế bào tái hấp thu Na+ trong các tế bào chính của ống lượn xa và ống góp
+ Tế bào kẽ α tham gia vào quá trình tái hấp thu K+ và bài tiết H+
- Đoạn cuối ống lượn xa và ống góp chỉ tái hấp thu 3% lượng Na+ đã được lọc nhưng
nó là những đoạn cuối cùng của nephron ảnh hưởng đến lượng Na+ được bài tiết
(nghĩa là chúng điều chỉnh quá trình tái hấp thu Na+)
- sự tái hấp thu Na+ ở các đoạn này được điều hòa nội tiết tố. Aldosterone là một
hormone steroid do vỏ thượng thận tiết ra tác động trực tiếp lên các tế bào chính để
tăng tái hấp thu Na+: các protein chịu sự tác động của aldosteron: kênh Na+ của
màng tế bào (ENaC), Na+ -K+ ATPase và các enzym của chu trình axit citric (ví dụ,
citrate synthase)
- Sự tái hấp thu Na+ của các tế bào chính bị ức chế bằng thuốc lợi tiểu giữ K+ (ví dụ
amiloride, triamterene, spironolactone). Spironolactone, một steroid và chất đối
kháng aldosterone, ngăn chặn aldosterone từ xâm nhập vào nhân của các tế bào
chính và do đó ngăn chặn sự tổng hợp của mRNA và protein mới. Amiloride và
triamterene liên kết với kênh Na+ màng và ức chế sự gia tăng tái hấp thu Na+ do
aldosteron gây ra . Thuốc lợi tiểu giữ K+ chỉ tạo ra lợi tiểu nhẹ vì chúng ức chế một
tỷ lệ nhỏ như vậy trong tổng lượng Na+ tái hấp thu
- Tính thấm nước của các tế bào chính được kiểm soát bởi ADH, được tiết ra bởi thùy
sau của tuyến yên theo nhu cầu nước của cơ thể. Khi nồng độ ADH thấp hoặc không
có, khả năng thấm nước của các tế bào chính thấp và rất ít, nếu có, nước được tái
hấp thu cùng với NaCl. Khi nồng độ ADH cao, các kênh aquaporin 2 (AQP2) được
đưa vào màng trong lòng của các tế bào chính, kích hoạt tính thấm nước của chúng;
do đó, với sự có mặt của ADH, nước được tái hấp thu cùng với NaCl
đoạn đầu ống tái hấp thu đẳng -đồng vận Na- -PTH ức chế Thuốc lợi tiểu
lượn gần trương chất hòa glucose, Na-aa, đồng vận Na- thẩm thấu: ức
tan và nước Na-phosphat PO4 chế carbonic
-đối vận Na-H -angiotensin II anhydrase
kích thích đối
vận Na-H
đoạn sau ống tái hấp thu đẳng tái hấp thu Na Thuốc lợi tiểu
lượn gần trương chất hòa cùng Cl nhờ thẩm thấu
tan và nước gradient Cl
đoạn dày quai • Tái hấp thu đồng vận Na-K- ADH kích thích Thuốc lợi tiểu
henle Na-Cl nhưng 2Cl đồng vận Na-K- quai
không thấm với 2Cl
nước
• Cơ chế phụ
thuộc tải lượng
• Hiện tượng
nhân nồng độ
ngược dòng
• Sự chênh lệch
điện thế dương
trong lòng ống
(Vai trò
tái hấp thu
Ca2+ và Mg2+)
đoạn đầu ống • Tái hấp thu đồng vận Na-Cl PTH kích thích Thuốc lợi tiểu
lượn xa Na-Cl nhưng tái hấp thu Ca thiazid
không thấm với
nước
đoạn cuối ống • Tái hấp thu kênh vận ADH kích thích thuốc lợi tiểu
lượn xa và ống Na-Cl chuyển ENaC: tái hấp thu giữ kali
góp (tế bào • Tái hấp thu vận chuyển Na nước
chính) nước Kênh vận Aldosteron kích
• Bài tiết K chuyển Kali thích tái hấp thu
Kênh vận Na và bài tiết K
chuyển nước
AQP2
đoạn cuối ống • Bài tiết H+ bơm H+-K+ aldosteron kích thuốc lợi tiểu
lượn xa và ống • tái hấp thu Kali ATPase thích bài tiết H+ giữ Kali
góp (tế bào bơm H+
alpha) ATPase
BẢNG 6.7 Tóm tắt chức năng của các phân đoạn Nephron chính
(chú thích: ADH, hormon chống bài niệu; PTH, hormone tuyến cận giáp; ENaC, kênh Na+
biểu mô; AQP2, aquaporin 2)
HỘP 6.2 Sinh lý lâm sàng: Phù toàn thân do Hội chứng thận hư
Tình huống: 10 năm trước, một người đàn ông 72 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh cầu
thận gây ra hội chứng thận hư (trong đó mao mạch cầu thận trở nên tăng tính thấm với
protein huyết tương). Bệnh nhân có các triệu chứng sau, bao gồm tăng cân và sưng mặt,
chân và bụng. Khi kiểm tra thể chất, bác sĩ của anh ấy ghi nhận tình trạng phù nề quanh
hốc mắt, phù nề các chi, cổ trướng và tiếng ngựa phi S3 (T3) . Nồng độ protein trong
huyết tương của anh ấy giảm nghiêm trọng và nước tiểu của anh ấy dương tính với
protein. Bác sĩ kê toa thuốc lợi tiểu quai, furosemide, để tăng bài tiết Na+ và nước, nhưng
liều lượng ban đầu không hiệu quả. Sau đó, bác sĩ tăng liều furosemide và thêm thuốc lợi
tiểu thứ hai, spironolactone.
Giải thích: Bệnh cầu thận lâu năm khiến thành mao mạch cầu thận của người đàn ông
tăng tính thấm với protein huyết tương vào nước tiểu. Khi albumin huyết tương được bài
tiết (và các quá trình tổng hợp ở gan không thể theo kịp lượng mất đi), nồng độ protein
huyết tương của anh ta giảm, dẫn đến giảm áp lực keo huyết tương. Sự giảm tổng quát
áp suất keo huyết tương và hình thành phù nề do giảm kéo nước vào lòng mạch. Một yếu
tố khác góp phần gây phù nề ở người đàn ông là tăng tái hấp thu Na+ ở thận: Khi một
lượng lớn chất tan được lọc ra khỏi mao mạch của anh ta vào dịch kẽ, huyết
tương của anh ta giảm thể tích dẫn đến giảm áp lực tưới máu thận. Áp suất tưới máu
giảm kích hoạt hệ thống renin–angiotensin II–aldosterone, và nồng độ aldosterone cao
kích thích tái hấp thu Na+ ở đoạn cuối ống lượn xa và ống góp. Kết quả là, người đàn ông
ở trong tình trạng cân bằng Na+ dương , dẫn đến tăng thể tích ECF và tăng thêm thể tích
dịch kẽ và phù nặng hơn. Liều furosemide ban đầu không hiệu quả vì người đàn ông bị
phù nề dai dẳng hoặc kháng thuốc lợi tiểu. Tại sao? Vì để furosemide (thuốc lợi tiểu quai)
ức chế chất đồng vận chuyển Na+ -K+ -2Cl trên màng tế bào của phần dày nhánh lên,
thuốc phải ở dạng tự do. Nồng độ protein cao trong dịch ống thận liên kết nhiều với thuốc
lợi tiểu và ngăn không cho nó ức chế đồng vận chuyển.
Điều trị: Một cách tiếp cận để điều trị tình trạng kháng thuốc lợi tiểu là tăng liều
furosemide; liều cao hơn có nghĩa là nhiều thuốc sẽ được lọc và bài tiết nhiều hơn và sẽ
có nồng độ cao hơn của cả thuốc toàn phần và thuốc tự do trong lòng mạch. Cách tiếp
cận thứ hai là thêm chất đối kháng aldosterone như spironolactone vào chế độ điều trị;
spironolactone sẽ ức chế tái hấp thu Na+ do aldosterone kích thích và làm gián đoạn giai
đoạn giữ Na.