You are on page 1of 36

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

Hoàng Phủ Ngọc Tường

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ban đầu có tên là “Hương ơi, e phải mày
chăng?” là bài bút ký do nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4
tháng 1 năm 1981, và được in trong tập sách cùng tên vào năm 1986. Một phần bài
bút ký này đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam (chương
trình Ngữ văn lớp 12) và được đánh giá là một đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ
về sông Hương.

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế,
nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại,
và cũng là một cái tên tích cực tại các phong trào đấu tranh chống Mỹ ngụy ở miền
Nam (gia đoạn trước 1975).

Ngay từ khi đi học, Hoàng Phủ đã gắn bó với văn chương và những giá trị văn
hóa đẹp đẽ của dân tộc. Ông tốt nghiệp ban Việt Hán – Đại học Sư phạm Sài Gòn và
cả Đại học Văn khoa Huế, ngành triết học. Trước khi hoạt động văn nghệ chống Mỹ,
ông từng là giáo viên tại trường chuyên Quốc học Huế. Với từng ấy lí do, có lẽ người
ta không còn thắc mắc về tính đa chiều và tài hoa trong văn chương của ông. Chứa
đựng trong tác phẩm thật nhiều những kiến thức chọn lọc về triết học, văn hóa, lịch
sử, địa lí, … có lẽ Hoàng Phủ đã, đang và sẽ mãi luôn ghi được dấu ấn đạm nét trong
lòng bạn đọc.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được người đời biết tới là nhà văn của những dòng
sông. Bởi nếu sông miệt mài chảy về biển lớn không ngơi nghỉ thì Hoàng Phủ Ngọc
Tường miệt mài sáng tác không ngơi nghỉ để đóng góp cho đời những áng văn thơ
hay. Các tác phẩm chính làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường bao gồm:
“Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu” (1971), “Rất nhiều ánh lửa” (1979), “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” (1986), “Bản di chúc của cỏ lau” (1984), “Ngọn núi ảo ảnh” (1999),

Hoàng Phủ Ngọc Tường gây ấn tượng với độc giả bởi phong cách văn học độc
đáo. Ông là nhà văn chuyên viết về kí và là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất
nước ta hiện nay”. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ là ở sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý... Tất
cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

Mặc dù quê gốc không phải ở Huế, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và
lớn lên ở nơi này, tất cá những quãng đường học tập, trưởng thành và hoạt động cách
mạng của ông đều là ở Huế. Có lẽ bởi vậy, cho nên hơn ai hết, tác giả đã gắn bố máu
thịt với mảnh đất này. Cả tâm hồn ông dành tặng cho Huế với những gì đẹp đẽ, thơ
mộng và ý nghĩa nhất. Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một minh chứng
tiêu biểu cho niềm yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế và dòng sông
Hương lặng lờ, trữ tình.

2. Tác phẩm
a. Thể loại
Kí là thể loại đặc trưng của văn học dùng để ghi chép, tái hiện những sự việc,
hoàn cảnh mang tính chân thật. Giá trị cơ bản của kí là đưa đến cho người đọc những
hình ảnh sống động và cụ thể nhất về đối tượng.

Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, kí cũng rất
phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại như ký sự, phóng sự, bút kí, ... Khi
phân tích tác phẩm này, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến tiểu loại tùy bút.

Tùy bút là một thể của ký đối lập với phóng sự. Nếu phóng sự thiên về tự sự
với điểm tựa là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của
tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng,
tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày v.v. Những chi tiết, con
người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận
thức, đánh giá.

Tiểu loại này có 2 đặc điểm chính rất đáng chú ý khi phân tích:

- Lối hành văn hết sức tự do phóng túng, không bị ràng buộc bởi một quy
luật chặt chẽ nào
- Nhân vật của thể loại này chính là cái tôi của tác giả.

Như đã nói ở trên, tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác
giả. Chính vì thế, giá trị của tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông chính là ở những phát
hiện phong phú của tác giả về vẻ đẹp nhiều mặt của dòng sông. Những vẻ đẹp ấy
không chỉ phong phú, độc đáo, tinh tế, hấp dẫn người đọc mà đồng thời còn thể hiện
được cái tôi tài hoa, uyên bác, dào dạt tình cảm với đối tượng viết của mình.

Cũng chính bởi đặc điểm giàu chất trữ tình, mà tùy bút sẽ rất phù hợp với những
tác giả muốn đặt cả trái tim say đắm và vốn liếng ngôn từ tinh luyện, kho tri thức
phong phú vào tác phẩm như Hoàng Phủ. Với thể loại này, ông thật sự đã tạo nên
những trang văn vừa đẹp, vừa sang, vừa lấp lánh trí tuệ và chan chứa ân tình.

b. Hoàn cảnh sáng tác

Bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách
gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đang bừng bừng cảm
hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn
hóa sâu sắc.

Bài kí lấy cảm hứng mãnh liệt từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế. Qua
cái nhìn của một người con yêu Huế đến tha thiết, sông Hương đã được soi chiếu dưới
nhiều góc độ như lịch sự, văn hóa, địa lí, … Qua những suy tư và liên tưởng ấy, dòng
sông không chỉ trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của vùng đất cố đô, mà tác giả còn
khẳng định chắc chắn hơn với người đọc vị trí quan trọng mà trang nghiêm của nơi
này trong những trang sử vẻ vang. Với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, sông Hương
của Huế và sông Hương của trang văn Hoàng Phủ vẫn luôn là một hình ảnh không thể
nào quên đối với bạn đọc.

c. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã dẫn dắt người đọc đến với cội
nguồn tên gọi của dòng Hương thơ mộng. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
đã lý giải tên dòng sông bằng một huyền thoại mỹ lệ của người dân làng Thành
Chung. Lấy tên nhan đề cho bài bút ký dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích
dẫn dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát
vọng, niềm tự hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng,
vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế. Cùng với đó, nhan đề “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá
vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.

d. Tóm tắt tác phẩm

Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ hú mơ mộng đã đi
vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế.

Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại, có nhiều
ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già.

Lúc về đồng bằng, sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người. Hai bên bờ
sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên. Dòng sông mềm như tấm lùa uốn
cong, cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối trôi đi giũa hai dãy đồi sừng
sửng như thành quách, cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo. Sông
Hương có vẻ đẹp đa màu biến ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thực chậm chảy lặng lờ như điệu
slow. Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông
vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ
tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có
dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông hương lưu luyến tình cảm với thành
phố Huế ví như nỗi vấn vươn của nàng Kiều với Kim Trọng.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh
sắc thiên nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đô.
Qua đó tác giả ca ngợi dòng sông Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ
Huế. Nó gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương xứ sở và niềm khao khát
khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết dưới dạng bút kí, thiên về thể
loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ
vựng phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi
bật vẻ đẹp của Hương giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.

Dòng Hương giang được nhìn nhận qua nhiều góc độ khác nhau mà ở đây nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kể ra ở nhiều góc độ như lịch sử, địa lý, văn hóa, văn
chương. Đất nước Việt Nam với sông nước hữu tình, hoa trái quanh năm đã thêu dệt
nên một áng văn tuyệt đẹp. Sông Hương, xứ Huế là nguồn cảm hứng say mê bất tận
với tâm hồn người nghệ sĩ. Không phải ngẫu nhiên mà ở phần đầu của tác phẩm,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi
thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy
nhất.”

Xứ Huế mộng mơ, nên thơ, nên hoạ từ lâu đã trở thành một điểm đến thân thuộc
của những người nghệ sĩ, những nhà thơ, nhà văn với bao niềm say đắm. Ta không
khó để bắt gặp nét Huế trong các khúc ca dao, dân ca; bắt gặp “Hương Giang nhất
phiến nguyệt” trong thơ Nguyễn Du; hay gần hơn là nơi thôn Vĩ với thi nhân họ Hàn;
… Dù khác nhau về thời đại, về thể loại hay bút pháp nghệ thuật nhưng tất cả đã cùng
nhau tô điểm thêm cho sắc nước hương trời nơi Huế, làm nên một Huế rất thơ và cũng
rất tình. Và chắc chắn, khi nhắc đến những tác phẩm nghệ thuật viết về xứ Huế, ta
không thể không kể đến bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường – một con người đã “trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với
đất trời, sông nước xứ Huế”. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới
phương diện địa lí, lịch sử và văn hoá, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí đã tỏ bày
tình yêu nước tha thiết theo một cách rất riêng, đầy trữ tình, mê đắm và tài hoa.
1. Sông Hương dưới góc nhìn địa lí
a. Sông Hương nơi thượng nguồn

Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông
Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình
như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhận xét ấy mang đậm cái
tôi cá nhân của tác giả. Thế nhưng không vì thế mà câu văn mang đậm tính chủ quan.
Vì sao à? Bởi trong khi thể hiện những cảm nhận riêng của mình về dòng sông
Hương, tác giả đã khéo léo thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng của mình về các dòng sông
trên thê sgiowis. Để từ đó, tác giả khẳng định với người đọc nét đặc biệt của dòng
sông này “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Và cũng chính bởi vì
thế, con sông lại càng trở nên đặc biệt hơn với đặc điểm ngọt ngào đó.

Nói đến sông Hương, xứ Huế người ta thường nghĩ đến sự êm đềm, phẳng lặng
của dòng sông trong cảnh thanh bình. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không dừng
lại ở ngắm nhìn “khuôn mặt kinh thành” của nó mà ngược dòng cảm xúc để trở về với
thượng nguồn của nó để khai phá vẻ đẹp bí ẩn của dòng sông. Thủy trình của sông
Hương từ góc nhìn địa lí được nhà văn miêu tả qua các chặng từ thượng nguồn về đến
châu thổ rồi từ đó Sông Hương vào với Thành phố Huế và chảy ra biển cả.

Giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương hiện ra trong vẻ đẹp man dại đầy cá
tính, mạnh mẽ phóng khoáng nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng đắm say. Nhà văn đã
so sánh Sông Hương như một “bản trường ca của rừng già” gợi ra một con sông với
chiều dài hùng vĩ và có dòng chảy mãnh liệt. Rừng già là hình ảnh hoang sơ, bí ẩn và
mênh mông trong đó mang các sắc thái với nhiều tiết tấu trầm bổng: “rầm rộ giữa
những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc
vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh kết hợp với tính từ gợi tả đã thể hiện rất
rõ sức mạnh man dại mang vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Người đọc từ đó có thể
khám phá ra nét tính cách mới mẻ, độc đáo của sông Hương mà không chỉ ngắm nhìn
bộ mặt kinh thành của nó. Trường Sơn đã hun đúc cho “cô gái Digan” ấy một bản lĩnh
gan góc lạ thường, tính cách mạnh mẽ, tâm hồn trong sáng trẻ trung nhưng cũng rất
hoang dại. Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ ấy, Hương giang dường như vẫn giữ được nét
duyên dáng của dòng sông khi Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành người họa sĩ phối
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng với màu xanh mênh mang của rừng già, sông nước.
Bằng cảm quan thẩm Mỹ tinh tế, tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ và thú vị khi
biến sông Hương trở thành một sinh thể có hồn, có cá tính, có cuộc sống riêng với
dòng chảy hoang dại thu hút mọi ánh nhìn.

Người đọc thấy rõ được khao khát của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi đã ngược dòng
không gian, tìm về cội nguồn của rừng đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những
sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm” của dòng sông
trước khi nó về tới Huế. Khi nhìn ngắm con sông lặng lờ, thanh bình chảy giữa Huế
mộng mơ, hẳn rằng chẳng mấy ai có thể tưởng tượng được, “nàng thơ” ấy đã có
những dòng chảy đầy mãnh liệt giữa đại ngàn.

Đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện
những cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lý giải trong cái nhìn sâu sắc về cội nguồn –
và đó cũng là một cảm hứng quen thuộc của tình yêu. Nếu như Xuân Quỳnh đã từng
khao khát:

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?


Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

thì Hoàng Phủ cũng mang một khao khát lí giải tương tự như thế. Chỉ có điều, nhà văn
không chỉ đặt cảm xúc, mà còn đặt cái cái nhìn đa chiều và cả vốn kiến thức phong
phú của mình vào hành trình kiếm tìm và khám phá ấy.

Với trí tưởng tượng và niềm say mê, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng
sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính. Hình ảnh
về “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng
vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn.

Âm vang của núi rừng không chỉ khiến nhà văn cảm nhận được vẻ đẹp của núi
rừng đã hun đúc cho dòng sông những gì mạnh mẽ, man dại nhất, đồng những âm
thanh vang động đó còn được so sánh mang cả ý tình, lí trí của con người. “Trường
ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn
“rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông.
Gọi dòng chảy của sông Hương nơi thượng nguồn mang âm thanh như “bản trường ca
của rừng già”, hẳn rằng Hoàng Phủ đã không chỉ thể hiện trong câu chữ đó một tình
yêu mến thiết tha.

Nếu như Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà ở những vị trí cao, xa và cái nhìn tổng
quát như nhìn từ trên tàu bay xuống, hay “sông Đà tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ
tình” thì dường như Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đứng lặng bên bờ sông, lắng nghe
tiếng nước chảy vang vọng của núi rừng, ngắm nhìn từng sắc đỏ của hoa đỗ quyên
quyến rũ rủ bóng bên dòng sông.

Qua cái nhìn cụ thể và tỉ mỉ, con sông khi chảy qua dãy Trường Sơn không chỉ
mang tất cả những sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn”, mà còn có những khi “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, …

Cô gái ấy nơi núi rừng đẹp đến thế, hoang dại và tràn đầy sức sống đến thế!

Với cách miêu tả uyển chuyển, tài hoa qua những hình ảnh đối lập, nhà văn làm
hiện lên hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và
vẻ đẹp. Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác
ghềnh sóng gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu, những
miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn; do đó sông Hương vừa tràn đầy
sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp
kiêu sa, rực rỡ.

Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng Phủ đã tiếp tục dùng phép nhân hóa để biến dòng
sông thành một cô gái mang trong mình “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong
sáng”. Được tôi luyện bởi đại ngàn, sông Hương như cô gái yêu tự do, mạnh mẽ và
cũng vô cùng quyến rũ đắm say.

Với sắc thái nhân hóa đậm nét, nhà văn đã lý giải được những tính cách đối lập của
dòng sông Hương nơi thượng nguồn và khi chảy về thành phố. Điều ấy khẳng định
rằng, nhà văn không chỉ mang đến cho người đọc khao khát tìm kiếm, phá phá của
mình, mà đồng thời còn chỉ rõ kết quả của quá trình khám phá ấy, bằng những đặc
điểm đầy mới mẻ và say mê về sông Hương. Đặt những kiến thức phong phú và tình
yêu mến của mình vào việc miêu tả, giới thiệu dòng sông, Hoàng Phủ đã ghi vào lòng
bạn đọc thật nhiều những điều mới mẻ và ý nghĩa.

Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành
người mẹ phù sa của “một vùng văn hóa xứ sở”– những thét gào man dại, những
phóng túng tự do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng, thương mến của đồng bằng
châu thổ. Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp
nhân hóa đặc sắc đã làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp
của một sức sống mãnh liệt đầy cá tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề
sâu trí tuệ của nhà văn.

b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố

Khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ. “Với
cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm
của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném
chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương giờ đây đã
mang vẻ đẹp kinh thành mà người ta vẫn thường thấy để phù hợp với xứ Huế. Từ cô
gái Digan man dại, phóng khoáng nhà văn đã nâng tầm cho sông Hương trở thành
người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất đế đô. Một người mẹ từng trải, trí tuệ, dịu dàng.
Cái dịu dàng mà người ta thường mong sau những thác ghềnh, trí tuệ ở những con
người từng trải, bản lĩnh.

Qua những hình ảnh so sánh, liên tưởng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện thành
công vẻ đẹp của sông Hương ở khúc thượng nguồn, đó là những phát hiện độc đáo và
đầy bất ngờ của tác giả. Bút kí cuốn hút người đọc ở sự việc lạ, tri thức mới và cách
viết hay. Thường người ta chỉ nghĩ đến sông Hương với vẻ đẹp dịu dàng, êm đềm
nhưng có mấy ai biết rằng “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình trong dãy
Trường Sơn hùng vĩ”. Rồi nhiều thế kỉ qua đi, sông Hương như một người con gái đẹp
nằm ngủ mơ màng ở cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại và đợi chờ người tình trong
mộng của mình là xứ Huế đến để đánh thức.

Trước khi trở thành người tình chung thủy của cố đô, Sông hương đã trải qua một
cuộc hành trình đầy thử thách trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn của nhà văn. Khi được
Huế đánh thức, sông Hương bắt đầu cuộc hành trình của mình, đó là một cuộc tìm
kiếm có ý thức. Nó chuyển dòng đột ngột theo hướng Nam Bắc rồi sang Tây Bắc,
vòng giữa những khúc quanh đột ngột và uốn mình theo những đường cong thật mềm
để vẽ một cánh cung thật tròn rồi ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Ta bắt
gặp ở đây hàng loạt những động từ gợi cảm cùng với nghệ thuật kể kết hợp tả đã thể
hiện vẻ đẹp duyên dáng của sông Hương khi về Châu Thổ.

Không còn những cuộn xoáy trào bọt trắng xóa, sông Hương khi chảy về xuôi
càng lúc càng trữ tình và trĩu nặng tâm tư, cảm xúc với Huế. Nói đến Huế còn phải nói
đến những lăng tẩm - dường như đây là điều không thể tách rời. Nét trầm mặc của
lăng tẩm, đề đài nơi đây đã mang đến cho con sông một sắc điệu hoàn toàn khác.

Tác giả nói đến một đoạn sông Hương trôi chảy giữa quần sơn lô xô, nơi đấy chỉ
có những rừng thông u tịch, như cảm nhận được niềm kiêu hãnh âm u của những lăng
tẩm, bao nhiêu lăng của vua chúa khiến cho một đoạn sông Hương như chìm trong núi
phủ mây phong cùng với bóng tùng – như một dòng sông bước ra từ cổ thi:

Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên


Ở ngoại vi của Thành phố Huế, sông Hương thay đổi tính cách của mình, nó uốn
mình thành những đường cong mà người ta thường thấy “dòng sông mềm như tấm
lụa”, có khi lại trầm mặc, có lúc lại xôn xao rạo rực. Phải là một con người gắn bó đến
mức máu thịt và am tường sâu sắc, có năng lực khám phá cái đẹp của sông Hương thì
mới có được những câu văn độc đáo và cách so sánh, ví von đầy trữ tình như thế.
Sông Hương chảy qua những thành trì lăng tẩm của vua chúa thời trước được phong
kín trong lòng những rừng thông u tịch, sông Hương giờ đây mang một vẻ kiêu hãnh,
trầm mặc, vẻ đẹp sang trọng và đầy bí ẩn và chứa đựng vẻ kiêu hãnh của một vùng
thượng lưu.

Với vốn kiến thức phong phú về địa lí, tác giả đã mang đến cho tác phẩm một sự
so sánh diệu kì. Sông Hương giữa lòng thành phố Huế có gì đó gợi nhắc đến sông Xen
của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, ... nhưng những dòng sông ấy vừa giống lại
vừa khác với Hương giang. Chúng đều giống nhau khi chảy giữa kinh thành của một
đất nước, thế nhưng riêng dòng Hương lại đem đến những sắc thái riêng biệt.

Sông Hương không chỉ là dòng sông chỉ thuộc về một thành phố, mà còn là dòng
sông nối liền quá khứ với hiện tại. Sự cần kề của những xóm thuyền, những ánh lửa
thuyền chài với phố thị đông vui bên bờ đã tạo nên một nét đan cài giữa hiện đại và
truyền thống. Thêm nữa, nét êm đềm, lặng lờ của dòng sông chính là điều khiến cho
diện mạo của thành phố như thơ mộng hơn, in một dấu đậm nét hơn trong lòng người
đọc:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng Huế nên rất thơ

(Thu Bồn)

Hay:

Hương Giang ơi, dòng sông êm


Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình

(Tố Hữu)

Dòng sông đã vượt qua bao gian truân, trắc trở cuối cùng cũng như một người đi
xa tìm đúng lối về, nó náo nức bồi hồi giữa quê hương, xứ sở, không còn vẻ băn
khoăn, trầm mặc hay kiếm tìm điều gì nữa. Giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên, nó
uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến làm cho “dòng sông mềm hẳn đi, như một
tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.”

So sánh là một thủ pháp nổi trội của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng ông luôn biết
làm mới nó bằng cách ví von với tiếng “vâng” của người con gái trong tình yêu còn
bao e lệ, e ấp, đó là nét kín đáo, dịu dàng trong giọng nói Huế ngọt ngào, thân thương.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có những phát hiện mới mẻ từ những gì đặc trưng nhất
của Sông Hương trong lòng xứ Huế.

Cách diễn đạt hết sức gợi cảm, tinh tế khi nhìn từ phía xa, cầu Tràng Tiền in bóng
xuống dòng sông mà ngỡ như một “vành trăng non”. Tác giả vừa vẽ lên dáng mềm
mại, cong cong, thanh mảnh của cây cầu, vừa hòa sắc lấp lánh của dòng sông trong
không gian thơ mộng, êm đềm. Cây cầu như một tín hiệu mà nhìn từ xa như đang vẫy
gọi sông Hương hòa làm một cùng Huế. Sông Hương là người con gái đang yêu gặp
được người tình trong mộng của mình, đó là một cuộc hội ngộ của tình yêu. Huế là
một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông để che chở và gắn bó cho “người con gái của mình”,
còn sông Hương được chia ra làm nhiều nhánh, tỏa nước ra khắp các ngõ ngách trong
thành phố như ôm trọn lấy tình yêu của đời mình.

Mỗi tác giả có những cảm nhận khác nhau về dòng sông này. Nếu như qua thơ
Hàn, dòng Hương giang mang những nét buồn man mác của một kẻ si tình, yêu đơn
phương trong ngóng về chốn cũ:
Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

(Hàn Mặc Tử)

thì Hoàng Phủ Ngọc Tường – con người gắn bó cả cuộc đời với mảnh đất cố đô lại
dường như có được cái nhìn êm đềm hơn, những bớt bơ vơ, buồn tủi hơn so với Hàn
Mặc tử. Chính vì thế, dù ở thủy trình nào, tác giả cũng mang đến cho dòng sông
những sức sống, nhưng ân tình không thể kiếm tìm thấy ở bất kì một tác phẩm nào
khác.

c. Sông Hương khi chảy trong lòng thành phố

Em nằm xanh nhé, sông Hương

Ta nghiêng núi Ngự ngồi thương... dịu dàng

Khoả vào trong vắt mênh mang

Có soi kịp nếp cũ càng tháng năm

Khói sương dâu bể toan cầm

Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay

Chẳng hoà tan được rủi may

Huế cho không cả ly đầy... bóng vua

Vàng son rồi cũng gió lùa

Sắc rêu thiền định ngày xưa nhói buồn

Cung tần mỹ nữ nằm suông

Hương giang như thể chiếc gương goá chồng


Thôi thì cũng một đời sông

Thời gian phế đổ tơ hồng đến leo

Trời ơi áo mão vương triều

Lẫn trong hạt bụi gieo neo mắt người!

(Trương Nam Hương)

Nếu như hình ảnh sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế mang vẻ đẹp kì diệu của
quần thể thiên nhiên thơ mộng nơi cố đô thì khi chảy trong lòng thành phố, nó lại
mang đến cho người đọc những cảm giác thật khác biệt.

Dưới cái nhìn của hội họa, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng. Tác giả sử
dụng hàng loạt những so sánh, liên tưởng mang đậm chất trữ tình kiến con sông
Hương hiện lên đầy thủy chung và tình tứ. Giữa thành phố, nó hệt như một bức tranh
lụa huyền ảo với những đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng.

Con sông khi nằm trong Huế, vận tốc của dòng nước như giảm hẳn, “cơ hồ chỉ là
một mặt hồ yên tĩnh”. Tác giả gọi đó là “một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.
Chất trữ tình được đặt rất rõ nét ở chi tiết này, làm nổi bật với người đọc sự tha thiết,
đắm say như một bản nhạc êm đềm của dòng nước. Trên trang văn của Hoàng Phủ,
Hương giang đã đẹp, đã mộng mơ nay lại càng say đắm đến thế.

Càng yêu quý điệu nhảy lặng lờ của dòng sông, tác giả càng muốn so sánh nó với
những dòng sông lớn nổi tiếng trên Thế giới như Sông Xen của Paris, Sông Đa-nuýp
của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Le-nin-grat… chảy băng băng như một chuyến tàu tốc
hành. Không phải là ngẫu nhiên mà nhà văn lại so sánh con sông Hương với những
dòng sông ấy. “Sông nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô”, nó “chảy nhanh quá”,
“không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ
trông theo”.

Còn Hương giang thì sao? “Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý
của mình, Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ
sông”. Những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp nơi. “Những cây
đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít”. Và đặc biệt,
điều khiến tác giả mê đắm nhất, có lẽ là dòng chảy “chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là
một mặt hồ yên tĩnh”. Có lẽ trước những tĩnh lặng si tình đó, con người ta mới muốn
nán lại bên con sông một chút, ngắm nhìn một chút, yêu thương thêm một chút. Và
bản thân tác giả, con người gắn bó cả cuộc đời với Huế và những dòng sông, thì dáng
điệu này của sông Hương là một trong những điều ông yêu mến nhất.

Khi miêu tả dòng chảy của con sông, nhà văn còn đưa vào đó chi tiết phong tục, lễ
hội và biến chúng thành hình tượng nghệ thuật. Để miêu tả dòng sông, ông mượn lại
tư tưởng của nhà triết gia người Hy Lạp Hê-ra-clit: “không ai tắm hai lần trên một
dòng sông” để tô đậm vẻ đẹp lặng lờ của nó mà có lần ta bắt gặp trong dòng sông của
nhà thơ Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Sông Hương đã đến lúc phải rời xa Huế để đổ ra biển nhưng nó bỗng “ngập
ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một
nỗi lòng”. Rời khỏi kinh thành, con Sông chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn
Hến quanh năm mơ màng sương khói, lưu luyến ra đi trên màu xanh mướt của thôn
vườn Vĩ Dạ. Sông Hương đột ngột chuyển dòng để gặp lại thành phố như muốn nói
lời thề trước khi về với biển cả. Cảnh chia tay rất lạ và tự nhiên nhưng rất giống với
con người: Có cử chỉ bịn rịn, có tâm trạng lưu luyến, có địa điểm chia tay, có lời thề
tiễn biệt nhắn nhủ.

Anh trôi đi,

Không bắt đầu, không kết thúc, không bờ bến

Anh mang tự do của nước đến với cuộc đời

Như sông, từ hữu hạn đến vô hạn

Để mãi mãi có mặt

Để sống

Bên người

Phải chăng, Sông Hương?

(Nguyễn Khoa Điềm)

Lối liên tưởng của tác giả hết sức độc đáo và được nhân hóa lãng mạn, nhà văn
cho rằng đó là nỗi vương vấn và một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Nó cứ chùng
chình như muốn nói lời thề với Huế, lời thể thủy chung, son sắc. Sông Hương ra đi
trong cảm xúc bịn rịn, như một người tình chung thủy, như nàng Kiều trong đêm Tự
tình trở về tìm Kim Trọng nói lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài.” Vẻ đẹp ấy chính
là vè đẹp thủy chung, đằm thắm của sông Hương.

Ở đây ta nhận ra ba thái độ chí tình: Chí tình của sông Hương với Huế, chí tình
của người Huế trong tình yêu và cuối cùng là tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường
với sông Hương, xứ Huế. Nếu như tách sông Hương ra khỏi xứ Huế, nó chỉ là một
dòng chảy vô thức chảy trôi giữa đôi bờ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn vào sông Hương, gắn nó với cánh sắc
Huế, con người Huế để rồi sông Hương mang một cá tính riêng, phong phú và độc
nhất: Có lúc như cô gái Digan phóng khoáng đầy man dại, có lúc lại như người mẹ
của vùng văn hóa xứ sở, hay lại là người thiếu nữ với vẻ đẹp nhẹ nhàng, trầm lắng sâu
sắc và kín đáo. Lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức nhưng lại không
phô trương.

2. Sông Hương trong dòng chảy lịch sử

Sông Hương

Con sông của những người ra đi và trở lại

Đưa anh qua những ngày bình an như bàn tay mẹ

Không nỗi đau đớn nào sông không rửa sạch với từng giọt nước ngời sáng

Không một cơn khát nào không được san sẻ bằng vị ngọt thần thánh

Người có đủ nước cho những cánh đồng, đủ tôm cá cho phiên chợ sớm
Diên

Trường, đủ nước mặn cho những ao tôm ngoài cửa Thuận

Người đủ phù sa để làm nên một châu thổ không có trên bản đồ

Nhưng mãi mãi phì nhiêu trong tâm hồn người xa xứ

Người là bùn, là mây, là bến, là hành trình của nước không dừng lại

một ngày

(Nguyễn Khoa Điềm)

Dưới lăng kính sử thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không quên tô đậm niềm vinh
quang mà sông Hương có được trong lịch sử lâu dài của dân tộc. Đó là dòng sông của
những chiến công hiển hách, của sử thi được viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Nó là bản
trường ca ghi dấu những kỉ niệm quang vinh, là chứng nhân lịch sử phải chịu nhiều
những mất mát, hy sinh cùng với các thế hệ nhân dân Huế. Từ hồi vua Hùng dựng
nước cho đến khi Nguyễn Trãi viết “Dư địa chí”, dòng sông mang tên Linh Giang -
Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Đại Việt.

Đi qua thế kỉ trung đại, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi
của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Nó bầm da tím máu, sống hết lịch sử đau
thương, bi tráng của thế kỉ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa. Sông Hương đi
vào thời đại Cách Mạng tháng 8 với chiến công rung chuyển như tiếng trống của cuộc
khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Nó oằn mình lên để hứng chịu những trận bom dội của
không quân Hoa Kì tàn phá những di sản của cố đô. Suy cho cùng, sông Hương là
dòng sông của thời gian ngân vang, là biểu tượng của bề dày văn hóa Huế, là tình yêu
bất tận của Hoàng Phủ Ngọc Tường- Một nhà văn đã có hơn 40 năm gắn bó với nơi
đây.

“Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật và về chính quyền
rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như
các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin, … Một trong số những di sản đó đã bị phá
hủy lúc Nội thành Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát
của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ”. Sự phá hủy những di sản này cũng có
tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công
trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhờ thờ bị phá hoại”.

Với những dòng ấy, Hoàng Phủ không chỉ mang đến cho chúng ta sự ngậm ngùi
tiếc nuối trước những giá trị văn hóa đã bị phá hủy, khi Huế oằn mình chống lại
những tàn phá của chiến tranh, mà kèm theo đó, cũng không thiếu những dư âm của
sự tự hào. So sánh Huế với Pa-ri hay Luân Đôn, hẳn rằng trong lòng tác giả đang trào
dâng một nỗi vui mãnh liệt và tha thiết khẳng định vị thế, tầm quan trọng của thành
phố cố đô này.
Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương
hiện lên với vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập quán ở
xứ Huế. Nhà văn dường như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên,
chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Nhà văn đã từng tâm sự “Sông Hương là nỗi hoài
vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” ý chính bởi điều đó ông khao khát khám phá
vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn mình.

Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Từ
trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước, nhà văn liên tưởng đến hình ảnh người tài
nữ đánh đàn lúc đêm khuya để thấy được đây là nơi sinh thành ra nền âm nhạc kinh
thành Huế, là cái nôi của nền âm nhạc truyền thống. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo
nhưng vô cùng chính xác, nó thể hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sông Hương lên
trở thành cái đích thực của tâm hồn. Lắng nghe âm thanh của dòng sông mà thấy được
những thổn thức của cha ông, đó là đại thi hào Nguyễn Du: “Bao năm lênh đênh trên
quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời
Kiều”.

Không phải ngẫu nhiên trong bài kí mà tác giả nhiều lần nhắc đến Truyện Kiều khi
nói đến sông Hương. Đối với người Việt Nam, Truyện kiều là một kiệt tác đại thành
của dân tộc, và trong truyện Kiều luôn soi bóng hình ảnh của dòng sông Hương. Nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận dòng sông âm nhạc ở nhiều không gian,
thời gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức uyên bác. Ông đã làm sống
dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của Hương giang, tới
những bản nhạc nổi tiếng như “Tứ đại cảnh”:

“Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”


Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với sức
mạnh trong thi ca kì diệu. Ta dễ dàng nhận thấy sông Hương không tự lặp lại mình
trong cảm hứng của những người nghệ sĩ vì nó là nguồn cảm hứng bất tận để bao thế
hệ lãng tử chìm mình vào sông Hương. Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương xanh
biếc chuyển thành “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Là dòng sông Trăng của Hàn Mặc
Tử, và từ một Linh giang đang mơ màng với bóng hoàng hôn bảng lảng trong nỗi
quan hoài vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Dòng sông còn trở thành “thanh kiếm
dựng trời xanh” trong những lời thơ hào hùng của Cao Bá Quát. Rồi nó trở thành sức
mạnh phục sinh trong tầm hồn của những người con gái trong thơ ca của Tố Hữu. Ta
nhận thấy sông Hương được thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau mang vẻ đẹp dịu
dàng và trí tuệ nhờ cách viết tài hoa và đầy mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

3. Sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa


a. Nền âm nhạc cổ điển xứ Huế trên dòng sông Hương

Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông
Hương hiện lên với vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập
quán ở xứ Huế. Nhà văn dường như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng
quên, chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Ông cũng từng tâm sự “Sông Hương là nỗi
hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới”. Ý thức được điều đó cây bút Hoàng
Phủ luôn khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn mình.
Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Sông
Hương là cái nôi sinh thành nền âm nhạc kinh thành và không gian phát triển, tồn tại
của nền âm nhạc truyền thống suốt mấy thế kỉ qua.

Từ trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước, nhà văn liên tưởng sông Hương
đến hình ảnh “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo
nhưng vô cùng chính xác, nó thể hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sông Hương lên
trở thành cái đích thực của tâm hồn. Ai đã từng đến Huế và có dịp ngồi thuyền lênh
đênh trên sông Hương thưởng thức nhã nhạc cung đình Huế mới thấy hết được vẻ đẹp
của nền âm nhạc nơi đây và đặc biệt cảm nhận hết cái vẻ đẹp của Hương giang từ góc
độ này. Lúc ấy độc giả mới có thể biết được nỗi niềm xao xuyến khi lắng nghe “tiếng
nước rơi bán âm của những mái chèo khuya” – tiếng nước rơi trầm đục theo cách cảm
âm nhạc.

Khi miêu tả vẻ đẹp của dòng sông âm nhạc, Hoàng Phủ còn tinh tế, khéo léo
dẫn dắt người đọc tới câu chuyện về “một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế
kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều”, đọc tới mấy câu thơ: “Trong như tiếng
hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, người nghệ nhân bỗng thốt lên: “Đó
chính là tứ đại cảnh!”. Để có được “Tứ đại cảnh” ấy thì trước đó đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du đã có những trải nghiệm đầy cảm xúc.

Nhà thơ đã “bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và
từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều”. Không phải ngẫu nhiên trong bài kí mà
tác giả nhiều lần nhắc đến “Truyện Kiều” khi nói đến sông Hương. Đối với người Việt
Nam, “Truyện Kiều” là một kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong “Truyện Kiều”
luôn soi bóng hình ảnh của dòng sông Hương. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
cảm nhận dòng sông âm nhạc ở nhiều không gian, thời gian và địa điểm bằng sự quan
sát và vốn kiến thức uyên bác. Ông đã làm sống dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình
Huế từ giai điệu âm vang của Hương giang.

Nét buồn, nét mộng của sông Hương cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho bao
bản tình ca êm đềm, xao xuyến lòng người. Và để viết ra những câu văn đắm say như
vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường chắc đã từng nghe vọng mấy câu hò Huế:

“Chiều chiều trước bến Văn Lâu

Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm


Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông

Thuyền ai thấp thoáng trên sông

Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.”

b. Sông Hương – dòng sông của thi ca

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với
sức mạnh trong thi ca kì diệu. Đã có biết bao “cố nhân” đến và trầm mình với sắc
nước của Hương giang để rồi tuôn trào những vần thơ thật đẹp. Hương giang chính là
nguồn cảm hứng bất tận của bao thi sĩ nhưng mỗi nhà cầm bút lại tìm cho mình một
cảm hứng riêng, độc đáo và mới mẻ. Hoàng Phủ với vốn văn chương uyên bác cùng
cái nhìn tinh tế và tư duy sâu sắc đã phát hiện ra Hương giang là dòng thi ca “không
bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.

Vẻ đẹp phong phú và đa dạng của cô gái sông Hương trong thơ ca có phải
chăng xuất phát từ quy luật sáng tạo văn chương của người nghệ sĩ, như Marcel Proust
từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc
đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Dù trong cùng một đề tài, đi tới
cùng một mảnh đất hay đắm mình cùng một dòng sông, mỗi người nghệ sĩ đều có một
nhãn quan mới. “Đôi mắt mới” chính là điều không thể thiếu ở một người làm văn
chương chân chính. Mặt khác qua những tìm hiểu về Hương giang dưới góc nhìn địa lí
ở phần đầu, ta cũng nhận thấy đầy là dòng sông với vẻ đẹp đầy biến ảo.

Sông Hương ở vùng thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố hay trong lòng thành
phố lại mang dáng vẻ, tính cách riêng. Nếu nhìn sông Hương như một người con gái
thì cô gái ấy cũng phức tạp đến lạ kì. Có khi cô là cô gái Di – gan “phóng khoáng”, có
khi cô là “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu Hóa đầy hoa dại”, có
khi cô trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Cô cũng yểu điệu trong màu
áo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Và ở những khoảng thời gian khác nhau của lịch
sử, người con gái ấy lại mang trong mình những vai trò khác nhau. Vì lẽ đó Hương
giang bước vào văn chương với những bộ mặt rất khác nhau.

Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương mang sắc màu biến ảo, từ tấm áo xanh
biếc Hương giang đột ngột chuyển thành áo trắng

“Dòng sông trắng lá cây xanh

Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”

Dưới cái nhìn của Cao Bá Quát sông Hương lại có vẻ đẹp thật hùng tráng:

“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng

Sông dài như kiếm dựng trời xanh”

Có khi Hương giang bảng lảng với “nỗi quan hoài vọng cổ” trong thơ Bà huyện
Thanh Quan. Và có lúc sông Hương mang trong mình “sức mạnh phục sinh tâm hồn”
trong lời thơ Tố Hữu. Những lúc ấy, tác giả “Từ ấy” thấy sông Hương rất Kiều, đến
độ say đắm lòng người:

“Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng,

Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai

Ven bờ sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong gió mai... “

Vẻ đẹp của Hương giang thật thơ, thật mê đắm. “Sông Hương hóa rượu ta đến
uống”. Và với mỗi thi sĩ, có hơi men nào ngây ngất như Hương giang. Sông Hương cứ
lặng lờ và tình tự như thế đi vào những tác phẩm nghệ thuật, đi vào lòng người. Đọc
tác phẩm xong, chắc hẵn những ai chưa từng một lần đến với Huế mộng mơ thì hình
ảnh dòng Hương giang vẫn sẽ in đậm trong tâm trí.
Bằng ngòi bút đầy tinh tế và một tình yêu Huế dạt dào, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã để lại một ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc về dòng sông Hương, về
Huế. Đất nước ta vẫn luôn có những cảnh đẹp, danh lam thắng cảnh nổi tiếng làm
thổn thức biết bao trái tim. Chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ và tự hào về cảnh sắc
thiên nhiên của đất nước mình, hãy tự hào là người con đất Việt!

4. Cái tôi nghệ sĩ tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường qua “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”

Đặc điểm của thể loại tùy bút là cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm
hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày. Thế nhưng,
không phải tác giả nào cùng thành công được ở thể loại này. Với Hoàng Phủ Ngọc
Tường, có lẽ lí do để ông khẳng định được tên tuổi của mình với tùy bút, có lẽ chính
là nhờ cái tôi nghệ sĩ tài hoa của chính ông.

Để thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương, Hoàng Phủ đã quan sát dòng sông từ
rất nhiều điểm nhìn khác nhau: khi thì theo thủy trình, khi thì bằng cái nhìn của văn
hóa hay là lịch sử, có lúc lại là cái nhìn đầy cảm xúc của người con đã gắn bố và nhiều
mến thương với mảnh đất cố đô. Qua đó, người đọc thấy được con mắt của một người
nghệ sĩ tài hoa, tạo nên những nét vè liên hoàn, tươi tắn và đầy thân thương về con
sông cũng như cả thành phố.

Một cái tôi mê đắm và tài hoa

Không có một cái tôi mê đắm và tài hoa, có lẽ rằng hoàng Phủ đã chẳng thể
nào viết nên được “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Ấn tượng đầu tiên về cái tôi trữ
tình của tác giả có lẽ là ở sự mê đắm và tài hoa khi viết về con sông Hương của xứ
Huế.

Với cách quan sát dòng sông từ nhiều điểm nhìn khác nhau: khi thì theo hành
trình mà nó di duyển (điểm nhìn từ ngọn nguồn xuôi ra biển”, khi thì đứng từ trên cao,
từ đồi Tam Thai, Vọng Cảnh, ngắm nhìn dòng sông phản quang ánh sáng bầu trời
“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; khi lại đặt mình vào lòng sông, tự làm một tấm
gương soi chiếu những cảnh vật mà nó đi qua: những lăng tẩm đồ sộ, uy nghiêm ẩn
mình trong những rừng thông u tịch:

Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên

Và còn cả đồi Thiên Mụ nổi tiếng với chuông chùa trầm mặc dường như lan
tỏa ra xa mãi, xa mãi, đánh động mặt nước và xao xuyến cả những thôn xóm yên bình.

Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? nhà văn đã dành nhiều tâm trí, tình
cảm, tài năng của mình để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang.

“Tiếng hát ai mà nghe nhớ thương

Mái nhì man mác nước sông Hương

Hà ơi…tiếng mẹ ru nhè nhẹ

Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường”.

(Tố Hữu)

Thầy Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định rằng:


“Trong nền văn học Việt Nam, nói đến những người viết bút kí, tùy bút thực có
tài, người ta thường nghĩ đến Nguyễn Tuân trước hết, sau đó đến Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Nếu bắc cân lên so sánh thì Nguyễn Tuân phong phú hơn, đa dạng hơn, sự
nghiệp đồ sộ hơn. Cả hai đều say mê cái đẹp, suốt đời đi tìm và diễn tả cái đẹp. Nhưng
nếu với Nguyễn Tuân, cái đẹp phải là những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ
sĩ, gây ấn tượng khác thường, thậm chí dữ dội – người đẹp thì phải là đẹp đổ quán
xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước, còn thiên nhiên thì phải là đèo cao thác dũ, là
gió cuồng bão táp; thì với Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải là thơ mộng, dịu
dàng, là dòng sông Hương trôi trong sương mờ, là cô gái Huế tình tứ mà kín đáo, e lệ,
và nếu là sử thi thì “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.

Điều ấy đã thực sự khẳng định với người đọc, một cái tôi của Hoàng Phủ khi
viết kí. Ông tài hoa, mê đắm, nhưng cái tôi mê đắm ấy được thể hiện một cách rất
khác. Qua bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông?, cái tôi mê đắm và tài hoa của ông
đã được thể hiện khi ông quan sát dòng sông ở nhiều điểm nhìn khác nhau, mang đến
cho người đọc một cái nhìn khách quan, mới mẻ và đày tính khám phá về dòng sông
này.

Trước tiên, cái tôi mê đắm và tài hoa của Hoảng Phủ được thể hiện qua sự cảm
nhận con sông Hương từ góc nhìn địa lí. Thật vậy, trên mỗi chặng hành trình của dòng
sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, con sông đều hiện lên với một vẻ đẹp
khác nhau. Dù ở thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố hay khi đã chảy giữa lòng thành
phố rồi, con sông vẫn mang những nét đẹp phong phú mà thống nhất, làm say lòng
người.

Ở thượng nguồn, sông Hương không chỉ được hình dung như “bản trường ca
của rừng già” – một khúc ca dài hùng tráng và lãng mạn của đại ngàn thiên nhiên
hùng vĩ mà còn mang dáng dấp của một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”.
Đến khi rời vùng núi để về đồng bằng, ném chiếc chìa khóa vào tận trong rừng sâu, sự
hoang dại lại nhường chỗ cho một nét mềm mại khác. Con sông khi về xuôi giống như
“người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người
tình mong đợi đến đánh thức”.

Đến khi chảy giữa lòng thành phố yêu thương, sông Hương là “người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya”. Và trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị
trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương cứ như thể là nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để
nói một lời thề trước khi đi xa… Dưới góc nhìn địa lí, một bức tranh màu sắc tươi tắn
nhưng thanh thoát nhẹ nhàng đã được hiện lên thật đẹp trên trang văn của Hoàng Phủ.

Trong niềm say mê của nhà văn, con sông không chỉ hiện lên ở góc nhìn địa lí,
mà còn trở thành một “thiên sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Đó là con sông
“biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” trong chiến tranh. Nhưng khi trở về
với cuộc sống đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu
dàng của đất nước”.

Với cái nhìn của một con người coi Huế là tất cả máu thịt của tâm hồn mình
như Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn là một dòng chảy địa
lý thuần túy, mà nó giống như một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm
tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Nó mang trong mình những vẻ đẹp truyền
thống đã làm thành bản sắc của văn hóa Việt:

Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa


(Huy Cận)

Cái tôi tài hoa mà mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua Ai
đã đặt tên cho dòng sông, còn ở nhiều phương diện khác nữa. Tuy nhiên, bởi đã nhắc
đến và phân tích nội dung này ở những nội dung trước, thầy sẽ không nhắc lại những
ý này nữa. Chỉ mong rằng, dưới cái nhìn tổng thể, các bạn có thể cảm nhận được một
cách sâu sắc cái tôi tài hoa ấy của tác giả.

Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm
kiếm, phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình
chữ nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến
độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà
còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả.

Thế nhưng, công minh mà nói, thì cái tôi tài hoa của Hoàng Phủ không chỉ
được thể hiện qua việc nhìn con sông ở nhiều góc độ. Điều quan trọng là, sau ngần ấy
sự quan sát tỉ mỉ, ngắm nhìn và yêu thương, ông đã thể hiện lên trang văn của mình
một “vùng thẩm mĩ” đẹp đẽ. Vùng thẩm mĩ ấy chính là Huế, là sông Hương – nhưng
là cố đô và sông Hương chỉ có trên trang văn của ông mà thôi. Người ta có thể cũng
nói về Hương giang và Huế, nhưng cái tình mà người ta gửi và đó, chẳng thể nào
giống với Hoàng Phủ. Đặc biệt hơn, ông viết về đối tượng này bằng một trái tim say
đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri thức phong phú, để tạo nên
những trang văn đẹp, giàu chất trữ tình mà vẫn lấp lánh chất trí tuệ.

Cái tôi uyên bác, giàu tri thức về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế
Bài viết Làm rõ ngòi bút tài hoa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút
kí Ai đã đặt tên cho dòng sông trên theki.vn đã chỉ rõ và phân tích cái tôi uyên bác,
giàu tri thức về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế rất hay như thế này:

“Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bài bút kí. Tuy nó nghiêng nhiều hơn về
phía tùy bút, tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của
thể loại không vì thế mà mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết kí chính là
thư kí trung thành nhất của thời đại. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” như thế,
thậm chí còn là một “thư kí” xuất sắc vì ông có vốn hiểu biết sâu rộng về địa lý, lịch
sử, văn hóa của sông Hương. Ông tỏ ra am hiểu tường tận những gì mình viết. Với
sông Hương, nhà văn không chỉ nắm bắt từng chỗ “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”,
những chỗ “dịu dàng”, “say đắm”…; không chỉ thông thuộc từng “khúc quanh”, chỗ
“chuyển dòng” của con sông trong từng không gian địa lý mà còn tường tận cả chiều
dài lịch sử của sông Hương từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi ở thời
đại các vua Hùng…

Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện của nhà văn về đặc điểm
văn hóa của sông Hương. Dấu tích văn hóa in đậm ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là
cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền
đài của các đời vua chúa triều Nguyễn; là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên
mặt nước của dòng sông này. Đó còn là dòng sông thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm
hứng cho biết bao văn nghệ sĩ, nhất là các nhà thơ, như Cao Bá Quát đã từng nhìn
sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”; như Hàn
Mặc Tử thấy dòng “sông trăng” lung linh, thơ mộng: “Thuyền ai đậu bến sông trăng
đó. Có chở trăng về kịp tối nay”; như Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông
Hương mà bâng khuâng: “Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào
lòng nên Huế rất sâu”…
Và nhắc đến sắc màu văn hóa của sông Hương thiết nghĩ không thể không nhắc
đến một giai thoại đẹp mà nhà nhà văn đã phải kì công lục tìm đâu đó trong kho tư
liệu bác học của xứ Huế hoặc trong cái vốn văn hóa dân gian của người bình dân xưa
về nguồn gốc tên gọi của con sông: “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu
quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại
hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Giai thoại này, không phải ai
cũng biết, kể cả những người sống lâu năm ở Huế. Vì thế, nó trở thành một thông tin
mà nhiều người phải ngỡ ngàng trong sự thích thú dù có thể không ít lần họ đã đến
Huế, đến sông Hương, thậm chí đã từng đặt ra câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông?
nhưng chưa có được câu trả lời ưng ý.

Có thể nói, bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người
đọc một lượng thông tin lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và sông Hương
nói riêng. Vốn kiến văn sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và
du khảo của nhà văn suốt dặm dài của mảnh đất cố đô. Nhưng cái chính vẫn là những
trang ghi chép về Hương giang đã được tưới tắm trong vô vàn cung bậc cảm xúc
phong phú của tác giả, đã thăng hoa trong cảm hứng mê đắm và sự tài hoa của nhà
văn.”

Thế mới biết, khi yêu và gắn bó thật sự, người ta thể hiện cảm xúc của mình
đẹp đẽ đến thế nào. Không phô trương, không rực rỡ sắc màu, cảm xúc cảu Hoàng
Phủ có lẽ chỉ mang nặng sắc xanh, sắc tím thủy chung của Huế và của cảnh quan nơi
đây. Thế nhưng, chỉ cần một gam màu thế thôi, cũng đã rất đầy đủ và trọn vẹn rồi.

Cái tôi yêu quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế

Như chúng ta đều biết, Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc không phải là ở Huế,
nhưng cuộ đời ông lại gắn bó với mảnh đất này tha thiết. Nhà văn của những dòng
sông – vì thế - làm sao có thể quên được dòng sông em dịu của mảnh đất này. Viết về
Huế mà không viết về Hương giang, có lẽ sự mệnh danh “nhà văn của những dòng
sông” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có, chắc rằng cũng không thể nào trọn vẹn được.

Phải yêu Huế, gắn bó với sông Hương đến mức nào, Hoàng Phủ Ngọc Tường
mới có được những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa về Hương giang như
vậy. Tài năng nghệ thuật là một phần, cái yếu tố tiên quyết trong nghệ thuật vẫn là
tình cảm, cảm xúc chân thành, sâu đậm. Một trong số những nét phong cách tiêu biểu
của nhà văn, chính là biết đặt cảm xúc cá nhân của mình một cách hài hòa lên trên
trang viết. Người thấy một Hoàng Phủ đầy tài hoa, mê đắm nhưng cũng tràn đầy một
tình yêu thiết tha với Huế hiện lên trên trang văn.

Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã chiếm trọn tâm hồn ông. Liệu có
phải, Hoàng Phủ thích cái lặng lờ, chảy trôi em dịu của dòng sông này? Nó đã khiến
trái tim ông phải ngân rung những giai điệu yêu thương với những cung bậc khác
nhau: khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người – vì “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt
kinh thành” của sông Hương – mà có thể “không hiểu một cách đầy đủ bản chất” của
nó, “không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm mà dòng sông hình như không muốn bộc
lộ”; khi lại nhớ đến nao lòng một nét sông Hương với “điệu chảy lững lờ” mà ông gọi
là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; có khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế
giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt
nước của dòng sông”…

Những cảm xúc ấy chỉ là một số ít trong rất nhiều những biểu hiện của tình
cảm gắn bó yêu thương đối với sông Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo
thể hiện. Như I.Ê-ren-bua đã từng viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại
trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu
miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”. Người ta thể hiện những cái tôi mạnh mẽ, nổi
bật lên trang văn, nhưng dường như Hoàng Phủ không làm thế. Ông cũng có sự mãnh
liệt trong khao khát kiếm tìm những nét đẹp của sông Hương; ông cũng mang những
tình yêu không thể nói hết thành lời với mảnh đất này. Thế nhưng, cái cách thể hiện
của ông lại đầy dịu dàng. Nó tĩnh lặng mà trữ tình như dòng nước sông Hương, nó u
hoài và đẹp đẽ như chính cố đô vậy. Vì thế, tình cảm đối với sông Hương của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, xét đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê
hương xứ sở nồng nàn của nhà văn.

 Kết luận:

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh
sắc thiên nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đô.
Qua đó tác giả ca ngợi dòng sông Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ
Huế. Nó gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương xứ sở và niềm khao khát
khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết dưới dạng bút kí, thiên về thể
loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ
vựng phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi
bật vẻ đẹp của Hương giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.

III. TỔNG KẾT


1. Nghệ thuật

- Chất trí tuệ, chất thơ kết hợp hài hòa, kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch
sử, địa lí… được thể hiện trong tác phẩm tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc

- Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng
nhiều phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, liên tưởng… có sự kết hợp hài hòa
giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan…
2. Nội dung

- Bài kí ngợi ca dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế đẹp thơ mộng
hữu tình, ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa và tâm hồn người Huế.

- Tác giả coi sông Hương là biểu tượng cho tất cả những gì là vẻ đẹp của cảnh và
người đất đế đô này.

- Bài kí chứng tỏ sự gắn bó máu thịt, tình yêu thiết tha với Huế và một vốn hiểu biết
sâu sắc về nền văn hóa đất cố đô của tác giả.

Nhận định về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”

1. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa

(Nguyễn Tuân)

2. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện
nay

(Nguyên Ngọc)

3. Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút kí văn học của riêng mình.
Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như
đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái
ngòi bút được.

(Hoàng Cát)

4. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước
ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm
lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là
những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình... Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường
chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc... Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường
là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu
thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho
rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết... thơ anh buồn mỗi
nỗi buồn đứt ruột... Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là một nhận xét xác đáng.

(Nhà thơ Ngô Minh)

5. …Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con Sông Hương mê hoặc. Nhiều
tác phẩm văn học đã đưa con sông này đến với người đọc để từ đó đem lòng yêu Huế,
dù chưa một lần đặt chân đến nơi này. Nhưng với Hoàng Phủ Ngọc Tường, người một
đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm tha thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ
đẹp của Hương Giang một cách toàn diện, đưa Sông Hương trở thành biểu tượng của
đất cố đô…

(Bùi Thị Hải Hạnh)

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bài viết: “Sông Hương hóa rượu ta đến uống”… của tác giả Phạm Thị Phương
Thảo, đăng trên Tạp chí sông Hương.
2. Bài viết Làm rõ ngòi bút tài hoa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút
kí Ai đã đặt tên cho dòng sông trên theki.vn.
3. Sách Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học nâng cao 12 – thầy Nguyễn Đăng
Mạnh (chủ biên).

You might also like