Professional Documents
Culture Documents
Giấy là một loại vật liệu mỏng được làm từ chất xơ dày từ vài trăm µm cho
đến vài cm, thường có nguồn gốc thực vật, và được tạo thành mạng lưới
bởi lực liên kết hiđrô không có chất kết dính. Thông thường giấy được sử
dụng dưới dạng những lớp mỏng nhưng cũng có thể dùng để tạo hình các
vật lớn (papier-mâché). Trên nguyên tắc giấy được sản xuất từ bột
gỗ hay bột giấy. Loại giấy quan trọng nhất về văn hóa là giấy viết. Bên
cạnh đó giấy được sử dụng làm vật liệu bao bì, trong nội thất như giấy dán
tường, giấy vệ sinh hay trong thủ công trang trí, đặc biệt là
ở Nhật và Trung Quốc.
Trước khi phát minh ra giấy, con người đã ghi chép lại các văn kiện là các
hình vẽ trong các hang động hoặc khắc lên các tấm bia bằng đất sét, và
sau đó nữa là người ta dùng da để lưu trữ các văn kiện. Kể từ khi người
Trung Quốc phát minh ra giấy vào năm 105, giấy đã bắt đầu được sử dụng
rộng rãi ở Trung Quốc và mãi cho đến năm 750, kỹ thuật sản xuất giấy mới
lan truyền đến phương Tây thông qua Samarkand bởi các tù binh người
Trung Quốc bị bắt trong Trận Đát La Tư giữa nhà Đường và nhà
Abbas của người Hồi giáo. Giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ
12 qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương
Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo.
Lịch sử
Các hình vẽ trong hang động là những văn kiện lâu đời nhất do con người
vẽ bằng bột màu. Người Sumer, có nền văn hóa cao lâu đời nhất được
biết đến, viết trên những tấm bia bằng đất sét (văn tự hình nêm, bắt đầu từ
khoảng 3300 năm trước Công nguyên). Các vật liệu hữu cơ dùng để viết
lên sau đó ít bền hơn. Nếu không có những tấm bia bằng đất sét của
người Sumer chúng ta biết rất ít về thời gian này. Da, giấy
da (parchment), gỗ, vỏ cây, giấy cói (giấy chỉ thảo) - có ở Ai Cập khoảng
3000 năm trước Công nguyên - và giấy đều có thể cháy và bị phân hủy
sinh học.
Giấy cói (giấy chỉ thảo) làm bằng một loại lau sậy (cây cói giấy hay cây chỉ
thảo – cyperus papyrus, họ Cói) được buộc vào với nhau và đặt chéo lên
nhau trước khi được ép lại. Người ta viết trên đó bằng mực đỏ hay đen.
Mực đen bao gồm bồ hóng và một dung dịch từ nhựa của cây keo (gummi
arabicum). Mực đỏ được làm từ hoàng thổ. Người ta dùng một cây cọ làm
từ cây sậy (cây lau) để viết.
Giấy cói cổ từ Ai Cập
Mặc dù cây cói giấy (cây chỉ thảo) cũng có ở Hy Lạp nhưng không được
lan truyền ra ngoài nước. Trong thế kỷ thứ 3 người Hy Lạp thay thế cọ viết
bằng lông chim. Từ giấy trong các thứ tiếng ở châu Âu (papier, paper...)
dẫn từ tên của cây cói giấy - papyrus.
Ngoài ra người ta còn viết trên giấy da (parchment) là loại da mỏng chưa
được thuộc.
Ở Roma người ta sử dụng cả giấy cói (giấy chỉ thảo) lẫn bảng làm bằng
sáp, văn thơ được khía lên bằng một cây nhọn. Dùng một tấm cạo có thể
làm phẳng sáp lại và lại có thể viết lên trên tấm bảng này. Ở Ấn Độ người
ta dùng lá cây cọ. Ở Trung Quốc, trước khi phát minh ra giấy, xương, vỏ
sò ốc, ngà voi, sau đó là đồng thau, sắt, vàng, bạc, thiếc, thạch anh,
đá, đất sét, tre và tơ lụa đều được dùng đến.
Trong thế kỷ thứ 5 (triều nhà Hậu Hán) Phạm Diệp (范曄) đã tường thuật
lại:
Từ xưa người ta đã dùng thanh tre để viết, được cột lại với nhau.
Cũng có một loại giấy làm từ phế phẩm của tơ lụa. Nhưng tơ lụa quá
đắt còn các thanh tre thì quá nặng nên không sử dụng thích hợp. Vì
thế Thái Luân (蔡倫) nghĩ ra kế làm giấy từ các vỏ thân cây, sợi thân
cây, từ cây gai dầu cũng như từ vải và lưới đánh cá cũ. Năm 105
Công nguyên ông tâu lên Hoàng thượng và được ngài khen thưởng
cho tài năng của ông. Từ đấy giấy trở nên thông dụng và trong cả
vương quốc mọi người đều gọi đó là giấy của quý nhân Thái.
Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng
carbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ
trước Thái Luân, nhưng người ta vẫn cho Thái Luân là người phát minh
ra giấy thực thụ như ngày nay.
Phát minh ra giấy
Như vậy giấy làm từ tơ lụa đã được biết đến trước khi Thái Luân phát minh
ra giấy trong thế kỷ thứ 1, khoảng năm 105, chủ yếu làm từ sợi bên trong
của vỏ cây dâu (dâu tằm).[1] Trước đó cũng đã có giấy làm từ cây gai
dầu (Cannabis), còn được gọi là cây cần sa, như năm mẩu giấy được tìm
thấy trong những năm từ 1973 đến 1978 đã chứng minh. Các ghi định thời
gian được so sánh lại cho thấy các mẩu giấy này phải có nguồn gốc từ
khoảng năm 140 đến 87 trước Công nguyên.
Một loại nguyên liệu giấy khác là cây thụy hương (Daphne). Cây gai dầu và
thụy hương có sợi dài hơn những loại gỗ được sử dụng ngày nay và qua
đó mà có độ bền cao. Hai tính chất này cho phép giấy được sử dụng vào
những mục đích khác ngoài mục đích để viết. Các đồ vật để trang trí và
quần áo cũng được sản xuất theo truyền thống từ giấy ở Đông Á.
Nguyên liệu làm giấy được cắt vụn ra và giã nhỏ trong nước thành bột
lỏng. Các sợi được phân tán mỏng trong nước. Đầu tiên giấy được múc ra
bằng một cái rây nổi trên mặt nước. Lưới ở dưới đáy rây được gắn chặt
vào khung. Mỗi tờ giấy được múc ra phải được làm khô trong rây và chỉ
được đem ra sau khi khô. Vì thế mà cần đến rất nhiều rây. Kỹ thuật này lan
truyền đến người Thái vào khoảng năm 300.
Vào khoảng năm 600 kỹ thuật múc giấy cải tiến dùng loại rây múc lan
truyền đến Triều Tiên và sau đó đến Nhật. Ở loại rây múc này khung rây có
thể gỡ ra khỏi rây. Tờ giấy vừa được múc có thể được lấy ra khi còn ẩm và
đem đi phơi khô. Kỹ thuật này còn được sử dụng cho đến ngày nay ở các
loại giấy múc bằng tay và nói chung nguyên tắc sản xuất giấy (cắt vụn, giã
nhỏ trong nước, múc và hong khô) vẫn không thay đổi cho đến ngày nay.
Ở Nhật người ta cải tiến kỹ thuật này và pha vào bột của sợi giấy nhựa từ
rễ của cây bụp mì (Abelmoschus manihot). Các sợi được phân tán đều
hơn và không còn bị vón cục nữa. Loại giấy này được gọi là giấy
Nhật (Washi-和紙).
Ở châu Âu sau này giấy được ép từng chồng, giữa hai tờ giấy có lót một
tấm vải hay nỉ (phớt). Qua đó mà quá trình làm khô giấy được tăng nhanh
hơn và giấy được nén
Giấy trong thế giới Ả Rập
Vào năm 750 hay 751, kỹ thuật sản xuất giấy lan truyền đến Samarkand, có lẽ qua các tù binh người Trung Quốc trong một
cuộc tranh chấp biên giới, và từ đấy kỹ thuật này lan rộng khắp thế giới Ả Rập.[1]Nhờ vào các khám phá mới, người ta cho
rằng ở Samarkand giấy đã được biết đến và sản xuất trước đó 100 năm.
Cây lanh (Linum usitatissinum) và cây gai dầu (Cannabis L.) cũng như
nước đều có đầy đủ, chẳng bao lâu người Ả Rập đã xây dựng lên một
công nghiệp giấy phát đạt. Giấy lan truyền nhanh chóng đến Maroc. Một
cối xay giấy đã được xây ở Bagdad vào năm 795, năm 870 quyển sách
làm bằng giấy đầu tiên được phát hành ở đây. Trong văn phòng của hoàng
đế Harun al-Rashid người ta đã dùng giấy để viết. Sau đó là các xưởng
sản xuất ở Damascus, Cairo, ở các tỉnh Bắc Phi cho đến cả phía tây.
Người Ả Rập tiếp tục cải tiến kỹ thuật sản xuất. Nhờ vào các rây múc làm
bằng dây kim loại mà người ta đã có thể tạo được hình chìm trên giấy
(watermark). Giấy được phủ keo tốt hơn nhờ sử dụng tinh bột. (Phủ keo là
tráng một lớp mỏng keo trên mặt giấy hay pha keo vào bột giấy lỏng trước
khi múc giấy để giấy láng hơn và ít hút nước hơn, mực viết lem ít hơn.)
Các đơn vị đo lường diện tích được tiêu chuẩn hóa. 500 tờ giấy là một ram
giấy (thếp giấy) – rizmar. Từ này là nguồn gốc cho khái niệm về đơn vị giấy
vẫn còn thông dụng cho đến ngày nay trong ngành giấy: một ram giấy
(tiếng Anh: ream, tiếng Đức: Ries, tiếng Pháp: rame, tiếng Tây Ban
Nha: resma...).
Cho đến nửa sau thế kỷ thứ 19 các sợi cellulose cần dùng được người làm giấy thu lượm từ quần áo cũ làm từ sợi lanh.
Những người thu mua và buôn bán quần áo cũ là những người cung cấp nguyên liệu cho các xưởng xay giấy. Có thời gian
quần áo cũ hiếm đến độ đã bị cấm xuất khẩu và người ta đã dùng đến vũ lực để ngăn chặn việc này.
Trong các xưởng xay giấy giẻ được cắt thành mảnh vụn, đôi khi được rửa sạch và làm cho mục nát và sau đó được đưa
vào máy giã nhỏ thành sợi. Máy giã hoạt động bằng sức nước.
Trong nửa đầu của thế kỷ thứ 19 người ta chuyển qua tẩy bằng clo thay vì làm cho mục nát rồi rửa sạch. Sợi thất thoát rất ít
và ngoài ra còn có thể dùng các loại vải có màu.
Người thợ làm giấy múc tờ giấy từ bột giấy loãng này bằng một cái rây thấp, làm bằng đồng hình chữ nhật có lưới rất tinh,
thành rây có thể tháo ra được. Sau đó một người thợ khác ép tờ giấy từ ray lên trên một tấm nỉ trong khi thợ làm giấy múc
tờ giấy kế tiếp. Sau khi ép xong các tờ giấy được treo lên để phơi khô trong các phòng lớn và khô ráo, chủ yếu là trong các
nhà kho hay trên gác xép. Sau đó giấy được ép thêm một lần nữa, vuốt phẳng, phân loại rồi đóng gói. Nếu là giấy viết thì
phải tráng keo bằng cách nhúng vào keo, ép rồi phơi khô.
Qua cách làm bằng tay này, ngày nay chỉ áp dụng cho các loại sợi – và qua đó là giấy – có chất lượng cao, các sợi nằm
theo các hướng đều nhau.
Máy Hà Lan (một phát minh của các thợ làm giấy người Hà Lan vào khoảng năm 1670) là bước đột phá kỹ thuật hiện đại.
Đấy là một máy sản xuất ra bột giấy không còn dùng giẻ cũ làm vật liệu ban đầu để sản xuất giấy nữa mà phần lớn là từ
các dây thừng, dây cáp và lưới đánh cá. Các vật liệu rất cứng này trước tiên được cắt nhỏ trong một máy giã có một ít búa
ọn (Kapperij) rồi được đưa vào một máy xay (Kollergang) để
đập và nhiều dao nh
được tiếp tục cắt nhỏ đi.
Công nghiệp hóa việc sản xuất giấy[sửa | sửa mã
nguồn]
Máy mài gỗ trong Viện bảo tàng công nghiệp "Alte Dombach" tại Bergisch
Gladbach (Đức)
Từ khoảng năm 1850 máy mài gỗ được đưa vào sử dụng, mở ra khả năng
sản xuất giấy có tầm cỡ công nghiệp từ nguyên liệu gỗ rẻ tiền. Vào khoảng
năm 1879 chỉ ở Đức thôi đã có khoảng 340 xưởng mài gỗ như vậy. Loại
bột gỗ mài dùng làm giấy này còn chứa chất linhin (lignin) sẽ làm giấy bị ố
vàng sau một thời gian. Friedrich Gottlob Keller (1816 – 1895) là người
phát minh ra loại giấy làm từ bột gỗ này.
Sản xuất giấy trong công nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyên liệu[sửa | sửa mã nguồn]
Người ta có thể sản xuất giấy từ nguồn nguyên liệu mới là gỗ, hoặc cũng
có thể sử dụng giấy đã sử dụng làm nguyên liệu.
Trong sản xuất mới, nguyên liệu chính để làm giấy là sợi cellulose từ gỗ
hoặc rơm rạ. Ngoài ra còn cần dùng đến keo và các chất độn. Độ dài của
các sợi cellulose thay đổi tùy theo nguyên liệu làm giấy và có ảnh hưởng
lớn đến chất lượng và độ bền về thời gian của giấy. Không phải loại gỗ
nào cũng có thể dùng làm giấy trong công nghiệp được. Gỗ từ các loại cây
trong bảng dưới đây được coi là thích hợp để dùng làm giấy:
Lược đồ quy trình sản xuất giấy công nghiệp
1 và 2: khai thác gỗ từ rừng
3: Thái mỏng
4: Hấp
5: Làm sạch
6: Đập vụn
7: Trộn nước, hóa chất, phẩm
8: Nhập liệu
9: Ống lăn
10: Trục ép
11: Lô sấy, ép quang
12: Kiểm soát sản xuất
13: Ra cuộn
Cây lá kim (Cây Cây lá rộng (Cây
gỗ mềm): gỗ cứng):
Sồi
Vân sam Dương
Linh sam Cáng lò (Cây
Thông bulô)
Thông rụng lá Bạch đàn (Cây
khuynh diệp)
Điều kiện ở từng địa phương và số lượng có sẵn quyết định loại gỗ nào
được sử dụng làm nguyên liệu nguyên thủy. Các loại cây tăng trưởng
nhanh thí dụ như cây dương đáp ứng được nhu cầu lớn của công nghiệp.
Trên nguyên tắc tất cả các loại có cellulose đều có khả năng được sử dụng
để sản xuất giấy. Giấy cũ ngày càng được sử dụng nhiều hơn để làm
nguyên liệu. Tại Đức, giấy cũ chiếm gần 50% các nguyên liệu được sử
dụng để làm các loại giấy, bìa cứng và các tông.
Ở châu Âu và châu Mỹ người ta còn sử dụng cây lúa mì và lúa mạch đen
để lấy sợi, ở Bắc Phi một số loại cỏ, tại Nhật cho tới ngày nay rơm từ cây
lúa vẫn được sử dụng và ở Ấn Độ là cây tre.
Việc dùng giấy đã qua sử dụng làm nguyên liệu sản xuất giấy hiện là
phương hướng đang phát triển của công nghiệp giấy.
Ưu điểm: việc sử dụng giấy phế liệu làm bột giấy chỉ cần đánh tơi và
nghiền với thời gian ngắn hơn sử dụng gỗ (28 phút so với 45 phút); góp
phần giải quyết các vấn đề về môi trường.
Nhược điểm: bột giấy loại này có độ bụi cao - trên 10 hạt với kích thước
0.4mm²/1m²[3]
Sản xuất bột giấy[sửa | sửa mã nguồn]
Gỗ có thể được xử lý cơ học hay hóa học
Xử lý cơ học[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ máy mài gỗ
Bột gỗ mài trắng: được mài từ gỗ đã được bóc vỏ trong các máy mài
gỗ.
Bột gỗ mài nâu: hình thành khi các cuống cây được thấm ướt trong các
nồi nấu trước khi được mài.
Bột nhiệt cơ: được sản xuất từ phế liệu gỗ được băm nhỏ và vỏ bào
của các xưởng cưa. Theo phương thức TMP (thermo-mechanical pulp),
hay "bột nhiệt cơ", chúng được làm thấm ướt ở 130 °C. Các liên
kết linhin (lignin) nhờ vậy bị yếu đi. Sau đó nước được thêm vào và các
miếng gỗ này được nghiền trong các máy nghiền (refiner). Nếu hóa
chất được sử dụng thêm vào trong lúc thấm ướt phương pháp này
được gọi là phương pháp CTMP (chemo-thermo- mechanical pulp), hay
"bột hóa nhiệt cơ".
Nếu chỉ dùng các phương thức cơ để sản xuất, thành phần của bột gỗ
không phải là các sợi cellulose mà là các liên kết sợi đã được mài và
nghiềm nhỏ ra. Để có thể lấy được sợi nguyên thủy phải dùng đến các
biện pháp xử lý gỗ bằng hóa học.
Xử lý hóa học[sửa | sửa mã nguồn]
Các mảnh gỗ được xử lý hóa học bằng cách nấu. Sau khi nấu 12 đến 15
tiếng các sợi sẽ được tách ra khỏi các thành phần cứng đi cùng với
cellulose. Nhìn theo phương diện hóa học, gỗ bao gồm:
5.
Nhóm này bao gồm giấy được làm từ bột giấy đã tẩy trắng hoặc bột
giấy thu được từ phương pháp chế biến cơ học hoặc hóa cơ, thoả mãn
một trong những tiêu chuẩn sau đây:
2.1. Đối với giấy định lượng ≤ 150g/m²:
2.1.1. Chứa ≥ 10% lượng sợi thu được bằng phương pháp cơ học
hoặc hóa cơ, và:
2.1.1.1. Định lượng ≤ 80g/m²; hoặc
2.1.1.2. Nhuộm màu toàn bộ
2.1.2. Chứa ≥ 8% cặn, và:
2.1.2.1. Định lượng ≤ 80g/m²; hoặc
2.1.2.2. Nhuộm màu toàn bộ
2.1.3. Chứa ≥ 3% cặn, có độ sáng ≥ 60%
2.1.4. Chứa ≥ 3% và ≤ 8% cặn, có độ sáng ≤ 60% và chỉ số
bục (burst index[8]) ≤ 2.5 kPa.m²/g
2.1.5 Chứa ≤ 3% cặn, có độ sáng ≥ 60%, chỉ số bục (burst index) ≤
2.5 kPa.m²/g
2.2. Đối với giấy định lượng ≥ 150g/m²:
2.2.1. Nhuộm màu toàn bộ
2.2.2. Có độ sáng ≥ 60% và:
2.2.2.1. Độ dày ≤ 225 micromet, hoặc
2.2.2.2. Độ dày ≥ 225 micromet nhưng ≤ 508 micromet và lượng cặn
≥ 3%
2.2.3. Có độ sáng ≤ 60%, dộ dày 254 micromet và lượng cặn ≥ 8%
3. Giấy vệ sinh, khăn lau mặt, lau tay, khăn ăn và các loại tương
tự dùng cho mục đích nội trợ, vệ sinh; giấy nỉ xenlulô và giấy nỉ
mỏng bằng sợi xenlulô; có thể đã được làm nhăn, dập nổi, tạo lỗ
châm kim, nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng
cuộn hoặc tờ
4. Giấy và bìa Kraft không hồ trắng, dạng cuộn hoặc tờ: Giấy có
tỷ trọng sợi gỗ thu được bằng phương pháp chế biến hoá
học soda hoặc sunphat chiếm ≥ 80% tổng lượng sợi.
Trong nhóm này có nhóm 4804.11 và 4804.19 giấy gói
hàng được hiểu là giấy được hoàn thiện bằng máy hoặc được
láng bằng máy, có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp chế
biến hoá học soda hoặc sunphat chiếm ≥ 80%, dạng cuộn, định
lượng xấp xỉ 115g/m², có chỉ số cháy Mullerf tối thiểu được tính
bằng phương pháp nội suy hoặc ngoại suy tuyến tính theo bảng
kết quả dưới đây:
Định lượng (g/m²): 115; 125; 200; 300; 400
Chỉ số cháy Mullerf tối thiểu: 393; 417; 637; 824; 961
Trong nhóm này có nhóm 4804.21 và 4804.29 "giấy kraft
làm bao" là giấy được hoàn thiện bằng máy có tỷ trọng sợi
gỗ thu được từ phương pháp ché biến hoá học soda hoặc
sunphat ≥ 80%, dạng cuộn, định lượng ≥ 60g/m² và ≤ 115
g/m², thoả mãn một trong các điều kiện sau:
4.1. Có chỉ số cháy Mullen ≥ 3.7 kPa.m²/g và hệ số căng ≥ 4.5% theo
chiều ngang và ≥ 2% theo chiều máy
4.2. Có chỉ số độ dai và độ giãn được tính bằng phương pháp nội
suy - ngoại suy tuyến tính từ bảng tính dưới đây:
Định lượng
60 70 80 100 115
(g/m²)
5. Giấy và bìa không tráng khác, không hồ khác, dạng cuộn hoặc tờ, chưa
được gia công thêm hoặc xử lý khác
6. Giấy đã sunphua hoá, giấy không thấm mỡ, giấy can (tracing paper)
và giấy bóng kính, các giấy bóng trong và giấy bóng mờ khác, dạng cuộn
hoặc tờ
7. Giấy hỗn hợp được làm bằng cách dán các lớpgiấy phẳng lại với nhau
bởi một lớp keo dính, không hồ trắng hoặc thấm tẩm bề mặt, có hoặc
không có gia cố bên trong, dạng cuộn hoặc tờ.
8. Giấy đã gấp nếp làn sóng (có thể đã được dán các tờ phẳng lên mặt) đã
làm vân, làm nhăn, dập nổi hoặc soi lỗ, dạng cuộn hoặc tờ
9. Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy để saochụp khác (kể cả giấy đã
hồ trắng hoặc thấm tẩm dùng cho máy đánh giấy nến hoặc in bản kẽm) đã
hoặc chưa in, dạng cuộn hoặc tờ
10. Giấy đã hồ trắng (giấy tráng - coated paper) 1 hoặc cả 2 mặt bằng một
lớp cao lanh hoặc các chất vô cơ khác, có thể có thêm chất kết dính,
không có lớp phủ ngoài nào khác, có thể đã nhuộm màu bề mặt, trang trí
hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ
11. Giấy nỉ xenlulô, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô đã hồ trắng, thấm tẩm,
phu nhuộm màu bề mặt, có thể được trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn
hoặc tờ
12. Khối lọc, thanh tấm lọc, bột giấy dạng tấm
13. Giấy cuốn thuốc lá, có thể đã được chia cắt thành miếng nhỏ hoặc
cuốn sẵn thành ống
14. Giấy dán tường và các loại giấy phủ tường tương tự