You are on page 1of 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG

Môn: Luật Kinh Tế

Giảng viên: TS. Viên Thế Giang

Điều Kiện Pháp Lý Để Hình Thành Thị


Trường Mua Bán Doanh Nghiệp Ở Việt Nam

Nhóm sinh viên thực hiện Mã số sinh viên


Lê Thị Ngọc Anh 22000020
Phạm Hữu Trung 22000021
Lê Chí Thọ 22000022

Tháng 10/2022
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................................... 1

NỘI DUNG................................................................................................................................................... 4

1. Cơ sở lý luận của hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ...................................................... 4

2. Điều kiện pháp lý để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam........................... 11

2.1. Quy định về chủ thể trong mua bán và sáp nhập doanh nghiệp....................................................... 11

2.1.1. Bên mua doanh nghiệp .................................................................................................................... 11

2.1.2. Bên bán doanh nghiệp ..................................................................................................................... 14

2.2. Quy định về các hình thức mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ................................................... 16

2.2.1. Hợp nhất doanh nghiệp ................................................................................................................... 16

2.2.2. Sáp nhập doanh nghiệp ................................................................................................................... 17

2.2.3. Mua lại doanh nghiệp ..................................................................................................................... 18

2.2.3.1. Mua bán toàn bộ doanh nghiệp .................................................................................................... 18

2.2.3.2. Mua bán một phần doanh nghiệp ................................................................................................ 19

2.2.3.3. Mua bán tài sản của doanh nghiệp .............................................................................................. 21

KẾT LUẬN ................................................................................................................................................ 22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 23


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay kinh tế thị trường cạnh tranh khóc liệt, nhiều doanh nghiệp tiến hành
hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (còn được gọi tắt là M&A). Doanh
nghiệp tiến hành M&A để phát triển, thay đổi diện mạo và quy mô hoạt động của
mình, M&A giúp cho các doanh nghiệp đang có nguy cơ phá sản có được sự trở mình,
ngoài ra còn giảm chi phí đầu tư. Quan trọng hơn hết là doanh nghiệp mới tạo ra sau
thương vụ mua bán và sáp nhập sẽ có đầy đủ các điều kiện thuận lợi và tiềm lực để
phát triển trong tương lai.
Merge and Acquisition (viết tắt M&A) được hiểu là sáp nhập và mua lại (thường
gọi là mua bán) doanh nghiệp, là việc thực hiện mua lại quyền kiểm soát hoặc sáp nhập
các doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động này thể hiện qua việc một bên chiếm
quyền sở hữu toàn bộ hoặc chỉ một phần của doanh nghiệp khác thông qua hoạt động
giành quyền chi phối, nắm giữ toàn bộ hoặc một phần trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp là một phần tất yếu của bất cứ nền
kinh tế lành mạnh nào và là công cụ để tái cơ cấu doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Hơn nữa M&A còn được xem là con đường nhanh nhất để các doanh nghiệp nước
ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Ngoài việc chính sách pháp luật hiện hành
của Việt Nam ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc góp vốn hoặc mua cổ
phần của các nhà đầu tư từ nước ngoài thì thị trường nước ta cũng được cho là nơi dồi
dào và có nhiều tiềm năng để các nhà đầu tư góp vốn vào và mở rộng quy mô kinh
doanh.
Từ năm 1999,”khi Luật Doanh nghiệp ra đời cũng là lúc cụm từ M&A được
quan tâm ở Việt Nam, tuy nhiên hoạt động này mới bắt đầu sôi động từ năm 2005
trong giai đoạn phát triển ban đầu của thị trường chứng khoán.”Đầu tư theo hình thức
M&A trong những năm gần đây chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư nước
ngoài trên toàn thế giới. Cụ thể ở Việt Nam theo báo cáo Công ty kiểm toán KPMG
cho thấy, 10 tháng năm 2021 các nhà đầu tư trong nước đã thể hiện sự tham gia mạnh
mẽ vào các hoạt động M&A với 133 giao dịch đã được thực hiện, chiếm 1,6 tỷ USD

1
trong tổng giá trị thương vụ M&A ở Việt Nam. Từ đó cho thấy hoạt động M&A tại
Việt Nam thu hút nhiều nhà đầu tư, đặc biệt kể đến là nhà đầu tư nước ngoài. Trong
những năm tới với xu hướng kinh tế và thị trường ngày càng phát triển, cùng với
những yếu tố thuận lợi như: tốc độ GDP cao, những thay đổi trong Luật Doanh Nghiệp
2020, bên cạnh những hạn chế liên quan đến Covid-19 được dỡ bỏ để phát triển kinh tế
thì số lượng và giá trị của các giao dịch M&A sẽ ngày càng tăng mạnh.
Hiện nay, M&A không chỉ nghiên cứu như vấn đề định hướng quản trị doanh
nghiệp dưới cái nhìn kinh tế, mà dưới cái nhìn pháp lý M&A còn được nghiên cứu như
đối tượng của khuôn khổ pháp lý khi thực hiện giao dịch. Bên cạnh đó M&A còn có
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và nhà khoa học trong lĩnh vực pháp lý và kinh tế.
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời quy định về tổ chức doanh nghiệp với các hình thức
như chia, tách, sáp nhập doanh nghiệp, liên doanh doanh nghiệp là tiền đề cho những
khái niệm đầu tiên về mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam. Tiếp đó là những thay đổi,
bổ sung bằng sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp 2020, Luật Cạnh Tranh năm 2018, Luật
Đầu Tư 2020,….nhằm nâng cao và có sự thay đổi về một vài điều để nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật M&A tại Việt Nam. Số lượng thương vụ M&A ở nước ta ngày càng
tăng tuy nhiên hệ thống quy định pháp luật liên quan đến M&A còn sơ khai, bất cập
nên đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải có những cải cách để nâng cao hiệu quả của hoạt
động M&A.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tiến nghiên cứu nhằm Làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về mua bán,
sáp nhập theo quy định của Pháp luật Việt Nam từ đó đưa ra phương hướng và giải
pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh vấn đề này.

3. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những vấn đề đã đặt ra, em đã sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu như phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh.

2
Phương pháp tổng hợp và phân tích được sử dụng để tìm hiểu và thu thập các tài
liệu nghiên cứu khoa học sau đó tổng hợp các quan điểm, ý kiến khác nhau liên quan
đến hoạt động sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp.

Phương pháp phân tích cũng được sử dụng ở Chương 2 để phân tích các nội
dung pháp luật về sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp theo Luật cạnh tranh

Đề tài đã kết hợp việc sử dụng số liệu thực tế được lấy từ nguồn của các cơ quan
quản lý cạnh tranh để phân tích, đánh giá thực trạng sáp nhập và hợp nhất Doanh
nghiệp ở Việt Nam, đồng thời sử dụng phương pháp diễn giải và quy nạp để đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động này trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu vấn đề lý luận và quy định về điều
kiện pháp lý của thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nội dung: Quy định và thực tiễn về thị trường mua bán, Sáp nhập và
Hợp danh doanh nghiệp theo Pháp luật Việt Nam

Phạm vi không gian: Thực trạng thực hiện hoạt động này tại Việt Nam.

Phạm vi thời gian: Từ năm 2019 đến 2021

3
NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận của hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp

1.1.Khái niệm về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp


Những năm gần đây Việt Nam trở thành điểm đến M&A hàng đầu tại khu vực
Đông Nam Á, thị trường này diễn ra sôi nổi với ngày càng nhiều thương vụ nổi bật.
Các nhà đầu tư lựa chọn Việt Nam để thực hiện thương vụ M&A và thu được lợi nhuận
đáng kể từ việc tận dụng những nền tảng kinh doanh sẵn có của các doanh nghiệp Việt
Nam sau M&A1. Vấn đề mua bán và sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam là mối quan
tâm của các nhà đầu tư khi mua bán sáp nhập doanh nghiệp trong hệ thống pháp luật
Việt Nam chưa được định nghĩa đầy đủ.
Có thể thấy mua bán và sáp nhập doanh nghiệp là cụm từ luôn được viết và đọc
kèm với nhau, trong tiếng anh được gọi là Mergers and Acquisitions (viết tắt là M&A).
Hai khái niệm này thường đi chung với nhau và phần lớn các nghiên cứu khoa học sẽ
nghiên cứu song song về hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp chung. M&A
được định nghĩa dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: về thuật ngữ, về pháp lý và về
kinh tế.
Theo khía cạnh thuật ngữ, Mergers trong tiếng việt có thể được hiểu là sáp nhập
nhưng căn cứ vào hệ quả sau khi thực hiện thì Mergers còn bao gồm cả hợp nhẩt doanh
nghiệp. Acquisitions thì được hiểu là mua lại doanh nghiệp.”
Theo khía cạnh pháp lý, Mergers là sự liên kết giữa hai hay nhiều doanh nghiệp
thường có quy mô tương đương và làm xuất hiện một doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân mới. Tất cả tài sản, thị phần, thương hiệu sẽ được chuyển cho doanh nghiệp mới.
Trong khi đó, Acquisitions là khi một hoặc một nhóm tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
mua lại một doanh nghiệp khác (thường nhỏ hoặc yếu hơn). Doanh nghiệp bị mua lại
vẫn duy trì tư cách pháp nhân của mình, còn doanh nghiệp mua lại được quyền sở hữu
hợp pháp đối với doanh nghiệp bị mua lại.”

1
Tạ Thị Bích Thuỷ (2021), Xu thế mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
“ ”

4
Theo khía cạnh kinh tế, Mergers là hoạt động giữa hai hay nhiều doanh nghiệp
cùng thoả thuận với nhau nhằm chia sẽ tài sản, thị phần, thương hiệu để hình thành nên
doanh nghiệp mới, chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp cũ. Thường mang tính chất
thân thiện vì lợi ích của các bên. Acquisitions là hoạt động doanh nghiệp tiến hành
thôn tính doanh nghiệp khác (một phần hoặc toàn bộ) nhằm mục đích mở rộng quy mô,
thị trường, lĩnh vực kinh doanh. Doanh nghiệp mua lại giành được quyền kiểm soát
doanh nghiệp mục tiêu, không hình thành nên pháp nhân mới. Thường mang tính chất
thù địch, thâu tóm lẫn nhau giữa các doanh nghiệp.
Tóm lại, về khái niệm dưới những khía cạnh khác nhau sẽ được định nghĩa khác
nhau nhưng bản chất hai hoạt động này tương tự nhau, cả hai cùng phản ánh việc bên
bán doanh nghiệp chuyển giao quyền sở hữu kinh doanh của mình (toàn bộ hoặc chỉ
một phần) cho bên mua doanh nghiệp và việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp sẽ
bị bên mua doanh nghiệp nắm giữ. Giành quyền kiểm soát ở đây là sự chi phối trực
tiếp vào hệ thống doanh nghiệp, từ nhân sự tới mạng lưới phân phối, hệ thống công
nghệ…nắm giữ quyết định quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp dựa trên sự thoả thuận của các bên tham gia liên
kết với nhau vì lợi ích chung.
1.2. Mục đích và vai trò của hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
Mục đích của M&A”chính là giành quyền kiểm soát doanh nghiệp ở mức độ nhất
định, chứ không chỉ đơn thuần như sở hữu một phần vốn góp hay cổ phần của doanh
nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Vì vậy khi một nhà đầu tư đạt được mức sở hữu một
phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp đủ để tham gia quyết định các vấn đề quan
trọng của doanh nghiệp thì khi đó mới có thể được coi là hoạt động M&A. Ngược lại,
khi các nhà đầu tư sở hữu vốn góp, cổ phần không đủ để quyết định các vấn đề quan
trọng của doanh nghiệp thì đây chỉ được coi là hoạt động đầu tư thông thường mà
thôi.”
M&A mang nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như: tối ưu hoá chi phí đầu tư, tiết
kiệm thời gian, mở rộng thị trường, lĩnh vực kinh doanh, thoát khỏi nguy cơ phá sản,
tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh trên

5
thị trường… Cụ thể việc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp mang lại các lợi ích lớn
sau:
Lợi ích tài chính: nhờ vào hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp đã góp
phần thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách tích cực. Đối với những
doanh nghiệp đang hoạt động kém hiệu quả hoặc thua lỗ triền miên dẫn đến tình hình
tài chính của doanh nghiệp bị suy thoái hoặc tệ hơn là đứng trước nguy cơ phá sản thì
M&A là một “cái phao” có thể giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng đó. Sau
hoạt động này, nguồn vốn sử dụng của doanh nghiệp sẽ được tăng thêm và tăng khả
năng tiếp cận với những nguồn vốn, chia sẻ rủi ro, nâng cao tính minh bạch về tài
chính. Góp phần mang lại sự thuận lợi và tiềm lực để phát triển doanh nghiệp.
Lợi ích cạnh tranh: nhờ vào hoạt động M&A sau khi thực hiện thương vụ doanh
nghiệp hai bên có thể khai thác được những lợi thế sẵn có của nhau để tạo ra sự phát
triển, nhằm tăng thị phần, khả năng bán chéo sản phẩm, dịch vụ, tận dụng quan hệ
khách hàng,.. góp phần nâng cao sự cạnh tranh tạo ra các cơ hội mới trong kinh doanh.
Lợi ích thị trường: hoạt động M&A giúp các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và
nhà đầu tư trong nước nói riêng có cách thức thực hiện hiệu quả việc đầu tư, tiếp cận
thị trường nhanh chóng mà không mất nhiều thời gian để thực hiện các thủ tục hành
chính hay tìm kiến một dự án nào đó. Giúp cho việc tham gia một thị trường, lĩnh vực
mới trở nên dễ dàng hơn.
Tóm lại, M&A sẽ mang lại lợi ích không nhỏ cho tất cả các bên tham gia (kể cả
bên bán doanh nghiệp và bên mua doanh nghiệp). Các công ty mới được tạo ra sau
M&A sẽ giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện các khiếm khuyết, từ đó cộng hưởng sức
mạnh với nhau tạo ra sức mạnh to lớn hơn.”Doanh nghiệp thông qua việc chuyển giao
công nghệ cho nhau, tối ưu hoá chi phí bằng cách cắt bớt nhân sự thừa, yếu kém giúp
nâng cao năng suất lao động. Với quy mô mới, doanh nghiệp mới sẽ tạo ra một vị thế
thuận lợi hơn khi mở rộng các kênh quảng bá, đàm phán với đối tác, hệ thống phân
phối nhờ đó cũng được nâng cao vị thế trong mắt cộng động.”
1.3. Phân loại mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
M&A được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.

6
Thứ nhất căn cứ trên tiêu chí tương đối về bản chất, quyền kiểm soát, tính phổ
biến có thể chia thành hai loại là sáp nhập doanh nghiệp và mua lại doanh nghiệp. Cụ
thể như sau:
- Sáp nhập doanh nghiệp: thường được thực hiện bằng cách chia sẻ cổ phiếu và
không dùng tiền mặt. Hoạt động này được định giá bằng cách xác định giá trị công ty
bị sáp nhập bằng bao nhiêu cổ phiếu công ty sáp nhập. Bên cạnh đó thành viên công ty
bị sáp nhập thường không có vai trò quan trọng bằng công ty sáp nhập, và sau sáp nhập
thì công ty bị sáp nhập thường mất đi.
- Mua lại doanh nghiệp: thường giao dịch bằng hình thức tiền mặt hoặc bằng
ngân phiếu. Hoạt động này thường được định giá bằng hình thức không quy giá trị của
công ty bằng cổ phiếu mà xác định giá trị của nó bằng tiền mặt. Các thành viên trong
công ty bị mua lại thường không có tiếng nói và quyền hạn trong việc tái tổ chức công
ty mới, và sau giao dịch công ty bị mua lại có thể vẫn tồn tại dưới dạng công ty con.
Thứ hai căn cứ vào chức năng của các công ty tiến hành M&A, có thể được chia
thành ba hình thức là M&A theo chiều dọc, M&A theo chiều ngang, M&A kiểu tập
đoàn (còn được gọi là M&A kết hợp)
- M&A theo chiều dọc (Vertical): được hiểu là hoạt động sáp nhập, hợp nhất hoặc
mua lại giữa hai hay nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cùng hàng hoá, dịch vụ.
M&A theo chiều dọc mang lại cho doanh nghiệp sức cạnh tranh cao, giảm đối thủ, tiết
kiệm chi phí.
- M&A theo chiều ngang (Horizontal): được hiểu là hoạt động sáp nhập, hợp nhất
hoặc mua lại giữa hai hay nhiều doanh nghiệp cùng lĩnh vực kinh doanh, khác khâu sản
xuất, chế biến. M&A theo chiều ngang giúp doanh nghiệp tận dụng kinh nghiệm và
khả năng của mình trong một chuỗi nhằm tạo giá trị gia tăng cho khách hàng, đẩy
mạnh hiệu quả hệ thống phân phối.
- M&A kết hợp (Conglomerate): được hiểu là hoạt động sáp nhập hoặc mua lại
giữa hai hay nhiều doanh nghiệp khác lĩnh vực kinh doanh. M&A kết hợp hình thành
các tập đoàn lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm đa dạng hoá thị trường
và sản phẩm.

7
Thứ ba căn cứ theo chủ thể tham gia mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, có thể
chia thành 2 hình thức M&A trong nước và M&A nước ngoài.
- M&A trong nước: là hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp giữa hai hay
nhiều doanh nghiệp trên cùng một đất nước, mà không có sự tham gia của bất kì yếu tố
nào bên ngoài, chỉ thực hiện trên phạm vi một quốc gia. Thường thì các doanh nghiệp
muốn mở rộng thị trường để tiếp cận nhiều người tiêu dùng trong nước thì doanh
nghiệp sẽ dùng hình thức này.
- M&A nước ngoài: là hình thức được thực hiện bởi doanh nghiệp giữa hai hay
nhiều nước thuộc lãnh thổ các quốc gia khác nhau. Hoạt động này trở thành xu hướng
tất yếu trong thời đại hiện nay khi các doanh nghiệp mong muốn trở thành công ty đa
quốc gia.
Thứ tư căn cứ vào tính chất thương vụ, có thể chia thành hai loại là M&A thù
địch và M&A thân thiện.
- M&A thù địch (hay còn gọi là M&A bất hợp tác): là hình thức mua bán, hợp
nhất và sáp nhập doanh nghiệp mà đối thủ bằng mọi cách hoặc dùng mọi giá thôn tín
một doanh nghiệp khác. Những thương vụ này thường không được hoàn toàn sự đồng
ý của một bên tham gia, hoặc thường có xu hướng không hài lòng.
- M&A thân thiện: là hình thức mua bán và sáp nhập doanh nghiệp có sự đồng
thuận và sự mong muốn của bên bán và bên mua. Những thương vụ này thường khởi
phát từ nhu cầu và lợi ích chung của hai bên mong muốn nhằm phát triển doanh
nghiệp.
Từ những phân tích trên có thể thấy được phân loại M&A rất đa dạng. Dưới
những cái nhìn khác nhau sẽ phân loại M&A theo hướng khác nhau. Nhờ vào việc
phân loại về hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp có thể dễ dàng nhìn ra một
thương vụ M&A trên thị trường được phân loại theo hướng nào.
1.4. Tác động của mua bán, sáp nhập doanh nghiệp đối với bên bán, bên
mua doanh nghiệp và nền kinh tế xã hội và người tiêu dùng
Đối với nền kinh tế - xã hội,”mua bán doanh nghiệp là một hành vi tập trung kinh
tế, là cửa ngõ”dẫn đến việc hình thành nên các doanh nghiệp có thể ảnh hưởng hoặc có
sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.”
8
Từ những năm 1980, đã áp dụng quy luật thị trường ở khắp mọi nơi trên Thế giới.
Cụ thể ở nước ta quy luật này xuất hiện vào những năm 1986 khi thực hiện chính sách
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường.
Xuất hiện hoạt động hạn chế cạnh tranh từ sự tự do khế ước và tự do kinh doanh bên
cạnh đó quy luật giá trị và bản tính của con người cũng phát triển, sự hình thành các
công ty doanh nghiệp độc quyền diễn ra một cách nhanh chóng. Sự xuất hiện độc
quyền gây ra sự phân chia không đồng đều giữa lợi ích tăng trưởng kinh tế và thực tế
cạnh tranh bị bóp méo. Cạnh tranh làm phát sinh tập trung kinh tế, còn tập trung kinh
tế lại tiêu diệt cạnh tranh đó là nghịch lý mà Các - Mac đã nghiên cứu ra. Có thể thấy
cạnh tranh là động lực thúc đẩy M&A khiến những cuộc cạnh tranh trên thị trường trở
nên khốc liệt hơn. Hơn thế, trong bối cảnh hiện nay, khi cạnh tranh trên thị trường trở
nên gây gắt thì việc thực hiện hoạt động M&A là điều tất yếu. Tiến sĩ Jacalyn
Sherrinton từng nói: Dưới sức ép cạnh tranh của môi trường kinh doanh toàn cầu hôm
nay, các công ty buộc phải phát triển để tồn tại, và một trong những cách tốt nhất để
tồn tại là hợp nhất hoặc thâu tóm các công ty khác”.
Từ góc độ kinh tế, M&A có những tác động tích cực tới việc nâng cao lợi ích
kinh tế thu được từ việc thực hiện các thương vụ mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
Cụ thể là:
Thứ nhất, là hiệu quả kinh tế quy mô sản xuất doanh nghiệp tăng lên nhưng
ngược lại chi phí cố định giữ nguyên hoặc làm gia tăng hiệu quả sản xuất. Hiểu một
cách đơn giản nhất là mua bán và sáp nhập doanh nghiệp là để tăng giá trị của doanh
nghiệp lớn hơn so với giá trị của các doanh nghiệp trước khi tham gia thương vụ mua
bán và sáp nhập doanh nghiệp.
Thứ hai, M&A còn giúp giảm”chi phí đầu tư, rút ngắn thời gian doanh nghiệp gia
nhập thị trường, ngoài ra còn giúp cho doanh nghiệp có được cơ hội nắm giữ tri thức
và tài sản vô hình và hữu hình của doanh nghiệp mục tiêu. Bên cạnh đó, mua bán và
sáp nhập doanh nghiệp sẽ giúp cho bên mua giảm bớt các thủ tục pháp lý hành chính
trong khi gia nhập một thị trường mới. Nhờ đó giúp cho doanh nghiệp mới không mất
quá nhiều thời gian để xây dựng doanh nghiệp từ con số không, xây dựng hệ thống
nhân viện, hay triển khai hệ thống phân phối thị trường,….mà thay vào đó doanh
9
nghiệp M&A có thể mua lại doanh nghiệp khác để nắm bắt tình hình, tận dụng lợi thế
vốn có của doanh nghiệp mục tiêu, phần nào góp phần giảm thiểu rủi ro trong giai đoạn
xây dựng cơ sở vật chất và cơ sở người tiêu dùng ban đầu. Trong”ngành tài chính, tập
đoàn Sumitomo Mitsui (SMBC) đã mua 49% vốn của Fe Credit (vào ngày 28/10/2021)
trực thuộc ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)2. Thị trường tài chính
Việt Nam đã quá quen thuộc với công ty tài chính Fe Credit vì vậy khi SMBC mua lại
sẽ không cần quá nhiều thời gian để đến gần với thị trường trong nước và người tiêu
dùng.
Quan trọng, đối với thị trường có”sự điều tiết mạnh của Chính phủ”như các
ngành ngân hàng, bảo hiểm, tài chính, việc đầu tư vào những lĩnh vực này gặp nhiều
trở ngại hoạt động M&A có thể được xem là một lựa chọn an toàn thay vì việc thành
lập doanh nghiệp mới để gia nhập thị trường.”Mua bán và sáp nhập”doanh nghiệp vừa
là đầu tư nhân sự, công nghệ, vừa là đầu tư tài chính.”Hoạt động M&A doanh nghiệp
khác với việc đầu tư, huy động vốn tài chính thông thường vì M&A doanh nghiệp
không chỉ là việc gọi vốn, huy động vốn mà đó còn là sự hình thành nên một mối quan
hệ chiến lược gọi là đối tác. Nhờ vào hoạt động M&A các doanh nghiệp kết hợp với
nhau nhằm nâng cao giá trị cho doanh nghiệp,”bổ sung những khiếm khuyết của nhau
tiếp nhận bí kiếp công nghệ và hệ thống phân phối sẵn có của doanh nghiệp mục tiêu.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh, chiến lược thương hiệu
và đa dạng hóa sản phẩm doanh nghiệp trên thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả kinh
doanh và mang lại lợi nhuận. Ví dụ như thương hiệu Unilever là một thương hiệu nổi
tiếng trên thế giới có mặt ở nhiều quốc gia và có ngành hàng đa dạng một phần nhờ
vào hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp đã giúp cho unilever có được những
bước phát triển nhanh chóng.
Cuối cùng,”mua bán và sáp nhập doanh nghiệp”còn là một cái phao giúp cho các
doanh nghiệp thoát khỏi khủng hoảng phá sản vì kinh doanh không thuận lợi. Điển
hình trên thế giới nhiều nhà đầu tư đã có những khoản lợi nhuận kếch xù từ việc mua
bán các doanh nghiệp chết”hay còn được gọi là các doanh nghiệp trên đà phá sản vì

2
Hải Yên (2021), Thị trường M&A Việt Nam thu hút nhiều ‘ông lớn’ trong nước tham gia , Báo Tin Tức

10
vậy, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp bị phá sản có thể được coi là mảnh đất tiềm
năng cho các nhà đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Đối với người tiêu dùng M&A mang đến lợi ích về sản phẩm chất lượng với mức
giá ưu đãi. Nhờ vào hoạt động M&A mà doanh nghiệp tối ưu hoá những tiềm năng của
công ty mình kết hợp với tiềm năng của công ty mục tiêu sẽ đem đến cho người tiêu
dùng những sản phẩm kết hợp chất lượng. Ví dụ như thương vụ M&A giữa Phúc Long
và Masan, đem đến sự kết hợp giữa thị trường bán lẻ tiêu dùng và thị trường đồ uống.
Việc sáp nhập này đưa những Kiosks của Phúc Long vào các Vinmart stores để người
tiêu dùng có thể thuận lợi trong việc vừa tìm kiếm sản phẩm khi đi stores và vừa
thưởng thức được đồ uống ngon. Sự kết hợp cửa hàng trong cửa hàng đem đến sự tiện
lợi tối ưu cho người tiêu dùng.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng hoạt mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
có những tác động tích cực đến nền kinh tế - xã hội và người tiêu dùng, nó góp phần
thúc đẩy sự cạnh tranh trong kinh doanh mang lại những hiệu quả nhất định cho nền
kinh tế.

2. Điều kiện pháp lý để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam
2.1. Quy định về chủ thể trong mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
2.1.1. Bên mua doanh nghiệp
Chủ thể mua doanh nghiệp là những tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua doanh
nghiệp và có đầy đủ các điều kiện về tư cách chủ thể mua doanh nghiệp.
Một là, bên mua là cá nhân hoặc nhóm cá nhân bằng việc mua hoặc nhận chuyển
nhượng phần vốn góp hoặc cổ phần từ chủ sở hữu doanh nghiệp để trở thành chủ sở
hữu mới của doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành của Luật Doanh nghiệp không có
quy định cụ thể về các đối tượng được quyền mua doanh nghiệp mà chỉ có quy định về
các đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp tại khoản 2 điều 17 Luật
Doanh Nghiệp và các đối tượng được quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp
vào doanh nghiệp tại khoản 3 điều 17 Luật Doanh Nghiệp. Theo đó, mọi cá nhân đều
có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này,
trừ các trường hợp quy định tại khoản 2, cụ thể:
11
- Cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công an trong
các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ trường hợp được uỷ quyền
làm đại diện để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc uỷ quyền
làm quản lý tại doanh nghiệp nhà nước...
- Cán bộ làm công tác lãnh đạo hoặc quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà
nước;
- Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất
năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
- Các tổ chức không có tư cách pháp nhân;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình
phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bẳt buộc, cơ sở
giáo dục bẳt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định.”
Cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào các loại nhình
công ty cổ phần/ trách nhiệm hữu hạn hoặc hợp danh theo quy định tại khoản 3 Điều
17, trừ các trường hợp là công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công
chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng.”
Hai là, bên mua doanh nghiệp là tổ chức, doanh nghiệp thông qua hình thức hợp
nhất, sáp nhập hoặc mua lại cổ phần/ phần vốn góp của doanh nghiệp mục tiêu.
Đối với công ty 100% vốn nhà nước, Nghị định 23/2022/NĐ-CP thay vì quy định
các đối tượng được mua doanh nghiệp, đã quy định các đối tượng không được mua
doanh nghiệp bao gồm3:
- Những người không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự và có hạn chế trong nhận thức và làm chủ hành vi;
- Tổ chức trung gian tài chính, cơ quan kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp,
tổ chức đấu giá doanh nghiệp và cá nhân, người thân của người trực tiếp tham gia kiểm
toán, định giá và đấu giá doanh nghiệp doanh nghiệp;

3
Điều 23 Nghị định 23/2022/NĐ-CP về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện
chủ sở hữu tại doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
12
- Cá nhân và người thân của người được cơ quan đại diện chủ sở hữu uỷ quyền
bán doanh nghiệp;
- Các trường hợp không được thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định
pháp luật.
- Nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật về đầu tư liên quan đến các
điều kiện về tiếp cận thị trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và pháp luật về đất đai.”
Đối với Doanh nghiệp không phải 100% vốn của nhà nước: Theo pháp luật hiện
hành các tổ chức bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp bao gồm: Cơ quan nhà
nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh
nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
Các tổ chức và cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần hoặc phần vốn góp vào
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của
Luật Doanh nghiệp, trừ trường hợp: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân
dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan,
đơn vị mình.”
Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định không phải mọi cá nhân, tổ chức đều có
quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh mà hạn chế đối với các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho
cơ quan, đơn vị.
Ba là, bên mua doanh nghiệp có thể là Chính phủ, Nghị định 91/2015/NĐ-CP,
khoản 7 Điều 1 Nghị định 32/2018/NĐ-CP thì doanh nghiệp nhà nước được mua
doanh nghiệp tư nhân thông qua các hình thức sau: Nhận chuyển nhượng phần vốn góp
tại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, nhận chuyển nhượng cổ phần tại
công ty cổ phần hoặc Mua lại toàn bộ doanh nghiệp khác;
Doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện mua doanh nghiệp tư nhân phải đảm bảo
các điều kiện sau:
- Tuân thủ theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất

13
đai và quy định khác của pháp luật có liên quan về việc sử dụng vốn, tài sản, quyền sử
dụng đất của doanh nghiệp để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp;
- Việc đầu tư phải phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển dài hạn và kế
hoạch sản xuất, kinh doanh ngắn hạn của doanh nghiệp, phù hợp với ngành nghề kinh
doanh, không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước có ngành nghề kinh doanh chính là các
loại bất động sản theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản, doanh nghiệp nhà
nước không được góp vốn hoặc đầu tư vào lĩnh vực này; trừ những trường hợp đặc biệt
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì Doanh nghiệp không được góp vốn, mua
cổ phần tại ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư mạo hiểm,
quỹ đầu tư chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán, bằng việc sử dụng tài sản,
tiền vốn, quyền sử dụng đất thuê. Trường hợp doanh nghiệp nhà nước đã góp vốn, đầu
tư vào các lĩnh vực này không thuộc trường hợp được Thủ tướng Chính phủ cho phép
đầu tư phải thực hiện phương án cơ cấu lại và chuyển nhượng toàn bộ số vốn đã đầu tư
theo quy định.
- Doanh nghiệp không được đầu tư ra ngoài bằng tài sản do doanh nghiệp đang đi
thuê hoạt động, đi mượn, nhận giữ hộ, nhận gia công, nhận bán đại lý, ký gửi.”
2.1.2. Bên bán doanh nghiệp
Chủ thể duy nhất có quyền bán doanh nghiệp chính là chủ sở hữu của doanh
nghiệp, chủ sở hữu có thể là một cá nhân, một pháp nhân hoặc nhiều cá nhân, tổ chức
có tư cách pháp nhân tùy từng loại hình doanh nghiệp.
Thứ nhất, bên bán doanh nghiệp có thể là cá nhân trong các trường hợp:
Cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc chủ sở hữu của công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên. Đối với doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Điều 192
Luật doanh nghiệp năm 2020, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp
của mình cho cá nhân, tổ chức khác và vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
doanh nghiệp và nghĩa vụ tài sản khác phát sinh trong thời gian trước khi bán doanh
nghiệp trừ trường hợp có thoả thuận khác.”

14
Cá nhân là thành viên hợp danh, cổ đông, cá nhân sở hữu phần vốn góp của công
ty TNHH hai thành viên trở lên bán cổ phần hoặc phần vốn góp của mình tại doanh
nghiệp.
Thứ hai, công ty có chủ sở hữu là nhiều cá nhân, tổ chức. Đối với các loại hình
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần hoặc công ty hợp
danh thì thẩm quyền quyết định việc bán doanh nghiệp thuộc về chính các thành viên
góp vốn và cổ đông của công ty (những người này chính là các chủ sở hữu công ty).
Chủ sở hữu có thể bán công ty qua hình thức chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp do
mình sở hữu. Hai bên sẽ lập hợp đồng chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp để ghi
nhận việc chuyển nhượng. Ví dụ như thương vụ chuyển giao việc điều hành hệ thống
2.600 siêu thị, cửa hàng tiện lợi Vinmart, Vinmart+ và VinEco từ Vingroup sang
Masan, hai bên đã thành lập tập đoàn hàng tiêu dùng – bán lẻ do Masan group nắm
quyền kiểm soát hoạt động và Vingroup là cổ đông.
Thứ ba, doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước thì cơ quan có quyền ra quyết định
sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp được quy định như sau4: “
Cơ quan hoặc cá nhân quyết định thành lập doanh nghiệp ra quyết định hợp nhất,
sáp nhập doanh nghiệp đối với trường hợp hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp do cùng
một cá nhân hoặc cơ quan quyết định thành lập hoặc được giao quản lý.
Cá nhân hoặc cơ quan quyết định thành lập công ty nhận sáp nhập ra quyết định
sáp nhập đối với trường hợp sáp nhập các doanh nghiệp do cá nhân hoặc các cơ quan
khác nhau quyết định thành lập.
Cơ quan được Thủ tướng Chính phủ giao thực hiện quyền và nghĩa vụ của đại
diện chủ sở hữu công ty hợp nhất ra quyết định hợp nhất đối với trường hợp hợp nhất
các doanh nghiệp do cá nhân hoặc cơ quan khác nhau quyết định thành lập.
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp đối với
trường hợp công ty nhận sáp nhập hoặc bị sáp nhập hoặc doanh nghiệp hợp nhất là
doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.”

4
Điều 15 Nghị định 23/2022/ NĐ-CP về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện
chủ sở hữu tại doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
15
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc sáp nhập, hợp nhất doanh
nghiệp là cơ quan ra quyết định thành lập hoặc cơ quan đại diện chủ sở hữu tuỳ từng
trường hợp cụ thể.
2.2. Quy định về các hình thức mua bán và sáp nhập doanh nghiệp
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam, sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp được
quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 như sau:
Hợp nhất doanh nghiệp là hình thức hai hoặc một số công ty (sau đây gọi là công
ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp
nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
Sáp nhập doanh nghiệp là hình thức một hoặc một số công ty (sau đây gọi là
công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty
nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.”
Cũng theo quy định tại Điều 29 Luật cạnh tranh, các hình thức tập trung kinh tế
bao gồm hợp nhất, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp
mới, đồng thời chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của các doanh nghiệp
bị hợp nhất.
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn
bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối
doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại.”
Căn cứ vào quy định đó M&A doanh nghiệp có thể phân loại thành ba hình thức
bao gồm: Hợp nhất, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
2.2.1. Hợp nhất doanh nghiệp
Khoản 1 điều 13 Nghị định 23/2022/NĐ-CP quy định về hợp nhất doanh nghiệp
do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ quy định: Hai hoặc một số doanh nghiệp do
16
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp
nhất với nhau thành một doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ mới
(sau đây gọi là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp
nhất và khoản 3 điều 29 Luật Cạnh Tranh có thể thấy hợp nhất doanh nghiệp là biện
pháp tổ chức lại doanh nghiệp áp dụng với loại hình công ty đối vốn, theo đó, một số
công ty cùng loại có thể hợp nhất và thành lập một công ty mới bằng cách các công ty
đó chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất,
đồng thời thực hiện thủ tục chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất. Sau khi công
ty hợp nhất đăng ký thành lập doanh nghiệp, công ty hợp nhất được hưởng quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, đồng thời chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ, các
khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thực
hiện của các công ty bị hợp nhất theo hợp đồng hợp nhất công ty.”
Bên cạnh đó ở những lĩnh vực liên quan đến ngân hàng hình thức hợp nhất
doanh nghiệp sẽ được quy định tại khoản 2 điều 3 Thông tư 36/2015/TT-NHNN quy
định:“Hợp nhất tổ chức tín dụng là việc hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi
là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp để hình thành một tổ chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín dụng hợp
nhất), đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất.
2.2.2. Sáp nhập doanh nghiệp
Khoản 2 điều 13 Nghị định 23/2022/NĐ-CP quy định: Một hoặc một số doanh
nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có
thể sáp nhập vào một doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ khác (sau
đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
công ty bị sáp nhậpcvà Luật Cạnh Tranh 2018 có thể thấy sáp nhập doanh nghiệp là
một hình thức mua bán doanh nghiệp mà theo đó doanh nghiệp có thể sáp nhập vào
một công ty khác bằng cách chuyển giao toàn bộ tài sản; quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp

17
pháp sang công ty sáp nhập, đồng thời công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại của
mình5.”
Có thể thấy sáp nhập là hình thức tập trung kinh tế, trong một số lĩnh vực liên
quan đến an ninh kinh tế như các hoạt động của ngân hàng hình thức sáp nhập sẽ được
quy định tại khoản 1 thông tư 36/2015/TT-NHNN: Sáp nhập tổ chức tín dụng là việc
một hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang một tổ chức tín dụng khác
(sau đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập), đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ
chức tín dụng bị sáp nhập.
2.2.3. Mua lại doanh nghiệp
Dựa theo định nghĩa về mua lại doanh nghiệp của Luật cạnh tranh tại khoản 4
Điều 29 có thể phân loại thành: mua bán toán bộ doanh nghiệp, mua bán một phần
doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp mục tiêu.
2.2.3.1. Mua bán toàn bộ doanh nghiệp
Điều 201 Luật Doanh Nghiệp 2020 quy định: Một hoặc một số công ty (sau đây
gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công
ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp
nhập.”
Căn cứ vào quy định trên có thể nhận thấy mua lại toàn bộ doanh nghiệp là việc
chủ sở hữu doanh nghiệp chuyển toàn bộ quyền sở hữu doanh nghiệp của mình cho bên
mua. Hình thức mua lại toàn bộ doanh nghiệp gồm: chuyển nhượng toàn bộ phần vốn
góp/cổ phần và mua bán doanh nghiệp tư nhân. Bên mua doanh nghiệp thực hiện các
thủ tục đăng ký thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh
nghiệp. Có thể nhận diện việc mua lại toàn bộ doanh nghiệp dựa trên những tiêu chí cơ
bản sau:
Một là, bên bán doanh nghiệp phải là chủ sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu
doanh nghiệp là các thành viên, cổ đông công ty, chủ sở hữu công ty TNHH một thành
viên, chủ doanh nghiệp tư nhân. Bên mua doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân mua toàn
5
Khoản 2 điều 29 Luật cạnh tranh 2018
18
bộ vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân, nhận chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ
của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, bên nhận chuyển nhượng
toàn bộ phần vốn góp/cổ phần của các thành viên/cổ đông công ty.”
Hai là, việc chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần phải được ghi nhận bằng hợp
đồng chuyển nhượng phần vốn góp hoặc hợp đồng chuyển nhượng cổ phần tương ứng;
việc mua bán doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
được thể hiện qua hình thức hợp đồng mua bán doanh nghiệp.”
Ba là, đối tượng mua bán trong các thương vụ mua lại doanh nghiệp chính là
doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam xác định doanh nghiệp là chủ thể pháp lý độc lập và
mỗi doanh nghiệp được cấp một mã số doanh nghiệp cũng là mã số thuế của doanh
nghiệp. Mã số này gắn với doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động nên khi doanh
nghiệp chấm dứt hoạt động thì mã số doanh nghiệp chấm dứt hiệu lực và không được
sử dụng lại.
Như vậy, doanh nghiệp là đối tượng của thương vụ mua lại doanh nghiệp (doanh
nghiệp mục tiêu) vẫn liên tục tồn tại trước, trong và sau quá trình mua bán. Doanh
nghiệp mục tiêu vẫn được giữ nguyên mã số doanh nghiệp và tư cách pháp lý sau khi
bên bán, bên bị sáp nhập chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên mua, bên nhận
sáp nhập.
Bốn là, bên nhận chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp, toàn bộ vốn điều lệ hoặc
mua, sáp nhập doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký thay đổi thành viên, đăng ký thay
đổi chủ sở hữu doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.”
Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng hoặc mua lại doanh nghiệp tư nhân theo
quy định của pháp luật thì những chủ sở hữu mới của doanh nghiệp mục tiêu sẽ là bên
nhận chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần, bên mua lại doanh nghiệp tư nhân và có
quyền kiểm soát toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mục tiêu.
2.2.3.2. Mua bán một phần doanh nghiệp
Khoản 5 điều 29 Luật Cạnh Tranh 2018 quy định: Liên doanh giữa các doanh
nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới và một
phần khoản 4 điều 29 Luật cạnh tranh 2018 quy định về mua lại một phần vốn góp
19
doanh nghiệp có thể thấy mua lại một phần doanh nghiệp là việc chủ sở hữu doanh
nghiệp chuyển quyền sở hữu một phần doanh nghiệp của mình cho bên mua và khi đó
bên mua sẽ có khả năng kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu.
Hình thức mua lại một phần doanh nghiệp bao gồm: các thành viên, cổ đông công
ty chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần chi phối cho bên nhận chuyển nhượng để bên
nhận chuyển nhượng có quyền kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp mục tiêu. Tỉ lệ
phần vốn góp chi phối do Điều lệ doanh nghiệp và pháp luật quy định. Bên mua sẽ trở
thành các đồng chủ sở hữu và thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật. Cơ sở pháp lý để thực hiện hình thức này là quy định của pháp luật
về doanh nghiệp, pháp luật chứng khoán và pháp luật đầu tư.
Các tiêu chí để nhận diện mua bán một phần doanh nghiệp về chủ thể mua bán
doanh nghiệp, về thủ tục đăng ký thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp tương tự như tiêu
chí nhận diện mua bán toàn bộ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, mua bán một phần doanh
nghiệp có một số đặc điểm khác biệt như sau:”
Thứ nhất, đối tượng mua bán một phần doanh nghiệp là một phần của doanh
nghiệp. Bên mua mua một phần doanh nghiệp thông qua việc nhận chuyển nhượng
phần vốn góp chi phối của chủ sở hữu doanh nghiệp mục tiêu. Khi đó, chủ sở hữu
doanh nghiệp không hoàn toàn từ bỏ tư cách chủ sở hữu đối với doanh nghiệp mục tiêu
mà vẫn là đồng chủ sở hữu doanh nghiệp cùng với các chủ sở hữu mới.
Thứ hai, chỉ được coi là mua lại một phần doanh nghiệp nếu bên nhận chuyên
nhượng nhận chuyển nhượng phần vốn góp đạt được tỉ lệ phần vốn góp chi phối.
Như vậy, phải thực sự kiểm soát đến mức chi phối một phần hoạt động của doanh
nghiệp mục tiêu chứ không phải là việc góp vốn thông thường thì mới được coi là hoạt
động mua lại một phần doanh nghiệp.”
Thứ ba, bên nhận chuyển nhượng có quyền kiểm soát hoạt động của doanh
nghiệp mục tiêu. Việc này được hiểu là chủ sở hữu phần vốn chi phối sẽ trực tiếp tham
gia vào bộ máy quản trị của doanh nghiệp và sở hữu số phiếu biểu quyết đủ để quyết
định những vấn đề quan trọng nhất về tài chính, kinh doanh, nhân sự... của doanh
nghiệp mục tiêu. Đặc điểm này phân biệt mua bán doanh nghiệp với những trường hợp

20
đầu tư tài chính khi bên nhận chuyển nhượng không tham gia quản trị và kiểm soát
doanh nghiệp mục tiêu.”
Ví dụ KKR & Temasek – Vinhomes đã mua lại một phần công ty cổ phần
Vinhomes với tỷ lệ 6%. Sau thương vụ này, tập đoàn Vingroup vẫn nắm quyền chi
phối tại Vinhomes. Còn KKR & Temasek trở thành đồng cổ đông trong công ty cổ
phần Vinhomes và nắm quyền kiểm soát theo mức đầu tư.
2.2.3.3. Mua bán tài sản của doanh nghiệp
Tài sản của doanh nghiệp là vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các
quyền tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp,
được doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động của mình. Dựa vào các quy định tại khoản
4, 5 điều 29 Luật Cạnh Tranh 2018 đã nêu ở trên có thể thấy M&A tài sản doanh
nghiệp được phân biệt dựa trên hai tiêu chí sau:
Thứ nhất, có hai hình thức M&A doanh nghiệp là mua lại toàn bộ tài sản và mua
lại một phần tài sản của doanh nghiệp.
Thứ hai, bên mua tài sản của doanh nghiệp phải kiểm soát hoặc chi phối toàn bộ
hoặc một phần ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Mua bán tài sản doanh nghiệp được quy định tại khoản 1 điều 35 Luật Doanh
Nghiệp 2020: thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông
công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định
sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất thì người góp
vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công
ty theo quy định của pháp luật. Việc chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng đất
đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;
b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện
bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản, trừ trường hợp được
thực hiện thông qua tài khoản.
Ví dụ về M&A tài sản của doanh nghiệp như thương vụ Kinh Đô chỉ mua lại nhà
máy sản xuất kem (một phần tài sản của Unilever) và chỉ kiểm soát hoạt động sản xuất
kem chứ không kiểm soát hoạt động của Unilever.
21
KẾT LUẬN

Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Độ “mở” của thị trường Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực cũng ngày càng rộng
cùng với việc thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ và hàng hóa sau khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thưong mại Thế giới. Cùng với
đó là việc hệ thống chính sách pháp luật và các quy định điều tiết kinh tế của nhà nước
cũng ngày càng được thực hiện theo hướng phù hợp hơn với các chuẩn mực của thế
giới. Điều này đã khiến Việt Nam trở thành một trong những môi trường kinh doanh
hấp dẫn thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Cùng với đó, một làn
sóng đầu tư mới vào Việt Nam dưới hình thức sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp
(M&A) đang trở thành một trong những xu hướng mạnh mẽ trong thời gian qua.

Hiện nay, pháp luật về kiểm soát hoạt động sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp
tại Việt Nam đang được điều chỉnh chủ yếu bởi hệ thống pháp luật cạnh tranh. Trong
đó, Luật cạnh tranh 2004 là văn bản chính điều chỉnh trực tiếp việc kiểm soát sáp nhập
và hợp nhất doanh nghiệp hiện nay dần bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập trong quá
trình áp dụng trên thực tế. Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2018 được
Quốc hội chính thức thông qua ngày ngày 12 tháng 6 năm 2018 và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 7 năm 2019 với có những điều chỉnh phù hợp, được kỳ vọng sẽ nâng
cao hiệu quả kiểm soát hoạt động sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp của Việt Nam
trong thời gian tới.

22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cục Quản lý cạnh tranh (2014), Báo cáo thường niên 2014.
2. Cục Quản lý cạnh tranh (2015), Báo cáo thường niên năm 2015.
3. Cục Quản lý cạnh tranh (2016), Báo cáo thường niên năm 2016.
4. Cục Quản lý cạnh tranh (2017), Báo cáo thường niên năm 2017.
5. Cục Quản lý cạnh tranh (2018), Báo cáo thường niên năm 2018.
6. Cục Quản lý cạnh tranh (2019), Báo cáo thường niên năm 2019.
7. Luật Doanh nghiệp 2014;
8. Luật Cạnh tranh 2018;
9. Luật Cạnh tranh Thái Lan tại địa chỉ: http://vietnamexport.com/tong-quan-luat-
canh-tranh-thai-lan/vn2520690.html
10. Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp;
11. Nghị định 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Doanh nghiệp;
12. Nghị định 108/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định 78/2015/NĐ-CP về
đăng ký doanh nghiệp;
13. Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực cạnh tranh;
14. Ngô Thị Hiền Anh (2012), Pháp luật Việt Nam về kiểm soát tập trung kinh tế,
Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
15. Nguyễn Tuấn Anh (2018), Thực trạng pháp luật về kiểm soát hoạt động sáp
nhập và hợp nhất doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
16. ThS. Lưu Hương Ly (2011), Luật Cạnh tranh của Singapore và những kinh
nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Luật học.
17. Tố Uyên (2018), Thị trường M&A Việt Nam: Kỷ lục được phá vỡ song quy
mô vẫn nhỏ, Thời báo tài chính Việt Nam, 24/07/2018
18. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội;

23
19. TS. Nguyễn Văn Nam (2014), Vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống công
cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, Tạp chí Luật học số 7/2014, tr 45-46;

24

You might also like